Quy tắc sử dụng thuốc kháng sinh cho người nhiễm vi khuẩn

Được đăng: 15 Tháng 1 2018

Option 1: “Quy tắc 4Đ” trong lựa chọn kháng sinh an toàn và hợp lý

Option 2: Lựa chọn kháng sinh dưới góc độ của dược lâm sàng

Việc sử dụng kháng sinh tràn lan đang khiến nhân loại phải trả giá khi tình trạng kháng thuốc tăng ở mức báo động. Để kháng sinh vẫn còn phát huy tác dụng trong điều trị nhiễm khuẩn, việc lựa chọn, sử dụng kháng sinh an toàn và hợp lý đóng vai trò then chốt.

Quy tắc sử dụng thuốc kháng sinh cho người nhiễm vi khuẩn
 

30% bệnh nhi có vi khuẩn kháng thuốc tại Bệnh viện Nhi Trung ương[1] - con số báo động về tình trạng sử dụng kháng sinh bất hợp lý tại Việt Nam. Chúng ta cần nâng cao tầm quan trọng về việc lựa chọn và sử dụng kháng sinh hợp lý. 

Bài phỏng vấn dưới đây với PGS. TS. DS. Nguyễn Hoàng Anh, Giám đốc Trung tâm Quốc gia về Thông tin thuốc và theo dõi ADR, Trưởng bộ môn Dược, trường Đại học Dược Hà Nội, sẽ bàn rõ hơn về vấn đề này dưới góc độ của dược lý, dược lâm sàng.

PGS có thể chia sẻ thêm về tình trạng sử dụng kháng sinh hiện nay không?

Trong quá trình nghiên cứu tình trạng sử dụng kháng sinh trên thực tế, chúng tôi thấy có 2 điểm cần rút kinh nghiệm nhiều nhất là: tác dụng phụ của thuốc và thái độ của nhân viên bán thuốc đối với kháng sinh.

Tác dụng phụ liên quan đến kháng sinh rất đa dạng, từ mức độ nhẹ như phát ban, mề đay, mẩn ngứa, cho đến các trường hợp nặng như phát ban toàn thân, loét các hốc tự nhiên, và nghiêm trọng nhất là sốc phản vệ cũng được ghi nhận khá nhiều tại Việt Nam. Khi phân tích những ca này, chúng tôi thấy có rất nhiều trường hợp có thể tránh được nếu như bệnh nhân chú ý hơn đến tiền sử dùng thuốc, dị ứng của bản thân và không tự ý dùng thuốc hay mua thuốc kháng sinh ngoài hiệu thuốc.

Mặt khác, các nghiên cứu thực hiện với chính các nhân viên ở nhà thuốc cho thấy kiến thức của họ còn tương đối hạn chế về việc lựa chọn kháng sinh hợp lý, tương tác thuốc, tác dụng phụ của thuốc cũng như những dặn dò cần thiết cho bệnh nhân.

Như vậy theo quan điểm của ông thì việc lựa chọn kháng sinh cần thực hiện như thế nào cho phù hợp?

Lựa chọn kháng sinh cần đảm bảo hợp lý và an toàn, nên có “4 chữ Đ” chúng ta cần hướng tới là: đúng thuốc, đủ liều, đủ thời gian và đúng cách. Cụ thể, chọn kháng sinh không nên dựa vào thế hệ cũ - mới, hoặc giá thành của thuốc, mà quan trọng nhất là kháng sinh được lựa chọn phải có phổ tác dụng tác dụng trên vi khuẩn nghi ngờ gây bệnh, thấm được vị trí nhiễm khuẩn và phù hợp với cơ địa người bệnh. Về liều dùng, nếu thiếu sẽ không đạt hiệu quả điều trị và khơi mào cho vi khuẩn kháng thuốc, còn nếu quá cao thì gây ra các tác dụng phụ. Thời gian dùng kháng sinh cũng không thể ngắn quá hay dài quá. Cuối cùng là phải luôn theo dõi, đánh giá đúng cách trong quá trình điều trị về phác đồ điều trị, các tác dụng không mong muốn, để điều chỉnh kịp thời.

