Top 10 phim hollywood trong 5 năm qua năm 2022
Cuốn theo chiều gió giữ danh hiệu bộ phim có doanh thu cao nhất trong 25 năm và, khi tính đến lạm phát, đã thu về nhiều hơn bất kỳ bộ phim nào
khác.
Phim điện ảnh có nhiều nguồn thu, bao gồm công chiếu ngoài rạp, cho thuê băng đĩa, bản quyền truyền hình và các sản phẩm ăn theo. Tuy nhiên, doanh thu phòng vé là thước đo chính để đánh giá mức độ thành công của một bộ phim, chủ yếu vì nó thường công khai hơn số liệu của video tại gia và quyền phát sóng, đồng thời vì thông lệ lịch sử. Sau đây là danh sách của những bộ phim có doanh thu phòng vé cao nhất (xếp theo cả giá trị thật và giá trị danh nghĩa của doanh thu), danh sách những phim có doanh thu cao nhất mỗi năm, một dòng thời gian các kỷ lục doanh thu phòng vé, và danh sánh những loạt phim có doanh thu cao nhất. Tất cả danh sách đều được xếp theo doanh thu phòng vé quốc tế nếu có thể, không tính doanh thu từ video tại gia, bán quyền phát sóng, hay sản phẩm ăn theo. Show
Trước đây ở phía Tây bán cầu, phim chiến tranh, phim nhạc kịch và phim lịch sử là những thể loại phổ biến nhất, tuy nhiên vào thế kỷ 21, phim thương hiệu trở thành một trong những thể loại bán chạy nhất. Đặc biểt nổi tiếng là thể loại phim siêu anh hùng, với chín bộ phim thuộc Vũ trụ Điện ảnh Marvel nằm trong danh sách những bộ phim ăn khách nhất theo giá trị danh nghĩa. Bộ phim siêu anh hùng thành công nhất, Avengers: Endgame, cũng là bộ phim có doanh thu cao thứ hai trên bảng xếp hạng doanh thu trên danh nghĩa, và có tổng cộng bốn bộ phim dựa trên loạt truyện tranh Avengers lọt vào top 20 bộ phim đứng đầu. Những loạt phim chuyển thể khác của Marvel Comics cũng đạt được nhiều thành công như Người Nhện và Dị nhân, trong khi những bộ phim dựa trên Người Dơi và Siêu Nhân của DC Comics cũng có doanh thu cao. Star Wars cũng có mặt trên bảng xếp hạng doanh thu danh nghĩa với 5 bộ phim, trong khi các loạt phim Harry Potter, Công viên kỷ Jura và Cướp biển vùng Caribbean đều có tên trên bảng xếp hạng. Mặc dù bảng xếp hạng doanh thu danh nghĩa được thống trị bởi những phim chuyển thể và các loạt phim, đứng đầu danh sách là bộ phim nguyên gốc Avatar. Phim hoạt hình gia đình nhìn chung luôn giữ được mức doanh thu cao, với các phim Disney thường có những lần tái chiếu rất ăn khách trước khi video tại gia trở nên phổ biến. Disney cũng gặt hái thành công với các bộ phim như Frozen I và II, Zootopia, và Vua sư tử (với phiên bản làm lại bằng máy tính là bộ phim hoạt hình có doanh thu cao nhất), cùng với thương hiệu Pixar, trong đó Gia đình siêu nhân 2, Câu chuyện đồ chơi 3 và 4, và Đi tìm Dory là những phim có thành tích tốt nhất. Ngoài hoạt hình của Disney và Pixar, các loạt phim Despicable Me, Shrek và Ice Age cũng gặt hái được nhiều thành công. Tuy lạm phát khiến hầu hết các phim từ những năm 1960 và 1970 không còn nằm trong danh sách, có những thương hiệu từ giai đoạn đó vẫn còn tiếp tục. Ngoài loạt phim Star Wars và Superman, các bộ phim James Bond và Star Trek vẫn thường xuyên được công chiếu; đây là bốn trong số những loạt phim ăn khách nhất. Một số phim đạt kỷ lục doanh thu trước kia vẫn có con số đáng nể theo tiêu chuẩn ngày nay, nhưng không còn cạnh tranh được với những bộ phim bom tấn ngày nay khi mà giá vé chiếu rạp cao hơn nhiều. Tuy nhiên, khi số tiền thu về được điều chỉnh theo lạm phát, Cuốn theo chiều gió—bộ phim nắm giữ kỷ lục doanh thu cao nhất trong suốt 25 năm—vẫn là bộ phim ăn khách nhất mọi thời đại. Tất cả doanh thu trong bài viết này đều có đơn vị là đô la Mỹ theo giá trị danh nghĩa, trừ khi được ghi chú cụ thể. Phim có doanh thu cao nhất[sửa | sửa mã nguồn]James Cameron, người biên soạn và đạo diễn bộ phim có doanh thu cao nhất mọi thời đại, Avatar.Với doanh thu phòng vé toàn cầu hơn 2,8 tỷ đô la Mỹ, Avatar được coi là bộ phim có "doanh thu cao nhất", tuy nhiên khẳng định đó thường chỉ nói về doanh thu chiếu rạp mà không tính doanh thu từ video tại gia và truyền hình, đôi khi cấu thành một phần không nhỏ doanh thu của một bộ phim. Khi tính cả doanh thu từ các phương tiện giải trí tại gia, khó xác định rõ ràng bộ phim nào thành công nhất. Titanic thu về 1,2 tỷ USD từ tiền bán và cho thuê video và DVD,[1] cùng với doanh thu phòng vé 2,2 tỷ USD. Tuy số liệu doanh thu đầy đủ của Avatar không được công khai, bộ phim thu về 345 triệu USD từ doanh số 16 triệu DVD và Blu-ray ở Bắc Mỹ,[2] và cuối cùng bán được hơn 30 triệu đĩa DVD và Blu-ray trên toàn thế giới.[3] Nếu tính cả doanh thu video tại gia, cả hai phim đều thu về hơn 3 tỷ đô la Mỹ. Bản quyền phát sóng cũng đóng góp đáng kể cho doanh thu của một bộ phim, với một số phim nhận về 20–25% doanh thu phòng vé qua một vài lần công chiếu trên ti vi;[4] Titanic thu về hơn 55 triệu đô la Mỹ từ quyền phát sóng với NBC và HBO,[1] bằng khoảng 9% doanh thu phòng vé Bắc Mỹ của bộ phim. Khi một bộ phim có những bản quyền thương mại mang lời, doanh thu bổ trợ của nó đôi khi còn lấn át cả doanh thu từ việc công chiếu bộ phim.[5] Vua sư tử (1994) thu về hơn 2 tỷ đô la Mỹ tiền bán vé và video tại gia,[6] nhưng doanh thu cho bản chuyển thể nhạc kịch trên toàn cầu lên đến 8 tỷ đô la Mỹ.[7] Việc bán các sản phẩm ăn theo cũng có thể mang về số lời lớn: Vua sư tử bán hơn 3 tỷ đô la Mỹ sản phẩm ăn theo,[8] trong khi bộ phim Cars của Pixar—một thành công khiêm tốn so với các phim khác của Pixar với doanh thu 462 triệu USD[9]—thu về doanh thu sản phẩm ăn theo hơn 8 tỷ USD trong vòng 5 năm kể từ khi công chiếu năm 2006.[10][11] Pixar cũng thắng lớn với Câu chuyện đồ chơi 3, với tiền bán sản phẩm ăn theo ở mức gần 10 tỷ USD cộng với doanh thu phòng vé hơn 1 tỷ USD của bộ phim.[12] Trong bảng xếp hạng này, các phim được xếp theo doanh thu phòng vé theo giá trị danh nghĩa, cùng với thứ hạng cao nhất mà bộ phim đạt được. Đã có năm bộ phim vượt mốc doanh thu 2 tỷ USD trên toàn cầu, với Avatar đứng ở vị trí số một. Tất cả các phim (bao gồm tái chiếu) đều được phát hành trong thế kỷ 21, và những phim trước đây không xuất hiện trong bảng xếp hạng này là do tác động của lạm phát và quy mô dân số. Nền tô màu chỉ những phim đang được chiếu trong tuần từ ngày 2 Tháng 12 năm 2022 tại các rạp trên toàn thế giới. Dưới đây là doanh sách những phim ăn khách nhất mọi thời đại có doanh thu trên 900 triệu đô FBox Office Mojo ngừng cập nhật doanh thu của Nữ hoàng băng giá vào tháng 8 năm 2014, trong khi nó vẫn đang được công chiếu. Con số được ghi ở đây tổng hợp số liệu doanh thu sau đó ở Nhật Bản, Nigeria, Tây Ban Nha, Anh và Đức cho đến cuối năm 2015 nhưng không tính doanh thu vào khoảng vài trăm ngàn đô la Mỹ ở Thổ Nhĩ Kỳ, Iceland, Brazil, và Úc (2016). Con số tổng cộng được làm tròn đến hàng triệu để bù cho sự sai lệch số liệu. Bộ phim được tái công chiếu ở Anh vào tháng 12 năm 2017 với Frozen: Chuyến phiêu lưu của Olaf thu về thêm 2,3 triệu đô la Mỹ. F8Trong trường hợp của Fast & Furious 8 doanh thu được lấy từ một phiên bản lưu trữ của Box Office Mojo, sau khi phát hiện bất thường trong số liệu. Sự giảm tổng doanh thu của một số nước—Argentina là ví dụ rõ ràng nhất—dẫn đến sự giảm con số tổng doanh thu toàn cầu.