Trong chiến dịch điện biên phủ từ ngày 13

Như chúng ta biết, từ giữa tháng 11 năm 1953 bộ đội chủ lực của ta theo kế hoạch tiến lên Tây Bắc giải phóng Lai Châu, phối hợp với bộ đội Pa thét Lào tiến công địch ở Trung và Hạ Lào. Vì vậy thực dân Pháp buộc phải điều quân lên Điện Biên Phủ để bảo vệ Lai Châu và Thượng Lào. Dưới sự trợ giúp của Mỹ, Pháp đã nhanh chóng xây dựng Điện Biên Phủ thành một tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Dương. Toàn bộ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ gồm 49 cứ điểm. Tướng Mỹ Ô. Danien khi đến kiểm tra đã xác nhận Điện Biên Phủ là “pháo đài bất khả xâm phạm” và hy vọng với tập đoàn này sẽ nghiền nát chủ lực Việt Minh ở thung lũng Mường Thanh.

Chúng ta cũng biết, ngay trong cuộc họp ngày 6-12-1953 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ thị cho Đại tướng Võ Nguyên Giáp: “Chiến dịch này là một chiến dịch rất quan trọng không những về quân sự mà cả về chính trị, không những đối với trong nước mà cả quốc tế. Vì vậy toàn quân, toàn dân, toàn Đảng phải tập trung hoàn thành cho kỳ được…”. Sau đó vào ngày đầu tiên của năm mới 1-1-1954, tại cuộc họp Bộ Chính trị chỉ định cơ quan lãnh đạo, chỉ huy chiến dịch, triển khai kế hoạch điều động lực lượng lên Tây bắc, Đại tướng Võ Nguyên Giáp được cử làm Tư lệnh mặt trận, Bí thư Đảng ủy. Chính trong giờ phút trao nhiệm vụ cho Đại tướng ra trận lần này, Bác Hồ nói: “Chú đi xa như vậy chỉ đạo chiến trường có gì trở ngại? Đại tướng trả lời: “Thưa Bác! Chỉ trở ngại là ở xa, khi có vấn đề quan trọng khó xin ý kiến của Bác và Bộ Chính trị! Bác nói: “Tướng quân tại ngoại, trao cho chú toàn quyền, quyết định rồi báo cáo sau”. Bác còn nói thêm: “Trận này rất quan trọng, phải đánh cho thắng, chắc thắng mới đánh. Không chắc thắng không đánh”.

Năm 1954, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Ban thường vụ TW Đảng quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ.

Thấm nhuần lời Bác, ngày 12-1-1954 Đại tướng Võ Nguyên Giáp đến Sở chỉ huy tiền phương thị sát mặt trận. Suốt 11 ngày đêm theo dõi, nhiều đêm trăn trở, cân nhắc, Đại tướng đã đi đến kết luận: Nếu thực hiện phương châm đánh nhanh thắng nhanh thì nhất định thất bại. Từ kết quả của việc thị sát trực tiếp ấy cùng với những thông tin từ các nơi gửi về, Đại tướng đã quyết định thay đổi cách đánh từ đánh nhanh thắng nhanh sang đánh chắc tiến chắc. Đó là một ý tưởng sáng tạo, đầy tinh thần trách nhiệm của một vị tướng tài trước một trận đánh lớn. Một cách đánh riêng theo kiểu Việt Nam nhằm thực hiện bằng được quyết tâm của Đảng, của Bác Hồ. Sau này nhớ lại thời điểm lịch sử đó, trong bức thư gửi Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam ngày 19-1-1995, Đại tướng Tổng Tư lệnh viết: “…Lúc bấy giờ toàn thể cán bộ và chiến sỹ đang hăng hái triển khai kế hoạch đánh nhanh thắng nhanh. Bản thân tôi thì đang khẩn trương theo sát tình hình củng cố của địch và suy nghĩ về quyết định thay đổi phương châm. Chính vào lúc đó thì nhận được ý kiến của anh Phạm Kiệt, Cục phó Cục Bảo vệ, Đặc phái viên Bộ Tổng Tư lệnh Mặt trận phát biểu bằng điện thoại. Anh trình bày vắn tắt tình hình và là người duy nhất lúc đó đã đề nghị tôi xem xét lại kế hoạch đánh nhanh thắng nhanh. Tôi đánh giá rất cao ý kiến của anh Phạm Kiệt, ý kiến ấy cùng với những tin tức trinh sát từ nhiều mặt gửi về đã cung cấp cho tôi căn cứ quan trọng để đề ra với Đảng ủy thay đổi phương châm tác chiến, rút quân ra, chuyển sang kế hoạch mới: “đánh chắc, tiến chắc”.