Quy tắc sử dụng thuốc kháng sinh cho người nhiễm vi khuẩn

Theo PGS.TS.DS Nguyễn Hoàng Anh, lựa chọn kháng sinh cần đảm bảo “quy tắc 4Đ”: đúng thuốc, đủ liều, đủ thời gian và đúng cách.

Việc phối hợp nhiều kháng sinh có nên hay không thưa ông?

Không cần phải phối hợp nhiều loại kháng sinh khi không cần thiết. Việc phối hợp này chỉ được ưu tiên trong các trường hợp như: khi điều trị kinh nghiệm (tức không biết căn nguyên gây bệnh nhưng nhiễm khuẩn thấy trên bệnh nhân là rất nặng đòi hỏi phải có phác đồ đúng ngay từ đầu), trên những nhiễm khuẩn nghi ngờ có vai trò của nhiều loại vi khuẩn khác nhau (đa khuẩn), trên những bệnh nhân có tiên lượng nặng, có cơ địa xấu và nhiều bệnh mắc kèm theo.

Ông có lời khuyên gì dành cho bệnh nhân và nhân viên y tế về việc hạn chế tình trạng đề kháng kháng sinh?

Đối với nhân viên y tế, quan trọng là phải lựa chọn đúng kháng sinh. Đã điều trị nhiễm trùng là phải đánh thật nhanh và mạnh, do đó các y bác sĩ cần tuân thủ nguyên tắc lựa chọn kháng sinh đúng dựa trên phổ tác dụng, đặc tính dược động học của kháng sinh và cơ địa của bệnh nhân, ưu tiên sử dụng những kháng sinh còn nhạy cảm với vi khuẩn, nếu cần thiết thì phải phối hợp kháng sinh hợp lý, chế độ liều luôn phải đảm bảo để tránh kháng thuốc. 

Về phía bệnh nhân, cần tuân thủ phác đồ điều trị, không tự ý mua, sử dụng kháng sinh khi chưa có chỉ định của bác sĩ, và cần theo dõi thường xuyên hiệu quả sử dụng, các tác dụng không mong muốn, báo lại cho bác sĩ để có hướng điều chỉnh phù hợp. 

Xin cám ơn ông.

Hưởng ứng lời kêu gọi của WHO nhân tuần lễ Đề kháng kháng sinh Toàn cầu, VPĐD GlaxoSmithKline Pte Ltd tại Tp.HCM phối hợp cùng Hội Hô hấp Tp.HCM thực hiện chương trình giáo dục sức khỏe cộng đồng, nhằm cung cấp kiến thức cũng như nâng cao nhận thức trong cộng đồng về sử dụng kháng sinh hợp lý, giảm thiểu tình trạng đề kháng kháng sinh.

REFERENCES

1. http://dantri.com.vn/suc-khoe/khang-khang-sinh-o-viet-nam-cao-nhat-the-gioi-20171113070319572.htm

 

Quy tắc sử dụng thuốc kháng sinh cho người nhiễm vi khuẩn

Quy tắc sử dụng thuốc kháng sinh cho người nhiễm vi khuẩn

 [1] http://dantri.com.vn/suc-khoe/khang-khang-sinh-o-viet-nam-cao-nhat-the-gioi-20171113070319572.htm

Lựa chọn thuốc kháng sinh phụ thuộc hai yếu tố: người bệnh và vi khuẩn gây bệnh. Yếu tố liên quan đến người bệnh cần xem xét bao gồm: lứa tuổi, tiền sử dị ứng thuốc, chức năng gan - thận, tình trạng suy giảm miễn dịch, mức độ nặng của bệnh, bệnh mắc kèm, cơ địa dị ứng… Nếu là phụ nữ: cần lưu ý đối tượng phụ nữ có thai, đang cho con bú để cân nhắc lợi ích/nguy cơ. Về vi khuẩn: loại vi khuẩn, độ nhạy cảm với kháng sinh của vi khuẩn. Cần cập nhật tình hình kháng kháng sinh để có lựa chọn phù hợp. Cần lưu ý các biện pháp phối hợp để làm giảm mật độ vi khuẩn và tăng nồng độ kháng sinh tại ổ nhiễm khuẩn như làm sạch ổ mủ, dẫn lưu, loại bỏ tổ chức hoại tử… khi cần.