[13] RKChúa tể những chiếc nhẫn: Sự trở lại của nhà vua có doanh thu được điều chỉnh năm 2019. Kết quả của điều chỉnh này là Người nhện xa nhà, Đại úy Marvel và Transformers 3: Vùng tối của mặt trăng đều đạt đỉnh ở một bậc thấp hơn so với nguồn được trích dẫn. TS3Box Office Mojo điều chỉnh doanh thu của các phim của Pixar vào tháng 8 năm 2016, dẫn đến doanh thu của Câu chuyện đồ chơi 3 tăng từ 1,063 tỷ lên thành 1,067 tỷ USD.[14][15] Điều này nghĩa là bộ phim xếp hạng cao nhất ở hạng 4, trên Cướp biển vùng Caribbe 2: Chiếc rương tử thần, thay vì hạng 5 như trong nguồn được trích dẫn. DM2Disney điều chỉnh doanh thu của Vua sư tử vào tháng 5 năm 2016, từ 987,5 triệu xuống còn 968,5 triệu USD.[16] Điều này nghĩa là Kẻ trộm Mặt Trăng 2 đạt thứ hạng cao nhất là hạng 19, trên Vua sư tử, thay vì hạng 20 như trong nguồn được trích dẫn. Phim có doanh thu cao nhất tính theo lạm phát[sửa | sửa mã nguồn]Tỉ lệ lạm phát của mỗi quốc gia khác nhau, làm cho việc điều chỉnh theo lạm phát khó khăn.Do tác động dài hạn của lạm phát, đặc biệt là sự tăng đáng kể giá vé chiếu rạp, danh sánh không điều chỉnh lạm phát có xu hướng thiên về những phim ra mắt sau.[17] Tuy thường xuất hiện trong truyền thông, danh sách không tính lạm phát đó đa phần vô dụng cho việc so sánh những phim được chiếu ở những thời điểm cách xa nhau, bởi nhiều phim từ những giai đoạn trước sẽ không bao giờ xuất hiện trên một bảng xếp hạng không tính lạm phát, ngay cả khi thành công hơn về mặt thương mại khi tính đến việc giá cả tăng cao.[18] Để bù đáp cho việc tiền tệ mất giá, một số bảng xếp hạng điều chỉnh theo lạm phát, nhưng ngay cả điều này cũng không giải quyết hoàn toàn vấn đề vì giá vé và lạm phát không nhất thiết tỉ lệ với nhau. Ví dụ, trong năm 1970, một vé xem phim có giá 1,55 đô la Mỹ hay khoảng 6,68 đô la Mỹ theo giá tiền 2004; đến năm 1980, giá vé đã tăng lên mức khoảng 2,69 đô la Mỹ, nhưng chỉ tương đương với 5,50 đô la Mỹ theo giá tiền 2004.[19] Giá vé cũng tăng ở các mức lạm phát khác nhau trên thế giới, càng gây khó khăn cho quá trình điều chỉnh doanh thu toàn cầu.[17] Một trở ngại khác là việc công chiếu bằng nhiều định dạng với những mức giá vé khác nhau. Một ví dụ nổi bật cho hiện tượng này là Avatar, cũng được phát hành trong định dạng 3D và IMAX: gần hai phần ba số vé cho bộ phim là các suất chiếu 3D với giá trung bình là 10 đô la Mỹ, và khoảng một phần sáu là các suất chiếu IMAX với giá vé trung bình 14,50 đô la Mỹ, so với mức giá trung bình 7,61 đô la Mỹ cho phim 2D năm 2010.[20] Các yếu tố xã hội và kinh tế như gia tăng dân số[21] và sự phát triển của thị trường quốc tế[22][23][24] cũng tác động đến số người mua vé xem phim, cũng như thành phần khán giả trong đó một số phim có tỉ lệ vé trẻ em rất cao, hoặc thu hút với khán giả thành thị nơi giá vé thường cao hơn trung bình.[18] Thước đo mức độ thành công của một bộ phim dựa trên doanh thu danh nghĩa, chủ yếu là vì đây là thông lệ được ngành điện ảnh thực hiện trong quá khứ: biên lai phòng vé được các rạp phim thu thập và trả về cho nhà phân phối rồi được công bố cho truyền thông.[25] Việc đổi sang một hệ thống đo số vé bán ra thay vì doanh thu cũng có nhiều vấn đề bởi số liệu cho những phim cũ thường chỉ có tổng doanh thu.[21] Ngành làm phim cũng có thiên hướng quảng bá cho những phim đang được công chiếu, dẫn đến việc sử dụng số liệu không lạm phát trong các chiến dịch quảng bá để những phim bom tấn mới đạt được thứ hạng doanh thu cao hơn để thu hút người xem.[19][25][26] Mặc cho những khó khăn trong việc điều chỉnh cho lạm phát, một số bảng xếp hạng như thế đã được đưa ra. Các ước tính dựa trên chỉ số giá để điều chỉnh doanh thu[26] và tỷ giá hối đoái để đổi các đơn vị tiền tệ, cả hai đều có thể tác động đến thứ hạng trong một danh sách tính đến lạm phát. Cuốn theo chiều gió—công chiếu năm 1939—thường được coi là bộ phim thành công nhất, với Sách Kỷ lục Guinness năm 2014 ước tính doanh thu toàn cầu của bộ phim là 3,4 tỷ đô la Mỹ đã tính lạm phát. Tuy nhiên, các ước tính doanh thu của Cuốn theo chiều gió chênh nhau đáng kể: chủ sở hữu bộ phim, Turner Entertainment, ước tính doanh thu điều chỉnh của nó là 3,3 tỷ đô la Mỹ trong năm 2007;[27] những ước tính khác dao động từ dưới 3 tỷ đô la Mỹ năm 2010,[28] cho đến 3,8 tỷ đô la Mỹ năm 2006.[29] Bộ phim xếp thứ hai sau Cuốn theo chiều gió tùy thuộc vào nguồn số liệu được dùng: Guinness xếp Avatar thứ hai với doanh thu 3 tỷ đô la Mỹ, trong khi những ước tính khác đặt Titanic ở vị trí thứ hai với doanh thu toàn cầu khoảng 2,9 tỷ đô la Mỹ theo giá năm 2010.[28] InfĐiều chỉnh lạm phát được thực hiện sử dụng chỉ số giá tiêu dùng cho các nền kinh tế phát triển được công bố bởi Quỹ Tiền tệ Quốc tế.[31] Chỉ số này được áp dụng cho toàn bộ doanh thu trong bảng xếp hạng của Sácg Kỷ lục Guiness năm 2014, bắt đầu từ chỉ số năm 2014. Số liệu trong bảng trên tính đến lạm phát cho các năm từ 2014 đến 2020. ADoanh thu điều chỉnh của Avatar bao gồm doanh thu từ lần công chiếu đầu tiên và Phiên bản Đặc biệt năm 2010, nhưng không tính lần chiếu lại năm 2020 và 2021. TDoanh thu điều chỉnh của Titanic do Guiness ghi nhận tăng khoảng 102.000.000 USD giữa phiên bản năm 2012 (xuất bản năm 2011) và năm 2015, một mức tăng 4,2% bằng với các phim khác trong bảng xếp hạng, mà không tính lần tái chiếu bằng 3D năm 2012.[30][32] Bảng xếp hạng trên tính cả doanh thu 343.550.770 USD từ lần chiếu lại và tính từ chỉ số giá năm 2014.[33] Titanic thu về thêm $691,642 trong một đợt tái chiếu giới hạn năm 2017 nhân kỷ niệm 20 năm, nhưng con số này không được tính trong tổng số điều chỉnh.[34] AEDoanh thu của Avengers: Hồi kết được điều chỉnh bằng chỉ số giá năm 2020. Phim có doanh thu cao nhất năm[sửa | sửa mã nguồn]Số liệu phòng vé thường được ghi nhận dưới dạng tổng biên lai hoặc tiền thuê nhà phân phối, dạng sau đặc biệt phổ biến với những phim cũ. Thường bị nhầm với doanh thu video tại gia, tiền thuê là tỉ lệ doanh thu chiếu rạp của một bộ phim thuộc về nhà phân phối, tức tổng doanh thu trừ phần các rạp chiếu phim giữ.