Năm 2004, kỷ niệm 50 năm chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, Đại tướng Võ Nguyên Giáp kể lại: Sáng ngày 26-1-1954, tại hang Thẩm Púa, lại có cuộc họp của Đảng ủy Mặt trận bàn luận về cách đánh. Vấn đề đặt ra là: Nếu theo phương án đã định trước thì các Đại đoàn tiến vào trận phải phơi mình giữa trảng trống, sẽ rơi đúng cái “bẫy hỏa lực”. Cuộc thảo luận trong Đảng ủy đã diễn ra gay go, sôi nổi. Tất cả đều cho rằng bộ đội quyết tâm cao, mọi mặt đã chuẩn bị, phải đánh nhanh, nếu không sẽ khó khăn, mất thời cơ. Nhưng khi đặt ra câu hỏi: vậy đánh nhanh có bảo đảm chắc thắng như Bác Hồ căn dặn không? Thì không ai dám khẳng định; Cuối cùng Đảng ủy đã đi đến nhất trí phải chuyển sang phương án “đánh chắc, tiến chắc”- một phương án đã từng dự kiến trước đây. Mặc dù mấy vạn quân ta đã giàn trận, đạn đã lên nòng sẵn sàng nổ súng vào đêm 26-1, nhưng chúng ta đã kiên quyết dừng lại, cho quân lui vào vị trí tập kết, kéo pháo ra để chuẩn bị trận địa đánh theo phương án mới. Quyết định thay đổi phương châm đã được triển khai, sau đó báo cáo về Trung ương Đảng bằng thư hỏa tốc, được Bác Hồ và Bộ Chính trị nhất trí và cho biết sẽ động viên hậu phương đem toàn lực chi viện cho tiền tuyến đánh thắng.

Trong gần hai tháng sau khi quyết định thay đổi phương châm tác chiến, quân đội Việt Nam tiếp tục đánh nghi binh, mở đường rộng hơn, dài hơn xung quanh cứ điểm Điện Biên Phủ, rồi lại kéo pháo vào, xây dựng công sự kiên cố, đưa pháo vào công sự, đào hệ thống giao thông hào bao vây, tiếp cận gần hơn căn cứ của quân Pháp, lương thực, vũ khí từ hậu phương dồn lên cho mặt trận nhiều hơn. Tất cả chuẩn bị cho trận đánh dài ngày.

Chiến thắng Điện Biên Phủ

Trước ngày 13-3-1954, trên toàn mặt trận Điện Biên Phủ, các cán bộ, chiến sỹ được đọc thư của Bác Hồ:

“Các chú sắp ra mặt trận. Nhiệm vụ các chú lần này rất to lớn, khó khăn, nhưng rất vinh quang.

Các chú vừa được chỉnh quân chính trị và chỉnh huấn quân sự và đã thu được nhiều thắng lợi về tư tưởng và chiến thuật. Nhiều đơn vị cũng đã đánh thắng trên các mặt trận. Bác tin chắc rằng các chú sẽ phát huy thắng lợi vừa qua, quyết tâm vượt mọi khó khăn gian khổ để làm tròn nhiệm vụ vẻ vang sắp tới.

Bác chờ các chú báo cáo thành tích để thưởng những đơn vị và cá nhân xuất sắc nhất.

Chúc các chú thắng to.

Bác hôn các chú.”

Tối 13-3-1954, Sư đoàn 312 tiến công tiểu đoàn địch ở Him Lam. Tối 14-3, Sư đoàn 308 tiêu diệt địch ở đồi Độc Lập. Thế là đợt tiến công đầu tiên bộ đội ta đã tiêu diệt gọn hai cứ điểm Him Lam và Độc Lập, phá vỡ cửa ngõ phía Bắc của tập đoàn cứ điểm của thực dân Pháp.

Sinh thời, mỗi khi nhớ đến Điện Biên Phủ, Đại tướng Võ Nguyên Giáp thường tâm sự: Thay đổi cách đánh trong tình thế toàn mặt trận từ trên xuống dưới quyết tâm chiến đấu theo phương án đánh nhanh giải quyết nhanh, các đơn vị đã vào vị trí chiến đấu, chờ giờ nổ súng là quyết định khó khăn nhất trong cuộc đời chỉ huy của mình. Phải là vị tướng thao lược, có bản lĩnh mới tìm ra cách đánh đúng để chiến thắng. Ngày 13-3-1954 mãi mãi đi vào lịch sử dân tộc ta như một ngày mở đầu thắng lợi cho thiên sử vàng Điện Biên Phủ.

