Những quan điểm và hạn chế của phải trọng thương về mậu dịch quốc tế

Trong nghiên cứu khoa học nói chung khi nghiên cứu một hiện tượng nào đó người ta đầu tiên xác định quy luật của hiện tượng, theo dõi thực tế xem có đúng quy luật không sau đó điều chỉnh cho đúng thực tế để phát biểu ra các khái niệm các lý thuyết.

Khi thử nghiệm thì người ta sẽ có thử nghiệm phá hủy và không phá hủy. Còn trong kinh tế học thì các nhà kinh tế rất khó khăn khi thử nghiệm vì không thể xây dựng lên trong phòng thí nghiệm cũng không thể mang một nền kinh tế ra làm vật thí nghiệm.

Chính vì vậy các nhà kinh tế sẽ xây dựng các mô hình giả định. Trong các mô hình giả định này các nhà kinh tế sẽ loại bỏ các yếu tố ít quan trọng và chỉ tập trung vào các yếu tố quan trọng. Chúng ta gặp mô hình giả định ở khắp các bài học về kinh tế học, không ngoại trừ sẽ gặp trong chủ đề Thương mại quốc tế này.

Trong lịch sử kinh tế thế giới; đầu tiên các nước chỉ buôn bán trong vùng lãnh thổ của nước đó theo kiểu tự cấp tự túc. Dần dần khi nền sản xuất phát triển, có của ăn của để các nước bắt đầu buôn bán với nhau, khi đó xuất hiện khái niệm Thương mại quốc tế.

Thương mại giữa hai nước xảy ra phải dựa trên điều kiện là hai nước đều cùng hưởng lợi. Mỗi quốc gia lại có những lợi thế sản xuất khác nhau với các mặt hàng khác nhau.

Lý do có thương mại quốc tế xuất phát từ lý thuyết chi phí cơ hội cụ thể là đường cong giới hạn sản xuất đã bàn tới ở Kinh tế học [P2: Chi phí cơ hội]

Lịch sử thương mại quốc tế bao gồm các học thuyết sau:

1. Quan điểm Chủ nghĩa trọng thương [đầu thế kỷ 15]

Trước thế kỷ 15 không phải các tác nhân kinh tế không vận động theo nguyên tắc Kinh tế mà họ vận động nhưng không phát biểu nó một cách cụ thể. Vì không hiểu tại sao nên họ không biết thế nào là tốt thế nào là không tốt và kết quả là hàng nghìn năm trước đó cuộc sống dân cư phát triển tự phát.

Thế kỷ 15 một số nhà kinh tế học hình thành lên lý thuyết kinh tế được coi là đầu tiên gọi là Chủ nghĩa trọng thương. Chủ nghĩa trọng thương có quan điểm như sau:

  • Mối quan hệ giữa các tác nhân kinh tế là Thắng – Thua : Nếu một người có thêm một cân vàng thì người khác mất đi một cân vàng. Của cải chỉ có thể có được thông qua việc phân chia không công bằng, có nghĩa là bóc lột người khác. Giai cấp thống trị vơ vét, bóc lột từ giai cấp bị trị.
  • Mối quan hệ giữa hai nước là bảo hộ mậu dịch: Thông qua việc kích thích xuất khẩu hạn chế nhập khẩu vàng sẽ được chảy vào nước mình.
  • Quan điểm về sự giàu có của một quốc gia: Quốc gia càng có nhiều vàng bạc, đất đai, dân cư thì càng giàu có. Quan điểm này kích thích việc một nước gây chiến với một nước khác để cướp bóc vàng bạc, chiếm giữ đất đai và dân chúng.

Chủ nghĩa trọng thương mang tới một kết cục tất yếu là không kích thích sản xuất mà chỉ kích thích chiếm đoạt. Khi Dân số ngày một tăng trong sản xuất không tăng tương ứng thì đời sống người dân sẽ càng ngày kém đi.