Chính sách kê đơn kháng sinh nhằm giảm tỷ lệ phát sinh vi khuẩn kháng thuốc và đạt được tính kinh tế hợp lý trong điều trị. Với những kháng sinh mới, phổ rộng, chỉ định sẽ phải hạn chế cho những trường hợp có bằng chứng là các kháng sinh đang dùng đã bị kháng.

Liều dùng của kháng sinh phụ thuộc nhiều yếu tố: tuổi người bệnh, cân nặng, chức năng gan - thận, mức độ nặng của bệnh. Do đặc điểm khác biệt về dược động học, liều lượng cho trẻ em, đặc biệt là trẻ sơ sinh và nhũ nhi có hướng dẫn riêng theo từng chuyên luận. Liều lượng trong các tài liệu hướng dẫn chỉ là gợi ý ban đầu. Không có liều chuẩn cho các trường hợp nhiễm khuẩn nặng. Kê đơn không đủ liều sẽ dẫn đến thất bại điều trị và tăng tỷ lệ vi khuẩn kháng thuốc. Ngược lại, với những kháng sinh có độc tính cao, phạm vi điều trị hẹp (ví dụ: các aminoglycosid, polypeptide), phải bảo đảm nồng độ thuốc trong máu theo khuyến cáo để tránh độc tính, do vậy, việc giám sát nồng độ thuốc trong máu nên được triển khai.  

SỬ DỤNG KHÁNG SINH DỰ PHÒNG

Kháng sinh dự phòng  (KSDP) là việc sử dụng kháng sinh trước khi xảy ra nhiễm khuẩn nhằm mục đích ngăn ngừa hiện tượng này.

KSDP nhằm giảm tần suất nhiễm khuẩn tại vị trí hoặc cơ quan được phẫu thuật, không dự phòng nhiễm khuẩn toàn thân hoặc vị trí cách xa nơi được phẫu thuật [10].

Chỉ định sử dụng KSDP (Phụ lục 2, 3)

Phẫu thuật được chia làm bốn loại: Phẫu thuật sạch, phẫu thuật sạch - nhiễm, phẫu thuật nhiễm và phẫu thuật bẩn (theo phụ lục…). 

KSDP được chỉ định cho tất cả các can thiệp phẫu thuật thuộc phẫu thuật sạch - nhiễm. 

Trong phẫu thuật sạch, liệu pháp kháng sinh dự phòng nên áp dụng với một số can thiệp ngoại khoa nặng, có thể ảnh hưởng tới sự sống còn và/hoặc chức năng sống (phẫu thuật chỉnh hình, phẫu thuật tim và mạch máu, phẫu thuật thần kinh, phẫu thuật nhãn khoa).

Phẫu thuật nhiễm và phẫu thuật bẩn: kháng sinh đóng vai trò trị liệu. KSDP không ngăn ngừa nhiễm khuẩn mà ngăn ngừa nhiễm khuẩn đã xảy ra không phát triển.

Lựa chọn kháng sinh dự phòng

Kháng sinh có phổ tác dụng phù hợp với các chủng vi khuẩn chính thường gây nhiễm khuẩn tại vết mổ cũng như tình trạng kháng thuốc tại địa phương, đặc biệt trong từng bệnh viện.

Kháng sinh ít hoặc không gây tác dụng phụ hay các phản ứng có hại, độc tính của thuốc càng ít càng tốt. Không sử dụng các kháng sinh có nguy cơ gây độc không dự đoán được và có mức độ gây độc nặng không phụ thuộc liều (Ví dụ: kháng sinh nhóm phenicol và sunfamid gây giảm bạch cầu miễn dịch dị ứng, hội chứng Lyell). 