[35][36] Trong quá khứ, giá tiền thuê vào khoảng 30–40% khi nhà phân phối cũng giữ quyền sở hữu rạp phim, tức các nhà phân phối thu về hơn một phần ba doanh thu.[37] Trong thị trường ngày nay, giá tiền thuê phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau—tuy nhiên phim từ các hãng lớn thường trung bình ở mức 43%.[35] Đầu thế kỷ 20, thị hiếu khán giả khá đa dạng, tuy nhiên cũng có một số xu hướng xuất hiện. Trong thời kỳ phim câm, phim với chủ đề chiến tranh trở nên nổi tiếng, với The Birth of a Nation (Nội chiến Mỹ), The Four Horsemen of the Apocalypse, The Big Parade và Wings (đều là Thế chiến I) trở thành những phim thành công nhất năm nó ra mắt, và dần hạ nhiệt với All Quiet on the Western Front năm 1930. Phim có tiếng ra đời năm 1927 dẫn đến sự phổ biến của thể loại ca nhạc, và cả năm 1928 và 1929 đều do phim ca nhạc dẫn đầu phòng vé. Thể loại ca nhạc tiếp tục thịnh hành trong những năm 1930, nhưng với Thế chiến II nổ ra chứng kiến một lần nữa sự thống trị của những phim chiến tranh, bắt đầu từ Cuốn theo chiều gió (Nội chiến Mỹ) năm 1939, và kết thúc với The Best Years of Our Lives (Thế chiến II) năm 1946. Samson and Delilah (1949) mở đầu cho xu hướng phim lịch sử trong bối cảnh La Mã cổ đại/thời kỳ kinh thánh xuyên suốt thập niên 1950 khi mà rạp phim tranh giành người xem với truyền hình,[38] với Quo Vadis, The Robe, The Ten Commandments, Ben-Hur và Spartacus đều trở thành phim có doanh thu cao nhất năm công chiếu, trước khi thể loại này mất dần sức hút sau vài thất bại phòng vé.[39] Thành công của White Christmas và South Pacific trong thập niên 1950 cho thấy sự trở lại của phim ca nhạc trong những năm 1960 với West Side Story, Mary Poppins, My Fair Lady, The Sound of Music và Funny Girl nằm trong nhóm những phim thành công nhất thập kỷ. Thập niên 1970 chứng kiến sự biến chuyển trong thị hiếu khán giả sang những phim high concept, với sáu phim đứng đầu phòng vé thập niên 1980 thuộc về hai đạo diễn George Lucas và Steven Spielberg. Thế kỷ 21 cho thấy sự lớn mạnh của các loạt phim và chuyển thể, với đại đa số các phim dẫn đầu phòng vé đều dựa trên những công trình trước đó.[40] Đạo diễn Steven Spielberg có sáu phim dẫn đầu phòng vé của năm, và ba phim có doanh thu cao nhất đến thời điểm đó.Steven Spielberg là đạo diễn xuất hiện nhiều nhất trong bảng xếp hạng, với sáu phim do ông chỉ đạo, đứng đầu phòng vé các năm 1975, 1981, 1982, 1984, 1989 và 1993. Cecil B. DeMille (1932, 1947, 1949, 1952 và 1956) và William Wyler (1942, 1946, 1959 và 1968) đứng thứ hai và thứ ba, lần lượt với năm và bốn phim, còn D. W. Griffith (1915, 1916 và 1920), George Roy Hill (1966, 1969 và 1973), James Cameron (1991, 1997 và 2009) và anh em nhà Russo (2016, 2018 và 2019) mỗi người có ba phim. George Lucas đạo diễn hai phim đứng đầu năm 1977 và 1999, nhưng cũng tham gia với vai trò nhà sản xuất và biên soạn trong các năm 1980, 1981, 1983, 1984 và 1989. Những đạo diễn sau cũng có hai phim trên bảng xếp hạng: Frank Lloyd, King Vidor, Frank Capra, Michael Curtiz, Leo McCarey, Alfred Hitchcock, David Lean, Stanley Kubrick, Guy Hamilton, Mike Nichols, William Friedkin, Peter Jackson, Gore Verbinski, và Michael Bay; Mervyn LeRoy, Ken Annakin và Robert Wise có một phim solo và một phim làm chung, và John Ford đồng đạo diễn hai phim. Các phim của Disney thường được đồng đạo diễn và vài người đã tham gia vào một số đội đứng đầu: Wilfred Jackson, Hamilton Luske, Clyde Geronimi, David Hand, Ben Sharpsteen, Wolfgang Reitherman và Bill Roberts đều đã đồng đạo diễn ít nhất hai phim trong bảng xếp hạng. Chỉ có bảy đạo diễn dứng đầu phòng vé trong hai năm liên tiếp: McCarey (1944 và 1945), Nichols (1966 và 1967), Spielberg (1981 và 1982), Jackson (2002 và 2003), Verbinski (2006 và 2007) và anh em nhà Russo (2018 và 2019). Vì đặc điểm của lịch công chiếu—đặc biết với những phim ra mắt gần cuối năm—và thời gian ra mắt khác nhau trên thế giới, nhiều phim được chiếu trong hai năm lịch; và do đó tổng doanh thu ở đây không giới hạn trong năm bắt đầu công chiếu. Con số này cũng không giới hạn trong đợt chiếu rạp đầu tiên, bởi nhiều phim cũ thường xuyên được tái chiếu nên con số ở đây là tổng doanh thu của tất cả các lần chiếu; doanh thu của đợt chiếu đầu tiên được để trong ngoặc nếu có. Vì số liệu không hoàn toàn đầy đủ, khó có thể biết chính xác một phim thu về bao nhiêu và khi nào, nhưng nhìn chung bảng xếp hạng này ghi nhận mỗi phim của năm mà có doanh thu ở cuối đợt phát hành là lớn nhất. Trong trường các ước tính mâu thuẫn nhau, cả hai phim được liệt kê, và trong trường hợp một phim tăng bậc nhờ tái chiếu, phim đứng đầu trước đó cũng được giữ lại. Nền tô màu chỉ những phim đang được chiếu trong tuần từ ngày 2 Tháng 12 năm 2022 tại các rạp trên toàn thế giới. (...) Do doanh thu không giới hạn trong lần công chiếu đầu tiên, doanh thu của lần chiếu đầu được để trong ngoặc sau tổng doanh thu nếu có. *Doanh thu ở Hoa Kỳ và Canada. RTiền thuê nhà phân phối. TBAChưa xác định. INKhông có nguồn hiện đại nào cung cấp số liệu cho Hai vạn dặm dưới biển, tuy nhiên The Numbers đưa ra con số 8.000.000 USD cho doanh thu phòng vé Bắc Mỹ.[44] Tuy nhiên, nhiều khả năng con số này bị nhầm với doanh thu của bản làm lại năm 1954, cũng thu về 8.000.000 USD tiền thuê ở Bắc Mỹ.[45] FHMột số nguồn như The Numbers khẳng định Aloma of the South Seas là phim ăn khách nhất năm, thu về 3 triệu USD.[46] Tuy nhiên, không có nguồn hiện đại nào cung cấp số liệu cho Aloma of the South Seas, cho nên không rõ con số 3 triệu USD đến từ đâu. Nếu là tổng tiền thuê thì nó sẽ là một trong những phim ăn khách nhất của thời kỳ phim câm, một điều khó xảy ra khi mà cả International Motion Picture Almanac và Variety không đưa bộ phim vào danh sách của họ. SSKhông rõ số liệu của Sunny Side Up là của Bắc Mỹ hay quốc tế. Những nguồn khác đưa ra con số doanh thu 2 triệu USD,[47] dẫn đến ý kiến cho rằng con số cao hơn là số liệu phòng vé quốc tế.