2. Lý thuyết lợi thế tuyệt đối [Adam Smith]

Năm 1776 Adam Smith đưa ra tác phẩm “Tài sản quốc gia”, đây là tác phẩm kinh điển đưa ra rất nhiều các lý thuyết kinh tế. Trong cuốn này Adam đưa ra thuyết Lợi thế tuyệt đối.

Adam phản đối quan điểm chủ nghĩa trọng thương mà mong muốn tự do hóa thương mại. Thông qua bàn tay vô hình các nước sẽ sản xuất những mặt hàng có lợi thế lớn nhất đối với họ bằng các nguồn lực hữu hạn. Khi đó các nước sẽ được hưởng lợi nhiều nhất.

Adam cho rằng mỗi một loại hàng hóa đều có khác biệt về chi phí sản xuất. Thời điểm này Adam chỉ coi nhân công là chi phí sx duy nhất trong mô hình của mình.

Giờ công/Sản phẩm Nhật Bản Việt Nam
Thép 2 6
Vải 5 3

Ví dụ trong bảng trên ta thấy vì chi phí sản xuất thép ở Việt Nam đắt hơn ở Nhật nhưng chi phí sản xuất vải ở VN lại rẻ hơn ở Nhật vì vậy Nhật bản chỉ nên tập trung sx thép còn Việt Nam chỉ tập trung sx vải.

Bằng cuốn sách của mình, Adam Smith bắt đầu thời kỳ của Kinh tế học cổ điển mà được các chính phủ sùng bái mãi tới thời kỳ của Kynes. Quan điểm của Adam Smith là:

  • Mối quan hệ trong các tác nhân kinh tế là Thắng Thắng : Bằng cách tối ưu lợi ích cá nhân các tác nhân kinh tế đã làm gia tăng phúc lợi xã hội [mặc dù họ không chủ ý].
  • Mối quan hệ giữa hai nước là cùng phát triển: Mỗi nước có lợi thế riêng vì vậy sản xuất ra các hàng hóa với chi phí khác nhau. Bằng cách trao đổi hàng hóa giữa các quốc gia, mỗi nước sẽ thu được lợi lớn nhất với chi phí thấp nhất.
  • Quan điểm về sự giàu có của một quốc gia: là việc người dân của anh ăn gì, mặc gì, có hạnh phúc không chứ không phải là vàng bạc trong két.

Adam Smith cổ vũ xóa bỏ mọi rào cản thương mại [ Hạn ngạch, thuế,..]. Đây là một bước chuyển rất lớn, từ bảo hộ mậu dịch chuyển sang tự do thương mại.

3. Lý thuyết lợi thế so sánh [David Ricardo 1817]

Mở rộng thêm lý thuyết của Adam Smith, Ricardo cho rằng các quốc gia cần xác định đâu là mặt hàng có lợi thế so sánh để tập trung vào sản xuất

Giờ công/Sản phẩm Nhật Bản Việt Nam
Thép 2 12
Vải 5 6

Trong trường hợp này mặc dù là sản xuất vải ở Nhật vẫn rẻ hơn ở Việt Nam nhưng vì:

– Ở Nhật Bản, 1 giờ làm được 2 đv thép và 5 đv vải nên 1 đơn vị thép = 2/5 đơn vị vải

– Ở Việt Nam, 1 giờ làm được 12 đv thép và 1 đơn vị vải nên 1 đơn vị thép=2 đv vải

Như vậy 1 đơn vị thép nếu quy ra vải ở Việt Nam sẽ lớn hơn là ở Nhật bản. Nhật bản nên sx thép và mang sang Việt Nam đổi lấy 2 đv vải còn hơn là sx vải. ngược lại Việt Nam nên mang 2 đv vải sang Nhật để đổi lấy 1 đv thép còn hơn là tự sx thép.

Trường hợp thương mại quốc tế chỉ xảy ra khi cả hai nước đều cảm thấy có lợi. Nếu như 1 đv thép bằng hoặc lớn hơn 2 đơn vị vải thì Nhật bản sẽ được lợi nhưng Việt Nam lại không được lợi; còn nếu như 1 đơn vị thép < 2/5 đơn vị vải thì Việt Nam lợi nhưng Nhật bản lại không.