Kháng sinh không tương tác với các thuốc dùng để gây mê (Ví dụ polymyxin, aminosid).

Kháng sinh ít có khả năng chọn lọc vi khuẩn đề kháng kháng sinh và thay đổi hệ vi khuẩn thường trú.

Khả năng khuếch tán của kháng sinh trong mô tế bào phải cho phép đạt nồng độ thuốc cao hơn nồng độ kháng khuẩn tối thiểu của vi khuẩn gây nhiễm.

Liệu pháp kháng sinh dự phòng có chi phí hợp lý, thấp hơn chi phí kháng sinh trị liệu lâm sàng.

Liều kháng sinh dự phòng

Liều KSDP tương đương liều điều trị mạnh nhất của kháng sinh đó (Phụ lục 2).

Đường dùng thuốc 

Đường tĩnh mạch: Thường được lựa chọn do nhanh đạt nồng độ thuốc trong máu và mô tế bào.

Đường tiêm bắp: có thể  sử dụng nhưng không đảm bảo về tốc độ hấp thu của thuốc và không ổn định.

Đường uống: Chỉ dùng khi chuẩn bị phẫu thuật trực tràng, đại tràng.

Đường tại chỗ: Hiệu quả thay đổi theo từng loại phẫu thuật (trong phẫu thuật thay khớp, sử dụng chất xi măng tẩm kháng sinh).

Thời gian dùng thuốc

Thời gian sử dụng kháng sinh dự phòng nên trong vòng 60 phút trước khi tiến hành phẫu thuật và gần thời điểm rạch da.

Cephalosporins tiêm tĩnh mạch  trong 3 - 5 phút ngay trước thủ thuật và đạt nồng độ cần thiết ở da sau vài phút. 

Vancomycin và ciprofloxacin cần phải được dùng trước MỘT GIỜ và HOÀN THÀNH việc truyền trước khi bắt đầu rạch da. 

Clindamycin cần được truyền xong trước 10 - 20 phút. 

Gentamycin cần được dùng một liều duy nhất 5 mg/kg để tối đa hóa sự thấm vào mô và giảm thiểu độc tính. Nếu người bệnh lọc máu hoặc ClCr < 20 ml/phút, dùng liều 2 mg/kg.

Đối với phẫu thuật mổ lấy thai, KSDP có thể dùng trước khi rạch da hoặc sau khi kẹp dây rốn để giảm biến chứng nhiễm khuẩn ở mẹ.

Bổ sung liều trong thời gian phẫu thuật:

Trong phẫu thuật tim kéo dài hơn 4 giờ, cần bổ sung thêm một liều kháng sinh.

Trong trường hợp mất máu với thể tích trên 1500ml ở người lớn, và trên 25ml/kg ở trẻ em, nên bổ sung liều KSDP sau khi bổ sung dịch thay thế.

Lưu ý khi sử dụng KSDP

Không dùng kháng sinh để dự phòng cho các nhiễm khuẩn liên quan đến chăm sóc sau mổ và những nhiễm khuẩn xảy ra trong lúc mổ.

Nguy cơ khi sử dụng KSDP:

Dị ứng thuốc.  

Sốc phản vệ.

Tiêu chảy do kháng sinh.

Nhiễm khuẩn do vi khuẩn Clostridium difficile.

Vi khuẩn đề kháng kháng sinh.

Lây truyền vi khuẩn đa kháng.

SỬ DỤNG KHÁNG SINH ĐIỀU TRỊ THEO KINH NGHIỆM

Điều trị kháng sinh theo kinh nghiệm khi chưa có bằng chứng về vi khuẩn học do không có điều kiện nuôi cấy vi khuẩn (do không có Labo vi sinh, không thể lấy được bệnh phẩm), hoặc khi đã nuôi cấy mà không phát hiện được nhưng có bằng chứng lâm sàng rõ rệt về nhiễm khuẩn.