TS Nguyễn Thị Tình

[TG] - Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ [7/5/1954 - 7/5/2021] mãi mãi là niềm tự hào, là nguồn sức mạnh to lớn cổ vũ toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta phát huy chủ nghĩa anh hùng cách mạng vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, thực hiện thắng lợi nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, tiếp tục đưa đất nước phát triển đến giữa thế kỷ XXI trở thành nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Chiều 7/5/1954, lá cờ "Quyết chiến - Quyết thắng" của Quân đội nhân dân Việt Nam tung bay trên nóc hầm tướng De Castries. Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ đã toàn thắng. Ảnh: Tư liệu TTXVN

Năm nay toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta kỷ niệm 67 năm Ngày Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ [7/5/1954 – 7/5/2021] trong bối cảnh Đại hội Đảng lần thứ XIII được tổ chức thành công tốt đẹp và đang chuẩn bị bầu cử Quốc hội khóa XV và Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021-2026. Đất nước ta vừa mới kỷ niệm 46 năm Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Đây là dịp để chúng ta viết tiếp bản anh hùng ca chói lọi của thời đại Hồ Chí Minh, đưa đất nước lên một tầm cao mới để thực hiện khát vọng ngàn đời của dân tộc là xây dựng đất nước phồn vinh và hùng cường.

Thực hiện lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến ngày 19/12/1946 của Hồ Chủ tịch và đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính, với vũ khí thô sơ và tinh thần "Cảm tử cho Tổ quốc quyết sinh" quân và dân ta đã lần lượt đánh bại các chiến lược quân sự của thực dân Pháp. Vùng giải phóng không ngừng được mở rộng, chính quyền nhân dân được củng cố. Sau hơn 7 năm kháng chiến, ta càng đánh càng mạnh, thực dân Pháp càng lâm vào thế bị động. Trên thế giới, hệ thống các nước XHCN được hình thành là chỗ dựa vững chắc cho phong trào giải phóng dân tộc trong đó có Việt Nam đang tiên phong đánh bại sự cai trị của thực dân Pháp và can thiệp Mỹ. Nhằm "tìm cách thoát ra khỏi cuộc chiến tranh ở Đông Dương trong danh dự" trong vòng 18 tháng, kế hoạch Na-va được Hội đồng Quốc phòng Pháp thông qua. Về phía ta, dựa trên phương hướng chiến lược của Hội nghị lần thứ Tư Trung ương Đảng họp tháng 1/1953 là: "Tránh chỗ mạnh, đánh chỗ yếu, đánh chắc thắng". Bộ Chính trị nhấn mạnh phương châm hành động là "Tích cực, chủ động, cơ động, linh hoạt", nguyên tắc chỉ đạo tác chiến là: "Tiêu diệt sinh lực địch, bồi dưỡng lực lượng ta; đánh chắc thắng, đánh tiêu diệt; chọn nơi địch sơ hở mà đánh, chọn nơi địch tương đối yếu mà đánh", giữ vững chủ động, kiên quyết buộc địch phải phân tán…".

Để phá tan kế hoạch Na-va, mở đầu kế hoạch tác chiến Đông Xuân 1953 - 1954, ta chủ động mở các cuộc tiến công lên Tây Bắc, Trung Lào, Hạ Lào, Bắc Tây Nguyên, lấy Tây Bắc làm hướng chính. Tháng 11/1953, Đại đoàn 316 được lệnh tiến công lên Tây Bắc, giải phóng Lai Châu, phần đất cuối cùng còn lại ở Tây Bắc nằm trong tay quân đội Pháp. Ngày 3/12/1953, Na-va hạ quyết tâm xây dựng Điện Biên Phủ thành một tập đoàn cứ điểm mạnh và quyết định: Tiếp nhận giao chiến với quân chủ lực của Việt Minh ở Tây Bắc, lấy căn cứ thung lũng Điện Biên Phủ làm trung tâm. Ngày 5/12/1953, các đơn vị đồn trú ở Điện Biên phủ được chuyển thành "Binh đoàn tác chiến Tây Bắc" và ngày 7/12/1953, Na-va quyết định rút toàn bộ quân lính ở Lai Châu về tăng cường cho Điện Biên Phủ. Trước tình hình đó, Tổng quân uỷ ta nhận định: Ngày 6/12/1953, Bộ Chính trị họp nghe Tổng quân uỷ báo cáo quyết tâm và phương án tác chiến. Sau khi phân tích kỹ tình hình địch, ta, Bộ Chính trị quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ và phương án tác chiến của Tổng quân uỷ. Chấp hành nghị quyết của Bộ Chính trị, Bộ Tổng tư lệnh ra lệnh cho bộ đội chủ lực các mặt trận nhanh chóng bước vào tiến công địch. Các Đại đoàn chủ lực được lệnh tiến công lên Tây Bắc.