Vì vậy hai nước sẽ có buôn bán chừng nào 2/5 đơn vị vải < 1 đơn vị thép < 2 đơn vị vải.

Mở rộng ra giả sử như có 3 nước tham gia vào quá trình sx thì một nước nên chọn một nước có chi phí sx mặt hàng đó cao nhất để xuất khẩu.

Cả hai học thuyết của Adam Smith và David Ricardo đều cần các giả thuyết ban đầu như :

– Lao động không được dịch chuyển tự do giữa các QG [vì nếu dịch chuyển thì sẽ không còn lợi thế nữa],

– Vận chuyển giữa hai quốc gia là bằng 0,

– Chỉ có hai quốc gia và hai mặt hàng trong mô hình

– Cạnh tranh hoàn hảo tồn tại trên các thị trường [có nghĩa là có vô số người bán và vô số người mua]

– Công nghệ sx của hai QG là như nhau và không đổi [vì Adam chỉ coi nhân công là chi phí sx đầu vào duy nhất, bỏ qua các biến khác như công nghệ]

4. Mô hình Heckscher – Ohlin [mô hình H-O]

Mô hình này do hai nhà kinh tế là Eli Heckscher [1919] và Bertil Ohlin của thụy điển đồng nghĩ ra vì vậy tên gọi mô hình là nối của hai cái tên.

Mô hình này đưa ra hai yếu tố ảnh hưởng tới thương mại giữa các quốc gia:

– Mức độ dồi dào và rẻ của các yếu tố sản xuất

– Mỗi một mặt hàng lại cần tỷ lệ các yếu tố đầu vào khác nhau.

Một quốc gia nên xuất khầu các hàng hóa mà mình dồi dào yếu tố sx cho hàng hóa đó và nhập về những hàng hóa ngược lại.

Trường hợp cụ thể vì Việt Nam dồi dào lao động nhưng vốn ít vì vậy nên sản xuất giầy dép, vài,…Còn Nhật bản nhiều vốn nhưng ít lao động thì nên sx thép và nhập về vải.

Trong thực tế thì ngày nay các nước đều theo chủ nghĩa Tân trọng thương có nghĩa là khuyến khích xuất khẩu và bảo hộ mậu dịch trong nước thông qua các hàng rào thuế quan, kỹ thuật. Vì vậy ta sẽ thấy là thuế xuất khẩu thì luôn thấp thậm chí bằng 0 nhưng thuế nhập khẩu thì lại cao có thể lên tới 100%.

Tại Việt Nam chính phủ sẽ phải xác định mặt hàng xuất khẩu/nhập khẩu tập trung trong từng thời kỳ. Cụ thể từ 2011 tới 2020 Việt nam tập trung nhập khẩu các mặt hàng phục vụ sản xuất, nguyên liệu vì vậy con số này thực tế chiếm 90%; còn lại tiêu dùng là 10%. Đối với xuất khẩu thì chúng ta tập trung vào xuất khẩu các hàng hóa cần lượng lớn lao động [dầy da, may mặc,..] và tài nguyên theo hướng tăng hàm lượng chế biến.

Comments

comments

Loading Preview

Sorry, preview is currently unavailable. You can download the paper by clicking the button above.

Là học thuyết kinh tế thống trị ở các nước châu Âu từ thế kỷ XV đến giữa thế kỷ XVIII, khi hệ thống các quốc gia-dân tộc hiện đại bắt đầu hình thành ở khu vực này, trong quá trình chuyển từ nền kinh tế tự nhiên sang nền kinh tế hàng hóa. Về bản chất, đây là thời kỳ tích lũy nguyên thủy tư bản, là thời kỳ Tây Âu chuẩn bị những tiền đề hình thành trên thực tế nền sản xuất TBCN giai đoạn tự do cạnh tranh. Có thể xem CNTT là tư tưởng kinh tế đầu tiên của giai cấp tư sản trong giai đoạn chế độ phong kiến đang tan rã. Một điểm đáng chú ý là mặc dù tư tưởng trọng thương đã xuất hiện từ thế kỷ XV, nhưng phải đến cuối thế kỷ XVIII thì thuật ngữ “CNTT” [mercantilism] mới lần đầu tiên được đề cập tới trong tác phẩm kinh điển “Sự giàu có của các quốc gia” [1776] của Adam Smith [1723-1790].