Phác đồ sử dụng kháng sinh theo kinh nghiệm là lựa chọn kháng sinh có phổ hẹp nhất gần với hầu hết các tác nhân gây bệnh hoặc với các vi khuẩn nguy hiểm có thể gặp trong từng loại nhiễm khuẩn.

Kháng sinh phải có khả năng đến được vị trí nhiễm khuẩn với nồng độ hiệu quả nhưng không gây độc. 

Trước khi bắt đầu điều trị, cố gắng lấy mẫu bệnh phẩm để phân lập vi khuẩn trong những trường hợp có thể để điều chỉnh lại kháng sinh phù hợp hơn.

Nên áp dụng mọi biện pháp phát hiện nhanh vi khuẩn khi có thể (Xem Chương II. Đại cương về vi khuẩn học) để có được cơ sở đúng đắn trong lựa chọn kháng sinh ngay từ đầu.

Nếu không có bằng chứng về vi khuẩn sau 48 giờ điều trị, cần đánh giá lại lâm sàng trước khi quyết định tiếp tục sử dụng kháng sinh.

Cần thường xuyên cập nhật tình hình dịch tễ và độ nhạy cảm của vi khuẩn tại địa phương để lựa chọn được kháng sinh phù hợp.

SỬ DỤNG KHÁNG SINH KHI CÓ BẰNG CHỨNG VI KHUẨN HỌC

Nếu có bằng chứng rõ ràng về vi khuẩn và kết quả của kháng sinh đồ, kháng sinh được lựa chọn là kháng sinh có hiệu quả cao nhất với độc tính thấp nhất và có phổ tác dụng hẹp nhất gần với các tác nhân gây bệnh được phát hiện.

Ưu tiên sử dụng kháng sinh đơn độc. 

Phối hợp kháng sinh chỉ cần thiết nếu: 

Chứng minh có nhiễm đồng thời nhiều loại vi khuẩn nên cần phối hợp mới đủ phổ tác dụng (đặc biệt những trường hợp nghi ngờ có vi khuẩn kỵ khí hoặc vi khuẩn nội bào).

Hoặc khi gặp vi khuẩn kháng thuốc mạnh, cần phối hợp để tăng thêm tác dụng.

Hoặc khi điều trị kéo dài, cần phối hợp để giảm nguy cơ kháng thuốc (ví dụ: điều trị lao, HIV…).

LỰA CHỌN ĐƯỜNG ĐƯA THUỐC

Đường uống là đường dùng được ưu tiên vì tính tiện dụng, an toàn và giá thành rẻ. Cần lưu ý lựa chọn kháng sinh có sinh khả dụng cao và ít bị ảnh hưởng bởi thức ăn (Bảng I.8).

Sinh khả dụng từ 50% trở lên là tốt, từ 80% trở lên được coi là hấp thu đường uống tương tự đường tiêm. Những trường hợp này chỉ nên dùng đường tiêm khi không thể uống được. Việc chọn kháng sinh mà khả năng hấp thu ít bị ảnh hưởng bởi thức ăn sẽ bảo đảm được sự tuân thủ điều trị của người bệnh tốt hơn và khả năng điều trị thành công cao hơn.

Đường tiêm chỉ được dùng trong những trường hợp sau:

Khi khả năng hấp thu qua đường tiêu hoá bị ảnh hưởng (do bệnh lý dường tiêu hoá, khó nuốt, nôn nhiều…).

Khi cần nồng độ kháng sinh trong máu cao, khó đạt được bằng đường uống: điều trị nhiễm khuẩn ở các tổ chức khó thấm thuốc (viêm màng não, màng trong tim, viêm xương khớp nặng…), nhiễm khuẩn trầm trọng và tiến triển nhanh.

Tuy nhiên, cần xem xét chuyển ngay sang đường uống khi có thể. 