Ngày 10/12/1953 ta tiến công địch ở Lai Châu, cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953-1954 bắt đầu. Diễn biến chính của chiến dịch Điện Biên Phủ chia thành ba giai đoạn:

từ ngày 13 đến ngày 17/3/1954, quân ta tiêu diệt gọn cứ điểm Him Lam và Độc Lập, bức hàng cứ điểm Bản Kéo, phá vỡ cửa ngõ phía Bắc của tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ; diệt và bắt sống trên 2000 tên địch, phá huỷ 25 máy bay, xoá sổ 1 trung đoàn, uy hiếp sân bay Mường Thanh; Pi-rốt - Tư lệnh pháo binh Pháp ở Điện Biên Phủ đã dùng lựu đạn tự sát vì bất lực trước pháo binh của ta.

từ ngày 30/3 đến ngày 30/4/1954, quân ta đồng loạt tiến công tác cứ điểm phía Đông phân khu trung tâm thắt chặt vòng vây, chia cắt, kiểm soát sân bay Mường Thanh, hạn chế tiếp viện của địch cho tập đoàn cứ điểm. Đây là đợt tiến công dai dẳng, dài ngày nhất, quyết liệt nhất, gay go nhất, ta và địch giành giật nhau từng tấc đất, từng đoạn giao thông hào. Đặc biệt tại đồi C1 ta và địch giằng co nhau tới 20 ngày, đồi A1 giằng co tới 30 ngày. Sau đợt tấn công thứ hai khu trung tâm Điện Biên Phủ đã nằm trong tầm bắn các loại súng của ta, quân địch rơi vào tình trạng bị động, mất tinh thần cao độ.

từ ngày 1/5 đến ngày 7/5/1954, quân ta đánh chiếm các cứ điểm phía Đông và mở đợt tổng công kích tiêu diệt toàn bộ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ.

Vào hồi 17h30' ngày 7/5/1954, ta chiếm Sở chỉ huy của địch, tướng Đờ Cát cùng toàn bộ Bộ tham mưu và binh lính tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ phải ra hàng. Lá cờ "Quyết chiến, quyết thắng" của quân đội ta tung bay trên nóc hầm chỉ huy của địch. Ngay trong đêm đó, quân ta tiếp tục tấn công, phân khu Nam, đánh địch tháo chạy về Thượng Lào. Đến 24h cùng ngày toàn bộ quân địch đã bị bắt làm tù binh.

Sau 55 ngày đêm chiến đấu dũng cảm, mưu trí, sáng tạo, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, quân và dân ta đã đập tan toàn bộ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, tiêu diệt và bắt sống 16.200 tên, bắn rơi 62 máy bay, thu 64 ô tô và toàn bộ vũ khí, đạn dược, quân trang quân dụng của địch. Cuộc tiến lược Đông Xuân 1953-1954 với đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ là một trận quyết chiến chiến lược, một trận tiêu diệt điển hình nhất, là trận đầu đánh thắng Mỹ, trực tiếp đưa đến việc ký kết Hiệp định Giơnevơ về chấm dứt chiến tranh lập lại hòa bình ở Đông Dương. Đây cũng là cơ sở và điều kiện để nhân dân ta tiến lên giành thắng lợi vĩ đại trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc.

Thắng lợi của chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ cũng là thắng lợi vẻ vang của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp là do các nhân tố cơ bản:

Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra đường lối kháng chiến, đường lối quân sự độc lập, đúng đắn, sáng tạo. Kết hợp chặt chẽ nhiệm vụ chiến lược chống đế quốc và phong kiến, vừa kiến quốc xây dựng chế độ mới. Ngay từ đầu chống thực dân Pháp xâm lược, Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân thực hiện cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, dựa vào sức mình là chính. Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân gồm ba thứ quân: bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc, kết hợp chặt chẽ chiến tranh du kích với chiến tranh chính quy; tiến công quân sự, địch vận và nổi dậy của quần chúng; đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị, kinh tế, văn hóa, ngoại giao.

nhân dân ta rất anh hùng, từ nông thôn đến thành thị, từ miền núi đến miền xuôi, từ trẻ đến già nghe theo tiếng gọi của Đảng và Bác Hồ đã phát huy tinh thần cao độ tinh thần yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng ra sức thi đua xây dựng hậu phương vững chắc, thi đua giết giặc lập công, đóng góp sức người, sức của bảo đảm đầy đủ mọi điều kiện cho chiến trường, tiếp thêm ý chí quyết chiến, quyết thắng cho các lực lượng vũ trang ngoài mặt trận.