CNTT vừa có những nét chung khu vực, vừa có những đặc điểm riêng biệt [CNTT trọng kim [métalliste như Tây Ban Nha], CNTT kỹ nghệ [industrialist như Pháp], CNTT thương nghiệp [commercialiste như Anh, Hà Lan], CNTT tín dụng [fiduciaire].

- Về mặt lịch sử: CNTT ra đời là hệ quả tất yếu của bối cảnh kinh tế - xã hội mới và phần lớn những nhà kinh tế thời đó là những nhà duy thương [mercantilists]; vào giai đoạn tích luỹ nguyên thuỷ của chủ nghĩa tư bản ngày càng tăng, tức là tước đoạt bằng bạo lực và tích luỹ tiền tệ ngoài phạm vi các nước Tây Âu, bằng cách cướp bóc và trao đổi không ngang giá với các nước thuộc địa thông qua con đường ngoại thương.

- Về mặt kinh tế: nền sản xuất hàng hóa của các nước Tây Âu trong giai đoạn này phát triển mạnh, thương nghiệp chiếm ưu thế trong nền kinh tế và có vị trí đặc biệt quan trọng, được coi là nguồn gốc của của cải. Cần thiết phải có lý thuyết kinh tế chính trị chỉ đạo, hướng dẫn hoạt động thương nghiệp. Theo đó, CNTT hình thành - mang đậm dấu ấn của thời kỳ tích lũy nguyên thủy, thời kỳ bình minh của chủ nghĩa tư bản.

- Về mặt chính trị: vào thời điểm giai cấp tư sản mới ra đời, đang phát triển mạnh và là giai cấp tiên tiến có cơ sở kinh tế tương đối mạnh nhưng chưa nắm được chính quyền, chính quyền do giai cấp quý tộc nắm giữ. CNTT hình thành với mục đích chống lại chủ nghĩa phong kiến, đề cao tư tưởng tư sản, chống lại tư tưởng đen tối của thời kỳ trung cổ, chủ nghĩa duy vật chống lại những thuyết giáo duy tâm của nhà thờ…

- Về phương diện khoa học tự nhiên: Điều đáng chú ý nhất trong giai đoạn này là xuất hiện những phát kiến lớn về mặt địa lý, như: Christopher Columbus tìm ra châu Mỹ [năm 1492]; Vasco da Gama tìm ra đường biển thông sang Ấn Độ, Trung Hoa và Nhật Bản [năm 1498]… mở ra khả năng phát triển thương mại và làm giàu nhanh chóng của các nước phương Tây.

Một số giai đoạn phát triển chủ yếu:

- Giai đoạn hình thành [từ giữa thế kỷ thứ XV đến giữa thế kỷ thứ XVI]: Đại biểu xuất sắc là William Starfford [1554-1612], Thomas Gresham [1519-1579] và Gasparo Scaruffi [1519-1584], với lý thuyết cân đối tiền tệ, chủ trương tăng sở hữu tiền tệ [vàng, bạc] có ở trong nước như một dạng của cải. Theo đó, các nhà trọng thương hướng việc xây dựng một cán cân tiền tệ nhập siêu và khuyến nghị một loạt chính sách như: hạn chế tối đa nhập khẩu hàng hoá không cần thiết ở nước ngoài, lập hàng rào thuế quan để bảo vệ hàng hoá trong nước, giảm lợi tức cho vay để kích thích sản xuất và nhập khẩu, buộc thương nhân nước ngoài đến buôn bán phải sử dụng số tiền mà họ có để mua hết hàng hoá mang về nước họ… Đây chính là giai đoạn tích luỹ tiền tệ của chủ nghĩa tư bản, với khuynh hướng chung là biện pháp hành chính, nghĩa là có sự can thiệp của nhà nước trong lĩnh vực kinh tế.