Bảng I.2. Sinh khả dụng của một số kháng sinh đường uống

Kháng sinh

Sinh khả dụng (%)

Ảnh hưởng của thức ăn đến hấp thu

Ampicilin

Amoxicilin

40

90

±

Lincomycin

Clindamycin

30

90

±

Erythromycin

Azithromycin

50

40

Tetracyclin

Doxycyclin

50

90

±

Pefloxacin

Ofloxacin

90

80

±

±

Ghi chú:

↓:  Giảm hấp thu    

±:  Không ảnh hưởng hoặc ảnh hưởng không đáng kể 

ĐỘ DÀI ĐỢT ĐIỀU TRỊ

Độ dài đợt điều trị phụ thuộc vào tình trạng nhiễm khuẩn, vị trí nhiễm khuẩn và sức đề kháng của người bệnh. Các trường hợp nhiễm khuẩn nhẹ và trung bình thường đạt kết quả sau 7 - 10 ngày nhưng những trường hợp nhiễm khuẩn nặng, nhiễm khuẩn ở những tổ chức mà kháng sinh khó thâm nhập (màng tim, màng não, xương-khớp…), bệnh lao… thì đợt điều trị kéo dài hơn nhiều. Tuy nhiên, một số bệnh nhiễm khuẩn chỉ cần một đợt ngắn như nhiễm khuẩn tiết niệu - sinh dục chưa biến chứng (khoảng 3 ngày, thậm chí một liều duy nhất).

Sự xuất hiện nhiều kháng sinh có thời gian bán thải kéo dài đã cho phép giảm được đáng kể số lần dùng thuốc trong đợt điều trị, làm dễ dàng hơn cho việc tuân thủ điều trị của người bệnh; ví dụ: dùng azithromycin chỉ cần một đợt 3 – 5 ngày, thậm chí một liều duy nhất. 

Không nên điều trị kéo dài để tránh kháng thuốc, tăng tỷ lệ xuất hiện tác dụng không mong muốn và tăng chi phí điều trị. 

LƯU Ý TÁC DỤNG KHÔNG MONG MUỐN VÀ ĐỘC TÍNH KHI SỬ DỤNG KHÁNG SINH

Tất cả các kháng sinh đều có thể gây ra tác dụng không mong muốn (ADR), do đó cần cân nhắc nguy cơ/lợi ích trước khi quyết định kê đơn. Mặc dù đa số trường hợp ADR sẽ tự khỏi khi ngừng thuốc nhưng nhiều trường hợp hậu quả rất trầm trọng, ví dụ khi gặp hội chứng Stevens - Johnson, Lyell… ADR nghiêm trọng có thể dẫn tới tử vong ngay là sốc phản vệ. Các loại phản ứng quá mẫn thường liên quan đến tiền sử dùng kháng sinh ở người bệnh, do đó phải khai thác tiền sử dị ứng, tiền sử dùng thuốc ở người bệnh trước khi kê đơn và phải luôn sẵn sàng các phương tiện chống sốc khi sử dụng kháng sinh.

Gan và thận là hai cơ quan chính thải trừ thuốc, do đó sự suy giảm chức năng những cơ quan này dẫn đến giảm khả năng thải trừ kháng sinh, kéo dài thời gian lưu của thuốc trong cơ thể, làm tăng nồng độ dẫn đến tăng độc tính. Do đó phải thận trọng khi kê đơn kháng sinh cho người cao tuổi, người suy giảm chức năng gan - thận vì tỷ lệ gặp ADR và độc tính cao hơn người bình thường.

Vị trí bài xuất chính chỉ nơi kháng sinh đi qua ở dạng còn hoạt tính. Từ Bảng I.9 cho thấy hai kháng sinh có thể ở cùng một nhóm nhưng đặc tính dược động học không giống nhau. Đặc điểm này giúp cho việc lựa chọn kháng sinh theo cơ địa người bệnh.

Cần hiệu chỉnh lại liều lượng và/hoặc khoảng cách đưa thuốc theo chức năng gan - thận để tránh tăng nồng độ quá mức cho phép với những kháng sinh có độc tính cao trên gan và/hoặc thận.

Với người bệnh suy thận, phải đánh giá chức năng thận theo độ thanh thải creatinin và mức liều tương ứng sẽ được ghi ở mục “Liều dùng cho người bệnh suy thận”.  