[48] ONSố liệu của It Happened One Night không hoàn toàn thể hiện thành công của nó: bộ phim được phân phối trong một gói gồm hơn hai mươi phim Columbia khác, và tổng doanh thu được tính trung bình; doanh thu thật sự sẽ cao hơn nhiều. S7Doanh thu 418 triệu USD của Bạch Tuyết không tính doanh thu ngoài Bắc Mỹ kể từ năm 1987. GWDoanh thu từ lần chiếu đầu của Cuốn theo chiều gió không được xác định rõ ràng. Các nguồn hiện đại hay đưa ra con số 32 triệu USD Tiền thuê nội địa và các bảng xếp hạng thường sử dụng con số này;tuy nhiên, nhiều khả năng đây là tiền thuê quốc tế. Tạp chí thương mại thu thập dữ liệu từ các nhà phân phối hoặc khảo sát các rạp chiếu phim và đưa ra ước tính. Các nhà phân phối thường công bố con số tiền thuê quốc tế vì doanh thu cao hơn làm bộ phim có vẻ thành công hơn, trong khi các ước tính chỉ giới hạn trong phòng vé Bắc Mỹ; do đó không quá lạ khi số Tiền thuê nội địa và quốc tế bị lẫn lộn. Sau khi Thế chiến thứ hai nổ ra, nhiều thị trường quốc tế phải đóng cửa nên thông lệ trở thành báo cáo con số phòng vé Bắc Mỹ.[48] Theo đó, Tiền thuê nội địa của Cuốn theo chiều gió được điều chỉnh thành 21 triệu USD năm 1947 (11 triệu USD thấp hơn con số trước đó),[49] và đến năm 1953—sau lần tái chiếu năm 1947—Variety thông báo doanh thu là 26 triệu USD.[50] Trong năm 1956, MGM ghi nhận doanh thu ở Bắc Mỹ là 30.015.000 USD và quốc tế là $18.964.000 qua ba lần chiếu.[51] Tiền thuê quốc tế 32 triệu USD từ lần chiếu đầu khớp với số liệu sau đó: chúng cho thấy bộ phim thu về 21 triệu USD ở Bắc Mỹ và 11 triệu USD ngoài Bắc Mỹ từ lần chiếu đầu, và thu về thêm 9 triệu USD ở Bắc Mỹ và 8 triệu USD ngoài Bắc Mỹ qua những lần tái chiếu cho đến năm 1956. MDMom and Dad thường không xuất hiện trong các danh sách phim có doanh thu cao như của Variety do được phân phối độc lập. Về cơ bản là phim thương mại, nó được quảng bá là bộ phim giáo dục sức khỏe tình dục để tránh luật kiểm duyệt. Không tuân thủ Luật Sản xuất Phim Điện ảnh, Mom and Dad bị cấm phân phối rộng rãi mà chỉ được chiếu trong các rạp phim độc lập và drive-in. Đây là bộ phim thành công nhất thể loại, và vẫn được phân phối cho đến thập niên 1970 khi mà Khiêu dâm hardcore dần chiếm lĩnh thị trường. Đến cuối năm 1947 bộ phim thu về 2 triệu USD, và đến năm 1949, 8 triệu; đến năm 1956 nó đã thu về 22 triệu USD tiền thuê, với tổng doanh thu 80 triệu USD, và lọt vào top 10 bộ phim cuối những năm 1940, đầu những năm 1950. Các ước tính tổng doanh thu lên đến con số 100 triệu USD. UNChopra-Gant nói con số của Unconquered là doanh thu Bắc Mỹ, nhưng cũng như nhiều bộ phim khác thời đó, danh sách nhầm lẫn giữa doanh thu Bắc Mỹ và quốc tế. Các nguồn khác nói rằng con số của Forever Amber (8 triệu USD) và Life with Father (6,5 triệu USD)[52] là tiền thuê quốc tế, do đó có khả năng điều này cũng đúng với Unconquered. CICon số của Cinerama là tổng doanh thu. Vì Cinerama sở hữu các rạp chiếu phim nên không có phí thuê cho các bộ phim này, tức hãng làm phim nhận 100% doanh thu phòng vé, không như hầu hết các phim khác trong đó nhà phân phối thường nhận được không quá nửa doanh thu. Vì Variety vào thời điểm đó xếp hạng phim theo tiền thuê ở Mỹ, họ đưa ra một con số giả định cho các phim của Cinerama để so sánh với những phim khác trong bảng xếp hạng: trong trường hợp của This Is Cinerama, con số 50 triệu USD doanh thu toàn cầu được tính lại thành 12,5 triệu tiền thuê ở Mỹ; có vẻ như công thức của Variety là chia đôi doanh thu để xấp xỉ doanh thu ở Mỹ, và chia đôi lần nữa để xấp xỉ tiền thuê. Con số 12,5 triệu này của Variety thường được trích dẫn, nhưng không thể hiện khách quan con số thực của bộ phim mà chỉ là số liệu giả định được đưa ra để phân tích so sánh.[53] Cả năm phin Cinerama cộng lại đã thu về 120 triệu USD doanh thu phòng vé trên toàn thế giới.[54] GSVariety đưa ra tiền thuê quốc tế của The Greatest Show on Earth vào khoảng 18,35 triệu USD (với 12,8 triệu USD đến từ Hoa Kỳ[45]) một năm sau khi phát hành; tuy nhiên, Birchard ước tính doanh thu của bộ phim là 15 triệu USD cho đến năm 1962. Nhiều khả năng con số của Birchard chỉ là tiền thuê ở Bắc Mỹ, và tính cả doanh thu từ các lần tái chiếu năm 1954 và 1960. SWDoanh thu "lần chiếu đầu" của Star Wars không tính các lần chiếu phiên bản đặc biệt năm 1997; tuy nhiên, con số này có tính doanh thu từ các lần tái chiếu trước đó. HPKinh phí sản xuất được tính chung với Harry Potter và Bảo bối tử thần – Phần 1. Loạt phim và thương hiệu có doanh thu cao nhất[sửa | sửa mã nguồn]Trước năm 2000, chỉ có bảy loạt phim có doanh thu phòng vé hơn 1 tỷ đô la Mỹ: James Bond,[55] Star Wars,[56] Indiana Jones,[57] Rocky,[58][59][60] Batman,[61] Công viên kỷ Jura,[62] và Star Trek.[63] Kể từ đầu thế kỷ, con số đã tăng lên hơn 70 (không tính những bom tấn đơn lẻ như Avatar, Titanic, và Zootopia).[64] Điều này chủ yếu vì lạm phát và sự tăng trưởng của thị trường, nhưng cũng bởi việc sử dụng mô hình thương hiệu của Hollywood: những phim với danh tiếng có sẵn, như là dựa trên một nguyên tác văn học hoặc một nhân vật nổi tiếng. Phương pháp này dựa trên ý tưởng rằng phim liên quan đến những thứ khán giả đã biết có thể được quảng bá hiệu quả hơn, và do đó giới trong ngành gọi là phim "bán trước".[65] Một thương hiệu thường được định nghĩa là ít nhất hai tác phẩm dựa trên một tài sản trí tuệ chung. Một đặc trưng cơ bản của mô hình thương hiệu là khái niệm crossover, nghĩa là "một câu chuyện mà trong đó nhân vật hay ý tưởng từ hai hoặc nhiều tác phẩm khác gặp nhau".[66] Một hệ quả của crossover là tài sản trí tuệ có thể được sử dụng bởi nhiều hơn một thương hiệu. Ví dụ, Batman đại chiến Superman: Ánh sáng công lý không chỉ thuộc về thương hiệu Batman và Superman, mà còn thuộc Vũ trụ Mở rộng DC, một vũ trụ liên kết, một loại crossover mà trong đó nhân vật từ các tác phẩm hư cấu khác nhau cùng chia sẻ một thế giới hư cấu chung.[67] Vũ trụ liên kết thành công nhất trên màn ảnh là Vũ trụ Điện ảnh Marvel, một crossover giữa nhiều tài sản siêu anh hùng sở hữu bởi Marvel Comics, và là thương hiệu ăn khách nhất với doanh thu phòng vé hơn 25 tỷ đô la Mỹ. Loạt phim Star Wars là thương hiệu ăn khách nhất dựa trên một tài sản duy nhất, thu về hơn 10 tỷ USD tại phòng vé (tuy nhiên các phim James Bond của Eon thu về hơn 18 tỷ USD khi được điều chỉnh lạm phát).[69] Nếu tính cả các nguồn thu bổ sung thì Star Wars là tài sản có giá trị nhất;[70] giữ kỷ lục Guinness cho "thương hiệu phim ảnh thành công nhất" và được định giá vào mức 19,51 tỷ bảng Anh năm 2012 (khoảng 30 tỷ USD).[71][72] Vũ trụ Điện ảnh Marvel có nhiều phim trên 1 tỷ USD nhất với 9 phim. Bốn bộ phim Avengers và hai bộ phim Frozen là hai thương hiệu có mỗi phần đều có doanh thu hơn 1 tỷ USD. Cùng với Vua sư tử, đây cũng là những thương hiệu duy nhất có mức doanh thu trung bình đạt trên 1 tỷ USD mỗi phim. Nền tô màu chỉ những phim đang được chiếu trong tuần từ ngày 2 Tháng 12 năm 2022 tại các rạp trên toàn thế giới. Loạt phim và thương hiệu ăn khách nhất[§](Có thể xem các phim trong mỗi thương hiệu bằng cách nhấn "hiện".)