- Giai đoạn sau phát triển mạnh mẽ [từ cuối thế kỷ thứ XVI đến giữa thế kỷ thứ XVIII]. Đại biểu xuất sắc là: Thomas Mun [1571-1641]; Antonio Serra [1568-] và Antoine de Montchrétien [1576-1621]… với luận thuyết cân đối thương mại chủ động [cấm xuất nguyên vật liệu, cho xuất khẩu tiền]. CNTT còn được gọi là chủ nghĩa thặng dư thương mại. Họ không chú trọng đến “cân đối tiền tệ” là chính, mà chú trọng “cân đối thương nghiệp” là chính. Vì vậy, các chính sách kinh tế được khuyến nghị hướng tới việc điều tiết lưu thông hàng hóa, ví dụ như chính sách bảo hộ mậu dịch được áp dụng theo hướng đánh thuế cao vào những hàng hóa mà trong nước có khả năng sản xuất, ngược lại đánh thuế thấp đối với hàng hoá nguyên vật liệu phục vụ công nghiệp xuất khẩu; tiền tệ được tự do lưu thông, việc tích lũy tiền bị lên án; nội thương được phát triển không hạn chế,…

Nhìn chung, chính sách kinh tế của các nhà trọng thương giai đoạn này so với giai đoạn trước đã có sự biến đổi rõ rệt. Vai trò lưu thông tiền tệ và phát triển sản xuất được quan tâm đặc biệt, các chính sách mang đậm bản chất của chiến lược phát triển nền kinh tế hướng vào xuất khẩu. Với mục đích tích luỹ tiền tệ cho sự phát triển chủ nghĩa tư bản, biện pháp quản lý thay đổi, chuyển từ biện pháp hành chính là chủ yếu sang biện pháp kinh tế là chủ yếu.

- Giai đoạn tan rã [từ cuối thế kỷ XVII đến nửa đầu thế kỷ XVIII]: Sự tan rã của CNTT là một tất yếu bởi nhiều lý do khác nhau, như: [i] Song song với sự phát triển của lực lượng sản xuất, thời kỳ tích luỹ nguyên thuỷ của chủ nghĩa tư bản đã chuyển sang thời kỳ phát triển sản xuất tư bản chủ nghĩa, nguồn gốc của cải được đánh giá lại không phải từ lưu thông mà từ sản xuất mà có. Chỉ có sản xuất mới đem lại sự giàu có thực sự, vì vậy, lợi ích của giai cấp tư sản đã chuyển sang cả lĩnh vực sản xuất; [ii] Các chính sách theo quan điểm trọng thương đã hạn chế tự do kinh doanh, mâu thuẫn với đông đảo tầng lớp tư bản công nghiệp trong giai cấp tư sản, trong nông nghiệp, nội thương; [iii] Về phương diện lý luận đòi hỏi phải phân tích, nghiên cứu sâu sắc sự vận động của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa như: bản chất các phạm trù kinh tế [hàng hoá, giá trị, tiền tệ, tư bản, lợi nhuận,…], nội dung và vai trò của các quy luật kinh tế [quy luật giá trị, cạnh tranh, cung cầu,…]. CNTT không giải quyết được các vấn đề kinh tế đặt ra.