các lực lượng vũ trang nhân dân ta trưởng thành vượt bậc về tư tưởng chính trị, lực lượng, tổ chức chỉ huy, trình độ tác chiến, trang thiết bị quân sự và bảo đảm hậu cần cho chiến dịch quân sự quy mô lớn chưa từng có. Chấp hành nghiêm mệnh lệnh chiến trường, vượt qua mọi khó khăn, thử thách, mưu trí, sáng tạo, dũng cảm hy sinh lập nhiều chiến công trên khắp chiến trường Đông Dương, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ ở chiến trường Điện Biên Phủ.

sự chi viện, cổ vũ và ủng hộ của các nước xã hội chủ nghĩa, nhất là của Trung Quốc, Liên Xô, phong trào đấu tranh vì hòa bình của nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới, trong đó có cả nhân dân Pháp, đặc biệt là của các nước trên bán đảo Đông Dương cùng chung chiến hào, đã tạo nên sức mạnh thời đại của chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ.

Thường vụ Trung ương Đảng quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ. Đây là trận đánh lớn nhất diễn ra tại lòng chảo Mường Thanh, Điện Biên, tỉnh Lai Châu, từ ngày 13-3 đến 7-5-1954 và cũng là chiến thắng quân sự lớn nhất trong cuộc kháng chiến chống Pháp [1945 – 1954] của quân và dân Việt Nam. Ảnh: Reuters

Đánh giá về ý nghĩa lịch sử của cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ là một trong những đỉnh cao chói lọi, một kỳ tích vẻ vang của thời kỳ Hồ Chí Minh. Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ là chiến thắng vĩ đại nhất, giáng đòn quyết định, tạo bước ngoặt lịch sử làm thay đổi cục diện chiến tranh giữa ta và địch, trực tiếp đưa đến việc ký kết Hiệp định Giơnevơ về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương.

Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ đã kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến 9 năm chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ, chấm dứt hoàn toàn ách xâm lược của thực dân Pháp trên đất nước ta và các nước trên bán đảo Đông Dương; bảo vệ và phát triển thành quả Cách mạng tháng Tám; một nửa nước được giải phóng, tạo cơ sở và điều kiện vững chắc để đưa nhân dân ta tiến lên giành thắng lợi vĩ đại trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên chủ xã hội. Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ đã làm tăng thêm niềm tự hào dân tộc, niềm tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh; cổ vũ toàn Đảng, toàn dân, toàn quân một lòng, một dạ chiến đấu dưới lá cờ vẻ vang của Đảng vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân.

Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ mang tầm vóc thời đại, góp phần to lớn vào phong trào đấu tranh vì hòa bình, tiến bộ của nhân loại. Đồng thời, giáng một đòn chí mạng vào nền móng của thực dân Pháp và can thiệp Mỹ, đánh sập thành luỹ của chủ nghĩa thực dân cũ ở vị trí xung yếu nhất, đánh dấu sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ trên phạm vi toàn thế giới. Chiến thắng lững lẫy này cũng báo hiệu sự thất bại chiến lược toàn cầu phản cách mạng của chủ nghĩa thực dân mới do Mỹ cầm đầu.

Những người lính chỉ huy trong chiến dịch Điện Biên Phủ cùng thảo luận kế hoạch tác chiến với Đại tướng Võ Nguyên Giáp [áo đen] vào tháng 3-1954. 17h30 ngày 13-3-1954, Đại tướng ra lệnh nổ súng. Đợt tấn công đầu tiên diễn ra từ ngày 13-3 đến 17-3. Sau 5 ngày, quân ta làm chủ Him Lam, Độc Lập và Bản Kéo.

Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ cũng là chiến thắng chung của các nước trên bán đảo Đông Dương, chiến thắng của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, của phong trào đấu tranh vì hòa bình, tién bộ xã hội trên toàn thế giới. Nó chứng minh một chân lý của thời đại: các dân tộc bị áp bức, lo xâm lược, nếu có ý chí kiên cường và đường lối đúng đắn, sáng tạo, biết đoàn kết đấu tranh vì độc lập tự do thì dân tộc đó nhất định thắng lợi; đã thôi thúc, khích lệ và cổ vũ các nước thuộc địa ở châu Á, châu Phi, Mỹ La Tinh đứng lên đấu tranh tự giải phóng, thoát khỏi ách xâm lược của chủ nghĩa thực dân đế quốc./.

TS. Bùi Thế Đức

Video liên quan

Chủ Đề