SVũ trụ liên kết trong đó một số tài sản cũng có loạt phim riêng. *Doanh thu tại Mỹ và Canada. RTiền thuê nhà phân phối. Xem thêm[sửa | sửa mã nguồn]
Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]
Nguồn doanh thu phòng vé[sửa | sửa mã nguồn]
§ Nguồn loạt phim và thương hiệu[sửa | sửa mã nguồn]
Sách tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]
Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]
50 bộ phim hay nhất của những năm 2010Từ các bộ phim bom tấn siêu anh hùng đến các tài liệu thử nghiệm, 'Mạng xã hội' đến 'ký sinh trùng' - những lựa chọn của chúng tôi cho những bộ phim vĩ đại nhất trong thập kỷ qua Đó là điều tốt nhất trong nhiều thập kỷ, đó là WTF nhiều thập kỷ nhất - nhìn lại những bộ phim được xác định cả những năm 2010 cả về mặt phê bình và thương mại, nó gần như không thể đóng đinh vào môi trường cụ thể trong một vài từ hoặc cụm từ ngắn gọn. . Khoảng 10 năm cho rằng điện ảnh-không chỉ là một từ ở New York, vì những gì nó có giá trị-đã đối phó với một cuộc khủng hoảng danh tính. Một bộ phim của người Viking là gì, dù sao? Đây có phải là một bộ phim tài liệu gần tám giờ, được chiếu trong một nhà hát? Đây có phải là một dự án thú cưng điều khiển Auteur đã ra mắt trên một dịch vụ phát trực tuyến? Đây có phải là một chương trình truyền hình được thực hiện bởi một đạo diễn mà các nhà phê bình phim yêu thích? (Câu trả lời cho câu hỏi cuối cùng đó là một tiếng vang không.) best of decades, it was the most WTF of decades — looking back on the movies that came to define the 2010s both critically and commercially, it’s nearly impossible to nail the particular arc of the medium in a few concise words or phrases. (Though “A24,” “superheroes” and “now streaming” immediately come to mind.) You can argue that every that-was-the-era-that-was summary charts an art form in some sort of transition, but this particular 10-year span suggested that cinema — not just a New York word, for what it’s worth — was dealing with one hell of an identity crisis. What was a “movie,” anyway? Was it a nearly eight-hour, multipart documentary that showed in a theater? Was it an auteur-driven pet project that debuted on a streaming service? Was it a TV show made by a director that film critics loved? (The answer to that last one is a resounding no.) Chúng tôi bắt đầu một thập kỷ với một bộ phim về một người tiên phong truyền thông xã hội, người đã giúp internet làm cho phương thức giao tiếp chính của chúng ta và kết thúc nó bằng một câu chuyện dài, hoành tráng của nhà làm phim sống vĩ đại nhất của Mỹ mà hầu hết mọi người sẽ thấy trên Netflix. Vào năm 2010, khái niệm về một vũ trụ điện ảnh của người Hồi giáo dường như đã rất xa vời. Nó bây giờ là mô hình Hollywood-Studio thống trị. Không ai có thể đoán sẽ có 23 bộ phim Marvel, và bộ ba Star Wars mới với một số bộ phim spin-off, và cả một loạt các tác phẩm kinh điển hoạt hình được làm lại thành những cảnh tượng trực tiếp. Không ai biết rằng Disney sẽ sở hữu tất cả chúng. 50 bộ phim chúng tôi chọn là tác phẩm hay nhất trong thập kỷ bao gồm rất nhiều loại truyền thống-bộ phim bom tấn, phim Arthouse, Ấn Độ, hit do studio tài trợ (và bỏ lỡ), phim tiếng nước ngoài, tài liệu, xe sao, dự án điều khiển đạo diễn-và kéo dài toàn cầu. Họ liên quan đến người ngoài hành tinh, các nữ anh hùng sau sinh, xã hội đen, biểu tượng văn học, các vị thánh, tội nhân, kẻ giết người, một quái vật tên là Monsieur Merde và thậm chí, đôi khi, con người bình thường. Một số phản ánh thời gian chúng tôi sống; Một số giúp chúng tôi thoát khỏi họ trong vài giờ. Nhưng trên hết, mỗi người nhắc nhở chúng tôi rằng, trong mười năm qua, có rất nhiều bộ phim làm chúng tôi thất vọng, phá vỡ chúng tôi, sợ chúng tôi, an ủi chúng tôi và khiến chúng tôi cảm thấy gần gũi hơn với đồng nghiệp Homo Sapiens. Họ đại diện cho các 10s 10. Họ cũng cảm thấy vượt thời gian. HITS HITS BOXTING (Nội địa) mọi thời đại và các bộ phim hàng đầu theo thập kỷ và năm: Thu nhập phòng vé thường là một yếu tố dự báo tuyệt vời về các bộ phim dài, được yêu thích nhất, thành công và phổ biến. Tuy nhiên, chúng không nhất thiết phản ánh những bộ phim hay nhất (hoặc lớn nhất) trong năm hoặc thập kỷ. Họ cũng cung cấp một cửa sổ vào thời đại khi bộ phim ban đầu được phát hành. Mặc dù hồ sơ phòng vé thường mâu thuẫn, không đáng tin cậy và đôi khi không tồn tại (bạn càng quay trở lại trong lịch sử điện ảnh), nhưng có thể biên soạn danh sách các bản hit trong nước hàng đầu từ năm 1913-cả hai (Bắt đầu với Silents và những năm 1920) và vào năm cá nhân, cho đến năm nay. Xếp hạng của các bộ phim dài nhất của Hoa Kỳ theo thập kỷ (dựa trên tổng doanh thu trong nước chưa được điều chỉnh) được trình bày dưới đây. Ngoài ra, bảng xếp hạng của các bộ phim hàng đầu theo năm được bao gồm. Trong những ngày trước, kéo dài từ những năm 1920 đến những năm 1940, tổng số tiền đô la chính xác cho các bộ phim tại phòng vé thường được tính khác nhau, và do đó vẫn có phần không đáng tin cậy. Ví dụ về các nguồn cho thông tin này bao gồm: các con số, mojo phòng vé, IMDB hoặc IMDBPRO (đăng ký), StatS-A-Mania, Wikipedia, xếp hạng phim cuối cùng và bài viết nội bộ kinh doanh (ví dụ về liên kết có sẵn tại thời điểm hiện tại) . Sự khác biệt giữa mỗi nguồn này đã đưa ra một thách thức để chọn bộ phim có doanh thu trong nước hàng đầu mỗi năm. Trong hầu hết các trường hợp, bộ phim trong nước có thu nhập cao nhất là bộ phim có nhiều đề cập nhất là bộ phim có doanh thu cao nhất. In earlier days stretching from the 1920s to the 1940s, exact dollar grosses for films at the box-office were often tallied differently, and therefore remain somewhat unreliable. Examples of sources for this information include: The Numbers, Box-Office Mojo, IMDb, or IMDbPro (subscription), Stats-A-Mania, Wikipedia, Ultimate Movie Rankings, and a Business Insider article (examples of links available at present time). Discrepancies between each of these sources presented a challenge to select the top domestic-grossing film of each year. In most cases, the top-earning domestic film was the one with the most mentions as the highest-grossing film.