Tư tưởng kinh tế chính:

Một là, quan niệm về của cải: Các nhà trọng thương đánh giá cao vai trò của tiền tệ, coi tiền tệ [vàng bạc] là tiêu chuẩn cơ bản của của cải và phương thức làm tăng của cải chính là làm tăng lượng tiền tệ. Của cải, tiền tệ được các nhà trọng thương xem xét dưới góc độ của quốc gia, dân tộc [họ quan tâm đến sự giàu có của cả quốc gia chứ không đơn thuần dưới góc độ mỗi cá nhân]. Theo họ, một xã hội giàu có là có được nhiều tiền, sự giàu có tích luỹ được dưới hình thái tiền tệ là sự giàu có muôn đời vĩnh viễn; quốc gia càng nhiều tiền thì càng giàu, hàng hoá chỉ là phương tiện làm tăng khối lượng tiền tệ.

Hai là, quan niệm về thương mại: CNTT đánh giá cao vai trò của thương mại, đặc biệt là ngoại thương. Họ cho rằng, chỉ có thương mại mới là nguồn gốc tạo ra của cải và khả năng tăng trưởng của một nền kinh tế chỉ có thể có được thông qua hoạt động thương mại; trong đó, ngoại thương đóng vai trò sinh tử đối với phát triển kinh tế quốc gia. CNTT cho rằng nội thương như hệ thống ống dẫn và ngoại thương là máy bơm. Muốn tăng của cải, phải có ngoại thương nhập dẫn của cải thông qua hệ thống ống dẫn nội thương.

Xuất phát từ đây, các nhà trọng thương đã chú trọng vào khai thác thương mại quốc tế như một công cụ để gia tăng của cải dân tộc. Họ hướng tới xây dựng cán cân thương mại [quốc tế] thuận lợi, trong đó xuất khẩu nhiều hơn nhập khẩu. Trong quan điểm của ngoại thương, tính dân tộc thể hiện rất rõ. Các đại biểu của CNTT đều đòi hỏi nhà nước phải có các biện pháp nhằm bảo vệ thị trường nội địa tránh sự xâm nhập, cạnh tranh của hàng hóa nước ngoài; chủ trương tìm mọi cách để bảo vệ vàng bạc, của cải của nước mình không chảy ra nước ngoài.

Ba là, CNTT đề cao vai trò của nhà nước, sử dụng quyền lực nhà nước để phát triển kinh tế vì tích luỹ tiền tệ chỉ thực hiện được nhờ sự giúp đỡ của nhà nước. Họ đòi hỏi nhà nước phải tham gia tích cực vào đời sống kinh tế để thu hút tiền tệ càng nhiều càng tốt, và hạn chế tiền tệ ra khỏi nước. CNTT không quan tâm đến việc cải thiện cuộc sống của con người hay thúc đẩy hợp tác giữa các quốc gia trong hệ thống thế giới. Mục tiêu hàng đầu của cách tiếp cận này là tối đa hóa an ninh quốc gia và quyền lực, đồng thời xem hoạt động kinh tế như là một phương tiện để đạt được mục đích.

Nhằm tăng cường quyền lực và nâng cao sức mạnh quốc gia thông qua hoạt động kinh tế, các quốc gia theo CNTT thường theo đuổi hai chính sách chủ chốt, đó là:

Thứ nhất, định hướng nền kinh tế trong nước để tạo ra thặng dư thương mại. Nói cách khác, mục tiêu là tăng cường xuất khẩu trong khi hạn chế nhập khẩu. Điều này dẫn tới các chính sách mang tính chất bảo hộ nền kinh tế trong nước chủ yếu thông qua hàng rào thuế quan. Khoản thặng dư thương mại thu được có thể giúp các quốc gia này nâng cao sức mạnh bằng cách xây dựng quân đội, mua sắm vũ khí…, qua đó củng cố an ninh quốc gia và nâng cao vị thế quốc tế.

Thứ hai, định hướng các ngành công nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa có giá trị thặng dư cao từ những nguyên liệu thô được nhập khẩu với giá rẻ. Vì vậy, các nước theo chính sách trọng thương thường có xu hướng không khuyến khích sản xuất nông nghiệp mà quan tâm hơn đến sản xuất công nghiệp, áp đặt thuế cao đối với những hàng hóa được nhập khẩu, và cung cấp những khoản trợ cấp cho các ngành công nghiệp trong nước. Các nước này cũng thường theo đuổi những chính sách làm lợi cho quốc gia mình nhưng lại gây hại cho quốc gia khác. Vì vậy, có thể nói các quốc gia theo CNTT, nhìn chung là những quốc gia có mức độ can thiệp sâu vào nền kinh tế.