Với người bệnh suy gan, không có thông số hiệu chỉnh như với người bệnh suy thận mà phải tuân theo hướng dẫn của nhà sản xuất, thường là căn cứ vào mức độ suy gan theo phân loại Child-Pugh.

Bảng I.3. Cơ quan bài xuất chính của một số kháng sinh

Kháng sinh

Vị trí bài xuất chính

Cefotaxim

Cefoperazol

Thận

Gan

Lincomycin

Clindamycin

Gan

Gan

Erythromycin

Azithromycin

Gan

Gan

Tetracyclin

Doxycyclin

Thận

Gan

Pefloxacin

Ofloxacin

Gan

Thận

Những nội dung chính trong các nguyên tắc trên được tóm tắt thành nguyên tắc MINDME (Bảng I.10).

Bảng I.10. Nguyên tắc MINDME trong sử dụng kháng sinh

M

Microbiology guides wherever possible

Theo chỉ dẫn vi khuẩn học bất kỳ khi nào có thể

I

Indication should be evidence-based

Chỉ định phải căn cứ trên bằng chứng

N

Narrowest spectrum required

Lựa chọn phổ hẹp nhất cần thiết

D

Dosage appropriate to the site and type of infection

Liều lượng phù hợp với loại nhiễm khuẩn và vị trí nhiễm khuẩn

M

Minimum duration of therapy

Thời gian điều trị tối thiểu cho hiệu quả

E

Ensure monotherapy in most situation

Bảo đảm đơn trị liệu trong hầu hết các trường hợp

KẾT LUẬN

Để điều trị thành công nhiễm khuẩn phụ thuộc nhiều yếu tố, bao gồm tình trạng bệnh lý, vị trí nhiễm khuẩn và sức đề kháng của người bệnh. Các kiến thức về phân loại kháng sinh, về PK/PD sẽ giúp cho việc lựa chọn kháng sinh và xác định lại chế độ liều tối ưu cho từng nhóm kháng sinh, là cơ sở để thực hiện các nguyên tắc sử dụng kháng sinh hợp lý. Đây cũng là những nội dung quan trọng đối với mỗi thầy thuốc để bảo đảm hiệu quả - an toàn - kinh tế và giảm tỷ lệ kháng kháng sinh trong điều trị.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Antibiotic Expert Group (2010), Principles of antimicrobial use, in: Therapeutic Guidelines: Antibiotic, Melbourne (pp. 1 – 28).

Andes D., Craig W. A. (2002), Animal model pharmacokinetics and pharmacodynamics: A critical review. Int J Antimicrob Agents,19(4): pp 261-268.

Bergman S. J., et al.(2007), Pharmacokinetic and pharmacodynamic aspects of antibiotic use in high-risk populations, Infect Dis Clin North Am, pp 821-846.

Bennett P. N., Brown M. J. (2003), Antibacterial drugs, Churchil Livingstone

British National Formulary 64th (2012), Chapter 5. Infection – Antibacterial Drugs, Royal Pharmaceutical Society.

Goodman and Gilman's Pharmacology (2011), General Principles of Antimicrobial Therapy, The McGraw-Hill Companies. 

Jacobs M. R.(2001), Optimisation of antimicrobial therapy using pharmacokinetic and pharmacodynamic parameters, Clin Microbiol Infect, 7(11) 589-596.

Lampiris H.W, Maddix D.S (2009), Clinical Use of Antimicrobial Agents, in:Basic and Clinical Pharmacology (Bertram G. K. Masters S. B., Trevor A.J.), The McGraw-Hill Companies.

Nightingale C.H, et al.(2007), Antimicrobial Pharmacodynamics in Theory and Clinical Practice, Informa healthcare, New York.

Eugénie Bergogne-Bérézin Pierre Dellamonica; (2004), Antibiothérapie en practique clinique.

Network Scottish Intercollegiate Guidelines, Antibiotic prophylaxis in surgery. 2014