Mười năm trước, Netflix là một công ty DVD vô hại, Tsunami Marvel vừa thử nghiệm nước với Đế chế Iron Iron, và Thor Thor, và Đế chế Star Star Wars vẫn thuộc về George Lucas, chứ không phải Disney. Người nổi tiếng duy nhất trở thành Tổng thống Hoa Kỳ là giờ đi ngủ của Bonzo, ngôi sao của Bonzo, Ronald Reagan, Amazon là nơi bạn đã mua sách giá rẻ không phải là người chi tiêu lớn nhất tại Liên hoan phim Sundance, và Đám mây là một thứ gì đó của Carl Fredricksen House trôi nổi ở trên thay vì cách mọi người chiếu phim Pixar. Vì sợ những mô tả đó khiến bạn cảm thấy hoài cổ, hãy nhớ rằng, ngoài những bộ phim Twilight, phim Hollywood Hollywood chủ yếu được thực hiện bởi và về những người đàn ông da trắng. Khán giả đã tìm thấy tiếng nói của họ trong thập kỷ qua, cho ngành công nghiệp biết họ cảm thấy thế nào - và các hãng phim đã lắng nghe, hoặc ít nhất là bắt đầu, khi những lời chỉ trích về #OscarsSowhite và #timesup đã gây ra sự thay đổi địa chấn trong ngành. Có thể mất thêm 10 năm nữa để tác động của các phong trào đó được cảm nhận đầy đủ, trong khi một số độc giả sẽ mong đợi sự tương đương trong các danh sách như thế này, trong đó các nhà phê bình phim đa dạng Owen Gleiberman và Peter Debruge xác định những bộ phim hay nhất trong thập kỷ qua. Nhấn vào đây để đọc danh sách Peter Debruge.Peter Debruge’s list. Owen Gleiberman từ 10 bộ phim hay nhất1. Mạng xã hội ”(2010) Nó là một trong những bộ phim hoàn hảo đó, như tất cả các tổng thống của người đàn ông, hay là một người đàn ông choáng váng và bối rối, hay mùi ngọt ngào của thành công, mà bạn có thể xem nhiều lần. Nó đau đớn, mê hoặc, scintillates, và cộng hưởng; Mỗi khoảnh khắc là giải trí nhanh nhẹn và cần thiết. Khai thác vào câu chuyện về sáng tạo của Facebook, kiệt tác David Fincher/Aaron Sorkin này chạm vào câu chuyện bên trong của thời đại chúng ta: Làm thế nào phương thức kết nối với người khác qua Internet được phát minh bởi mọi người - như người đam mê có tầm nhìn ớn lạnh nhanh chóng của Jesse Eisenberg-& nbsp; những người gặp vấn đề nghiêm trọng khi kết nối theo bất kỳ cách nào khác. Vì vậy, họ đã phát minh ra một thế giới mới dũng cảm bằng cách đồng bộ hóa nó với tinh thần của sự tách rời của chính họ. Mạng lưới xã hội là người chuẩn bị và hài hước, bi thảm và phấn khích, được nói với loại sự hoảng loạn có dây cao dễ dàng khiến bạn tin vào sức mạnh của phim ảnh. 2. Land La Land (2016) Bộ phim vui vẻ nhất của thập kỷ, và niềm vui không phải là một phẩm chất mà chúng ta nên coi là điều hiển nhiên (đặc biệt là những ngày này). Nhưng trong những vở nhạc kịch tuyệt vời như Hồi Singin, trong Rain, hay Moulin Rouge! Hoặc là những chiếc ô của Cherbourg, niềm vui thường là mặt trái của một loại u sầu cuồng nhiệt, một thứ cho phép chúng ta có thể kể về sự sống và tình yêu và tình yêu đẹp đẽ như thế nào. Và phiên bản kiểu mới của Damien Chazelle, một vở nhạc kịch Hollywood cũ có một nỗi buồn siêu phàm cho phép nó nở rộ thành một bản giao hưởng buồn vui. Phép thuật của bộ phim có những con số âm nhạc hấp dẫn của nó (nghĩ rằng Jacques Demy được dàn dựng với sự háo hức của Young Spielberg), trong câu chuyện khốn khổ của hai nghệ sĩ giải trí Lovestruck (Ryan Gosling và Emma Stone), những người không thể nhận được Niềm đam mê của họ trên đường đua, và trong sự tận tâm của Chazelle đối với sự kỳ diệu của Old Hollywood, điều này làm cho mọi khoảnh khắc của La La La Land cảm thấy như một ngày mặt trời khác.decade, and joy is not a quality we should take for granted (especially these days). But in great musicals like “Singin’ in the Rain” or “Moulin Rouge!” or “The Umbrellas of Cherbourg,” joy is often the flip side of a kind of rapturous melancholy, one that allows us to take stock of how beautiful (and fleeting) life and love can be. And Damien Chazelle’s new-style version of an old-school Hollywood musical has a core of sublime sadness that lets it blossom into a bittersweet symphony. The film’s magic is there in its entrancing musical numbers (think Jacques Demy staged with the eagerness of young Spielberg), in the wistful tale of two lovestruck entertainers (Ryan Gosling and Emma Stone) who fall for each other yet can’t seem to get their passion on track, and in Chazelle’s devotion to the wonder of Old Hollywood, which makes every moment of “La La Land” feel like another day of sun. 3. Mad Mad Max: Fury Road (2015) Một bộ phim rất nhanh và giận dữ đến nỗi tôi yêu nó lần đầu tiên, khi xem thêm, tôi cảm thấy mình học cách xem nó, hướng mắt để đưa vào mỗi bước nhảy vọt và cắt giảm hai giây. Chưa bao giờ có một nhà thơ hành động như George Miller, người trở lại với sự vĩ đại của những người đi xe địa ngục của Ma Mad Max và và The Road Warrior để tạo ra một bộ phim xây dựng sự phấn khích hư vô của họ, sử dụng tốc độ, một lần nữa, không Chỉ để tạo ra sự hồi hộp (mặc dù Chúa biết rằng anh ta làm điều đó) nhưng để thể hiện một tầm nhìn về sự tồn tại - của đàn ông và phụ nữ vượt qua khoảng trống, bám lấy cuộc sống thân yêu, tự hỏi điều gì ngoài sức mạnh của vận tốc của họ sẽ cứu họ. . Theron), người hiện đang lãnh đạo cuộc chiến vì tự do khi chiếc cao su lên đường. 4. Trước khi nửa đêm ”(2013) Câu chuyện về hôn nhân là một bộ phim tuyệt vời về ly hôn, nhưng là thứ ba và mạnh mẽ nhất của Richard Linklater's trước khi các bộ phim là một thứ gì đó thậm chí còn khỏa thân và vận chuyển: một cuộc hành trình qua mê cung tình cảm của một mối quan hệ đang giữ được ngay cả khi nó bắt đầu bắt đầu thất bại. Sau khi chia sẻ một đêm vui vẻ trò chuyện trong Hồi trước khi mặt trời mọc, thì sau đó, một cuộc hội ngộ có được tình yêu mà họ không có đủ niềm tin vào trước khi hoàng hôn, bây giờ, Jesse Jesse (Ethan Hawke) và Céline (Julie Delpy) Một cặp vợ chồng kỳ cựu, với hai cô gái sinh đôi, một tồn đọng của ký ức và một tình yêu đã bị đánh bại với tình cảm và sự oán giận đến nỗi họ có thể nhìn thấy nhau hoàn toàn, và theo một cách khác, không phải vậy. Các công việc đối thoại của Linklater, ở cấp độ của Bergman và Rohmer và, người, người sợ Virginia Woolf ?, Và các diễn viên biến dòng dõi của họ từ hoàng hôn thành nửa đêm thành một thứ gì đó kỳ diệu tự phát. Họ chỉ là hai người trong một căn phòng, tình yêu của họ nhấp nháy như một ngọn nến có thể hoặc không thể đi ra ngoài. 5. Địa ngục hoặc High Water (2016) Thiên đường thể loại tuyệt đối. Đó là về hai anh em, một quý tộc (Chris Pine) và một người không tốt (Ben Foster), và đó cũng là về ăn cắp, đánh bạc, phân biệt chủng tộc, vận mệnh gai góc của gia đình và bí ẩn bướng bỉnh của West Texas, như được thể hiện bởi một Texas già Ranger (Jeff Bridges), người có thể là người giải quyết tội phạm chậm chạp nhất kể từ Columbo. Hiệu ứng cuối cùng là của một bộ phim kinh điển Noir được nói dưới ánh sáng mặt trời, với một cú đấm của nhân loại sẽ đánh bật cơn gió của bạn. 6. Cô phù dâu "(2011) Thú nhận thực sự: Tôi không cười lớn tiếng với rất nhiều bộ phim hài trên màn ảnh, bởi vì tôi luôn cảm thấy như tôi đã nhìn thấy những trò đùa trước đây. Nhưng cho dù tôi có thể xem câu chuyện tình bạn này bao nhiêu lần trong thời đại của sự mất cân bằng một lớp học thụ động và mất cân bằng, tôi cười không kiểm soát được. Đó là bởi vì Kristen Wiig, người đồng sáng tác kịch bản và đóng vai Annie, một cô dâu có đám cưới cao cấp sắp xảy ra của người bạn cũ vì nó là nguyên tố và lãng mạn. Nó không phải là bộ phim đầu tiên chứng minh rằng phụ nữ có thể chơi trò chơi hài kịch, nhưng nó là một trong những bộ phim duy nhất biến kế hoạch thành nghệ thuật