Nhận xét:

CNTT là sản phẩm tất yếu của giai đoạn tích luỹ nguyên thuỷ và chuyển dần từ kinh tế hàng hoá giản đơn sang kinh tế thị trường. Sự ra đời của CNTT cũng là khởi đầu quá trình mở rộng thuộc địa của người châu Âu - đây không phải là hệ quả ngẫu nhiên. Nếu như ở thế kỷ XVII, mối quan hệ giữa chính quốc và thuộc địa được đặt ra thì phải đến thế kỷ XVIII, với sự phát triển của tư tưởng kinh tế tự do, vấn đề này mới phải xem xét lại, đặt ra bức thiết hơn cho các nhà tư tưởng Tây Âu. Theo đó, dẫn đến các hình thức khai thác thuộc địa khác nhau, tư tưởng kinh tế chuyển sang dạng thức mới, tiến gần hơn với bản chất của chủ nghĩa tư bản thế kỷ XVIII-XIX.

Về phương diện lý luận: CNTT là trào lưu tư tưởng xuất hiện và chi phối tiến trình phát triển kinh tế ở hầu khắp các quốc gia Tây Âu trong một giai đoạn lịch sử khá dài. Với phương pháp tiếp cận riêng, mang tính chất kinh nghiệm, CNTT đã phản ánh và trực tiếp thúc đẩy tiến trình tích lũy nguyên thủy tư bản, đẩy nhanh sự hình thành của chủ nghĩa tư bản, của nền kinh tế hàng hóa Tây Âu. Từ đây, các nhà trọng thương đã chỉ ra sức mạnh điều tiết kinh tế của nhà nước. Tuy chỉ dừng lại ở chủ nghĩa kinh nghiệm, nhưng giá trị cốt lõi của các chính sách kinh tế mà các nhà trọng thương chỉ ra vẫn là nền tảng của các chính sách kinh tế đương đại, nhất là các chiến lược và chính sách nhằm sản xuất hàng thay thế nhập khẩu và sản xuất hàng xuất khẩu.

Các nhà trọng thương đã tự tìm kiếm và xác định đối tượng nghiên cứu khi đưa ra quan điểm của cải và phương thức làm gia tăng của cải, xa rời những giáo điều kinh viện của phong kiến và nhà thờ, hướng tới đời sống thực tiễn và chủ nghĩa duy vật. Có thể nói, CNTT là hệ tư tưởng kinh tế sơ khai của chủ nghĩa tư bản, là hệ tư tưởng kinh tế đầu tiên của giai cấp tư sản. Nói cách khác, CNTT đã ghi dấu ấn của mình với tư cách là nghiên cứu đầu tiên về mặt lý luận phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa trong giai đoạn khởi thảo, là khởi xướng trực tiếp trong khoa học kinh tế.

Tài liệu tham khảo:

1. David Begg, Kinh tế học vĩ mô, Nxb Thống kê, Hà Nội, 2008.

2. Lịch sử các học thuyết kinh tế, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, 2010.

3. Những vấn đề cơ bản của các lý thuyết kinh tế, Nxb Tổng hợp Tp. Hồ Chí Minh, 2010.

4. Holger Rogall, Kinh tế học bền vững, Nxb Khoa học tự nhiên và công nghệ, Hà Nội, 2011.

5. Paul A Samuelson-Wiliam D. Nordhalls, Kinh tế học, Sách tham khảo, tái bản lần thứ nhất, Nxb. Tài chính, Hà Nội, 2011.

6. The Great Soviet Encyclopedia [1979], Советская Энциклопедия, 3rd Edition, 1970-1979.

Video liên quan

Chủ Đề