bóng chày. 7. "Amour" (2012) Trong hầu hết các bộ phim của mình, đạo diễn người Áo Michael Haneke sử dụng chủ nghĩa Voyeur-Col-Col-Cold của mình để chơi các trò chơi vui nhộn với khán giả. Nhưng trong câu chuyện đáng kinh ngạc này về một cặp đôi Paris Octogenian, do huyền thoại Emmanuelle Riva và Jean-Louis Trintignant thủ vai, Haneke lấy phong cách thả xuống của mình-sự im lặng của người ta - Để kể một câu chuyện về những bí ẩn về tuổi già được thúc đẩy bởi một dòng chảy kinh hoàng và đau lòng xen kẽ. Sau khi nhân vật Riva, bị đột quỵ, cô ấy vừa ở đó chứ không phải ở đó, và những gì mở ra cho thấy một trò chơi mơ ước của Stanley Kubrick về cách tình yêu tìm thấy biểu hiện cuối cùng của nó trong cái chết. Nó là một bộ phim sẽ hút hơi thở của bạn trong sự đồng cảm. 8. “Cây sống” (2011) Sau khi có một ngày nghỉ phép 20 năm từ điện ảnh, Terrence Malick đã trở lại với dòng The The Thin Red Line. Nhưng đó là trong Hồi The Tree of Life, một câu chuyện tuyệt vời về việc lớn lên ở thị trấn nhỏ ở Texas trong những năm 1950, Malick, cuối cùng, đã tạo ra một bộ phim truyền hình sống động cho đến sự kết hợp tối tăm của hai bộ phim huyền thoại của anh ấy trong bộ phim huyền thoại của anh ấy về bộ phim huyền thoại của anh ấy '70s. Trình tự sáng tạo phi thường của Universe-nghĩ rằng Sách Sáng thế gặp, 2001, tất cả đều được thực hiện trong 17 phút-tạo tiền đề cho những gì, về bản chất, là một tầm nhìn siêu việt về trải nghiệm hàng ngày. Máy ảnh của Malick vuốt ve từng khoảnh khắc, biến cuộc sống trong thập niên 50 thành một diorama của Proustian Piatance, và màn trình diễn của Brad Pitt (với tư cách là người cha đòi hỏi nghiêm khắc) và Jessica Chastain (vì người mẹ có sự dịu dàng của anh ta có thể chịu được về việc kích hoạt những cảm xúc nguyên thủy về cha mẹ của chúng ta khi họ còn trẻ đủ để ám ảnh chúng ta trong sự ngây thơ thiếu sót của họ. 9. Nhiệm vụ của người Viking: Không thể - Giao thức Ghost (2011) Khi Tom Cruise, đeo găng tay-Cup điện tử, bò như một con nhện trên bề mặt thủy tinh cao chót của những người đàn ông bình thường của Hitchcock trong hoàn cảnh phi thường; Giống như một siêu anh hùng truyện tranh có sức mạnh của trái đất này; Giống như một ngôi sao điện ảnh đang làm đối diện với việc trải qua các chuyển động - anh ấy sống các chuyển động, biến chúng thành thước đo ngôi sao của anh ấy. Trình tự Vertigo Knockout đó là một tác phẩm kinh điển ngay lập tức, nhưng đạo diễn Brad Bird, trong tâm trí của anh ấy rất khéo léo M M Anh ta duy trì sự phấn khích của một caper được xây dựng xung quanh một loạt những ảo tưởng lớn mà (như công việc đóng thế Cruise Cruise) có thể chỉ là sự thật. Kết quả là bộ phim bom tấn thú vị nhất trong thời đại của nó. 10. “Lady Bird” (2017) Một số khán giả đã không gặp phải sự lộng lẫy của bộ phim truyền hình Greta Gerwig, về một học sinh trung học Sacramento trải qua năm cuối của cô nói những điều như, một bộ phim sắp đến tuổi. Nhưng thiên đường chúng ta đã thấy điều đó trước đây? Đúng, nhưng chúng tôi đã thấy nó được thực hiện như thế này: như một loạt các ảnh chụp trí nhớ được dàn dựng tinh xảo, tất cả đều nhảy về phía trước để tạo ra một toàn bộ lớn hơn so với tổng số phần của nó. Christine, a.k.a. Lady Bird, do Saoirse Ronan thủ vai với một sức thu hút rất nhiều, đó là những phần tình yêu, sự nhầm lẫn và hung dữ, đi từ cậu bé này sang cậu bé tiếp theo, ngớ ngẩn để đối đầu Laurie Metcalf) về vấn đề liệu cô ấy sẽ rời khỏi tổ của California khi cô ấy đi học đại học. Mặc dù vậy, những gì cô ấy thực sự khám phá trong một bộ phim hóa ra là tôn giáo như nó là gai góc, hào hứng và cảm động, là vinh quang của chính cuộc sống. Peter Debruge từ 10 bộ phim hay nhất1. “Cây sống” (2011) Các nghệ sĩ điện ảnh như Carl Theodor Dreyer và Ingmar Bergman đã kiểm tra các câu hỏi về tâm linh và lương tâm bằng cách tước đi công việc của họ theo phong cách dư thừa. Terrence Malick làm điều ngược lại, truyền tải hành động tự kiểm tra & nbsp này; Với bộ phim, bản chất cá nhân mãnh liệt, tôi hiểu tại sao rất nhiều khán giả thấy nó đầy thách thức, khó chịu một cách khó chịu trong rất nhiều chi tiết của nó (như cảnh khủng long). Tuy nhiên, trong việc đưa ra những mối quan tâm của tâm hồn mình, Auteur hiện sinh mời chúng ta khám phá những chủ đề phổ quát nhất: đức tin, gia đình và mất mát. Nhìn lại, tôi cho rằng Malick có thể đã thả một chuỗi nguồn gốc vũ trụ vào bất kỳ bộ phim nào của anh ấy để thêm sức mạnh siêu hình, nhưng đây là phần mà anh ấy đã đủ táo bạo để làm điều đó-& nbsp; và ý nghĩa của- Phim cuộc sống sẽ không bao giờ giống nhau. 2. Secret Secret Sunshine (2010) Đạo diễn Hàn Quốc Lee Chang-Dong đã phá vỡ khán giả Mỹ năm ngoái với nhóm Burn Burning, nhưng kiệt tác thực sự của anh ấy là bộ phim năm 2007 này-không được phát hành ở Hoa Kỳ cho đến năm 2010, giải thích sự bao gồm của nó trong danh sách này. Người chiến thắng giải thưởng Nữ diễn viên xuất sắc nhất tại Liên hoan phim Cannes, Joen Do-Yeon mang đến màn trình diễn của thập kỷ như một góa phụ bị ảnh hưởng bởi nhiều bi kịch. Lúc đầu, cô tìm thấy sự an ủi trong tôn giáo, thậm chí còn đi xa đến thăm con trai của cô bắt cóc trong tù, nhưng khi anh từ chối sự tha thứ của cô, cô lại chộp lấy, đẩy lùi chống lại đức tin mới. Vì bất cứ lý do gì, những bộ phim ngại ngùng trước chủ đề của tôn giáo, đóng vai trò trung tâm trong cuộc sống của rất nhiều người. Không có bộ phim nào của thế kỷ 21 cung cấp một cuộc kiểm tra phức tạp hơn về cuộc đấu tranh cá nhân đó hơn hành trình sử thi của linh hồn. 3. “Amour” (2012) (2012) Một mô hình vai trò của sự kiềm chế, bậc thầy người Áo Michael Haneke tin tưởng khán giả của mình đến nỗi anh ta đưa ra một tình huống khó xử của con người với sự can thiệp phong cách tối thiểu: không có sự di chuyển máy ảnh quét nào, không có tín hiệu âm nhạc melodramatic để kích động sự cảm thông hoặc thao túng cảm xúc. Thay vào đó, Amour Amour dựa vào sức mạnh của tình huống cốt lõi của nó-một người chồng tận tụy (Jean-Louis Trintignant) quyết định cách tốt nhất để hỗ trợ người vợ không hợp lệ của mình (Emmanuelle Riva) kết thúc cuộc đời mình, trong khi con gái trưởng thành của họ (Isabelle Huppert) lập luận một cách ích kỷ Để kéo dài sự đau khổ của cô ấy - và những màn trình diễn sắc thái của ba diễn viên mạnh nhất của Pháp, buộc chúng tôi phải lấp đầy những khoảng trống với các chi tiết từ kinh nghiệm cá nhân của chúng tôi. Không phải ai cũng sẵn sàng cho một bộ phim không cho bạn biết phải nghĩ hay cảm thấy gì, nhưng ít ai hiểu được sức mạnh của sự mơ hồ hơn Haneke, người tiếp cận đã truyền cảm hứng cho người khác, trong số đó . ” 4. Tôi là tình yêu ”(2010) Bị bỏ qua trong nước Ý bản địa của Luca Guadagnino, mối tình lãng mạn xa hoa và lật đổ này - về một người vợ nhập cư (Tilda Swinton) trong một gia đình cao cấp, người đã ngoại tình với người bạn thân nhất của con trai mình - kích thích tất cả các giác quan của chúng tôi mà không cần dùng đến việc sử dụng các mánh lới quảng cáo như 4DX và D-box giúp đỡ chỗ ngồi của bạn và nước hoa spitz trên mặt bạn. Khi khán giả sau đó sẽ trải nghiệm với tên gọi tôi bằng tên của bạn, thì Guadagnino thao túng thị giác và âm thanh - các công cụ sinh đôi theo ý của anh ấy - để mở rộng kinh nghiệm của chúng tôi, để chúng tôi thực sự có thể nếm thử việc nấu ăn, cảm nhận sự vuốt ve của họ và ngửi trong đó họ làm tình. Trong khi đó, bộ phim chính trị cấp tiến chạy ngược lại các giá trị của văn hóa phương Tây, bị tai tiếng bởi ý tưởng rằng một người mẹ có thể từ bỏ gia đình để đi theo trái tim của mình, trong khi nhân vật Swinton, chọn niềm đam mê gia trưởng, mặc dù với một chi phí tình cảm to lớn. 5. Người lái xe (2018) Đây là điều gần gũi nhất với một bộ phim Marvel mà bạn sẽ tìm thấy trong danh sách của tôi-chỉ vì người độc lập của con người thơ ca này đã thuyết phục được Superhero Studio thuê đạo diễn của nó, Chloe Zhao, để điều khiển chương trình sắp tới của The Eternals. Thay vì bán những tưởng tượng, thì người lái, đối phó với sự mong manh của cuộc sống và những hạn chế của Giấc mơ Mỹ khi là một chàng cao bồi trẻ đẹp trai đẹp trai trên cây thông, khu bảo tồn Ấn Độ từ chối chấp nhận rằng một chấn thương sọ não gần như không phải là người đàn ông có nghĩa là anh ta không bao giờ nên có được trên một con ngựa một lần nữa. Câu chuyện gần như thật được lấy cảm hứng từ người đàn ông hàng đầu của Zhao, Brady Jandreau, người đóng vai một phiên bản cứng đầu của chính mình-một thực tiễn mà Lừa ngày càng trở nên phổ biến như các kỹ thuật tài liệu phù hợp với việc làm phim hư cấu trong thập kỷ này. . 6. Con trai của Sau -lơ (2015) Trong thập kỷ qua, một từ rắc rối đã xâm nhập vào cuộc trò chuyện về phim ảnh, đặc biệt là trên Twitter: có vấn đề. Thường xuyên hơn không, uyển ngữ sống theo tên của nó ở chỗ nó đã sử dụng để chỉ trích các tác phẩm nghệ thuật mà không thực sự chỉ định những gì về họ mà người ta thấy bị phản đối. Tôi đề cập đến xu hướng ở đây bởi vì đạo diễn Hungary László Neme đã tiếp cận với tính năng ra mắt của anh ấy hoàn toàn nhận ra anh ấy đang bước vào một bãi mìn. Khi nói đến các mô tả về Holocaust, Giám đốc của Shoh Shoah, Claude Lanzmann đã khá rõ ràng về những gì anh ta coi là vấn đề, cho rằng không có sự tái tạo nào có thể làm công lý cho những hành động tàn bạo tiềm ẩn. Theo tôi, thế giới của Steven Spielberg, Danh sách của Schindler (mà Lanzmann đặt tên là Bộ dụng cụ Melodrama Melodrama), nhưng tôi cũng được chứng minh bởi công việc siêu tinh thần của Neme Auschwitz mà không khai thác bi kịch hay lịch sử xuyên tạc thông qua một kết thúc tốt đẹp. 7. Bên trong Llewyn Davis (2013) Bộ phim hay nhất của anh em nhà Coen kể từ khi Far Fargo không chính xác là một niềm vui của đám đông: Llewyn Davis (một vai diễn ngôi sao cho Oscar Isaac) là một kẻ ngốc, tự cho mình quan tâm nhiều hơn với sự nghiệp âm nhạc dân gian giả mạo của chính anh ta so với Cảm giác của những người xung quanh. Mặc dù Coens không bao giờ đối phó với những gì họ đang cố gắng nói với một bộ phim, nhưng có một bài học cuộc sống quan trọng được chôn cất trong sự tôn kính tỉ mỉ của họ đối với bối cảnh dân gian Greenwich Village đầu thập niên 60 Người có xu hướng sáng tạo để loại bỏ mọi phiền nhiễu và tạo ra nghệ thuật, điều này có thể chính đáng cho một người có năng khiếu như Bob Dylan, nhưng đối với một ca sĩ ít tài năng/may mắn như Davis (được mô phỏng theo Dave Van Ronk), đến một lúc nào đó, anh ta phải phát triển Lên và tham gia với trách nhiệm trong thế giới thực của mình. 8. Những con thú của miền Nam hoang dã (2012) Một tác phẩm nghệ thuật dân gian Mỹ ngây ngất được đóng khung qua con mắt của một đứa trẻ hoang dã được nuôi dưỡng bằng Tumbleweed tên là Hushpuppy, đạo diễn của Bolt-Out-of-Nowhere của Bengles Cảnh phim Mỹ về muộn trong việc miêu tả những người cảm thấy bị loại trừ khỏi truyền thông, chính trị và diễn ngôn công khai. Phát triển dự án với các diễn viên và cư dân không chuyên nghiệp của cộng đồng Bayou nông thôn, nơi họ quay phim, Zeitlin và đồng tác giả Lucy Alibar đã chuyển sự chú ý của chúng tôi sang một khu vực ngoài lưới (tưởng tượng) bị đe dọa bởi ảnh hưởng của ngành công nghiệp và thế giới bên ngoài. Tám năm sau, chúng tôi vẫn đang chờ tính năng thứ hai của Zeitlin, mặc dù tôi có thể dễ dàng nhớ lại sự phấn khích ban đầu của mình, từ những vụ nổ mở đầu của điểm số chuỗi cuồng nhiệt của nó, khi bị lao vào thế giới vi mô lạ này và bị cuốn theo chuyến đi. 9. 12 năm một nô lệ (2013) Trong suốt lịch sử của mình, điện ảnh là một công cụ đáng kinh ngạc để phơi bày sự bất công, nhưng đặc biệt là Mỹ - và Hollywood - đã chậm chạp trong việc đối đầu với đất nước mà sự xấu hổ lớn nhất: nô lệ. Trong thành công nổi tiếng theo phong cách Arthouse này, đạo diễn người Anh Steve McQueen cung cấp một tài khoản không chớp mắt về trải nghiệm đó qua con mắt của một người đàn ông da đen, Solomon Northup, người được sinh ra tự do nhưng bị lừa và bán cho một chủ đồn điền phía nam tàn nhẫn. May mắn thay, Northrup đã sống để chia sẻ câu chuyện của mình với những người khác, đó là chìa khóa: Những tưởng tượng xét lại như Django Unchained của Tarantino có thể là Cathartic, nhưng chúng tôi nhận ra chúng là chủ yếu là hư cấu, trong khi bộ phim của McQueen được đặt nền tảng và tái hiện trong việc quấy rối, thực sự chi tiết cuộc sống. Chắc chắn sẽ có một số người đọc danh sách này, đếm số lượng giám đốc nữ hoặc thiểu số mà tôi đã chọn, và với họ tôi nói: Khi ngành công nghiệp nắm bắt sự đa dạng hơn sau máy ảnh, hãy mong đợi nhiều phương pháp điều trị mang tính bước ngoặt hơn . 10. Sóng sóng ”(2019) (2019) Những người xem phim đã chậm phát hiện ra chân dung điện của Trey Edward Shults, về một gia đình người Mỹ trung lưu-có lẽ họ sẽ không bao giờ, mặc dù tôi dự đoán rằng Waves Waves cuối cùng sẽ tìm thấy khán giả của mình. Với cách kể chuyện chia rẽ và phong cách vô cùng bão hòa, cực kỳ bão hòa, bộ phim đã đưa ra những so sánh với ánh trăng của Barry Jenkins (mà hầu như không bỏ lỡ sự cắt giảm): cả hai bộ phim được đặt ở Nam Florida, cả hai đều tập trung vào trải nghiệm của người Mỹ gốc Phi, mặc dù tại Kết thúc khác nhau của phổ kinh tế. Điều làm tôi choáng váng về sóng sóng của người Hồi giáo là cách mà Shults sống động nắm bắt các chi tiết về ý nghĩa của việc sống ở thời điểm chính xác này. Máy ảnh không ngừng nghỉ, năng động và lựa chọn âm nhạc xung quanh cho thấy ngôn ngữ phim phát triển để phản ánh tư duy ngàn năm. Sóng của người Viking giải quyết những áp lực gây ra cho những người trẻ tuổi bởi phương tiện truyền thông xã hội, độc tính của lòng tự ái, và, khi đối mặt với bi kịch, sức mạnh siêu việt của sự kết nối tốt, lỗi thời của con người. Đọc thêm về:10 bộ phim hàng đầu của những năm 2010 là gì?Những bộ phim hay nhất của những năm 2010, được xếp hạng bởi IMDB.. Avengers: Infinity War (2018) Đoạn giới thiệu. 68 % .... Đoạn giới thiệu Dark Knight Rises (2012). 78 % .... Đoạn giới thiệu Django Unchained (2012). 81 % .... Đoạn giới thiệu Joker (2019). 59 % .... Trailer Avengers: Endgame (2019). 78 % .... Đoạn giới thiệu Intouchables (2011). 57 % .... Đoạn giới thiệu ký sinh trùng (2019). 96 % .... Trailer Whiplash (2014). 88 %. Những bộ phim nào đã ra mắt trong 5 năm qua?Top 200 bộ phim được đánh giá cao từ năm năm qua.. Ký sinh trùng (2019) r |132 phút |Kịch, phim kinh dị..... Roma (2018) R |135 phút |Kịch..... Nomadland (2020) R |107 phút |Kịch..... Người Ailen (2019) R |209 phút |Tiểu sử, tội phạm, kịch..... Minari (2020) .... Pizza cam thảo (2021) .... Chiến tranh Lạnh (2018) .... Sức mạnh của con chó (2021). Bộ phim phổ biến nhất Top 10 là gì?30 bộ phim phổ biến nhất ngay bây giờ.. #1.Hành tây thủy tinh: Một con dao ra bí ẩn (2022) 93% 89% .... #2.Thế giới kỳ lạ (2022) 74% 39% .... #3.Menu (2022) 89% 76% .... #4.Black Panther: Wakanda mãi mãi (2022) 84% 84% .... #5.Tinh thần (2022) 70% 81% .... #6.Xương và tất cả (2022) .... #7.The Guardians of the Galaxy Holiday Special (2022) .... #số 8.The Wonder (2022). Phim nào có xếp hạng 5 5?1. Laal Singh Chaddha (2022)Laal Singh Chaddha (2022) |