Phương pháp dạy học Ngữ văn THPT

(GD&TĐ) - Bộ GD&ĐT vừa có thông báo kết quả hội thảo khoa học quốc gia về dạy học Ngữ văn ở trường phổ thông Việt Nam được tổ chức tại thành phố Huế đầu tháng 1 vừa qua. Hội thảo đã đánh giá về chương trình, sách giáo khoa, phương pháp dạy học, kiểm tra đánh giá, công tác đào tạo, bồi dưỡng giáo viên, đồng thời nên ra những khuyến nghị về định hướng và giải pháp đổi mới dạy học Ngữ văn.

Phương pháp dạy học Ngữ văn THPT

Theo hội thảo, chương trình, sách giáo khoa hiện hành có một bước tiến so với Chương trình, sách giáo khoa trước đó. Về cơ bản, mục tiêu môn học đáp ứng đúng qui định của Luật Giáo dục và của Chương trình giáo dục phổ thông, khá toàn diện và đầy đủ trên 3 bình diện: kiến thức, kĩ năng và thái độ; chương trình đã xác định được chuẩn kiến thức, kỹ năng làm cơ sở để biên soạn sách giáo khoa, sách giáo viên để dạy học, kiểm tra đánh giá kết quả học tập; cập nhật khoa học Ngôn ngữ và Văn học, đã thể hiện được nguyên tắc tích hợp trong dạy học.

Nhìn chung, SGK môn Ngữ văn đã cơ bản phù hợp với chương trình, với trình độ của học sinh; các tác phẩm văn học được bố trí theo thể loại giúp học sinh có những hiểu biết về đặc trưng thể loại, từ đó hình thành kỹ năng phân tích những tác phẩm cùng thể loại.

Phương pháp dạy học Ngữ văn đã có những chuyển biến khá tích cực. Nhiều giáo viên Ngữ văn đã bước đầu áp dụng các phương pháp, kĩ thuật dạy học mới và công nghệ thông tin, truyền thông vào quá trình dạy học, bước đầu coi trọng việc chuyển hướng từ giảng văn sang phương pháp đọc hiểu văn bản.

Về kiểm tra đánh giá, đã bước đầu quan tâm ra đề theo hướng mở, gắn với các vấn đề cuộc sống. Nhiều giáo viên đã biết dựa vào chuẩn để xác định nội dung, xây dựng ma trận câu hỏi trắc nghiệm khách quan, câu hỏi tự luận khi xây dựng đề. Vấn đề đánh giá trong quá trình dạy học đã từng bước được quan tâm, những nghiên cứu về PISA bước đầu được ứng dụng vào thực tiễn đọc hiểu văn bản ở Việt Nam; bước đầu kết hợp giữa đánh giá của giáo viên và hoạt động tự đánh giá của học sinh.

Công tác bồi dưỡng giúp GV bổ sung kiến thức mới, đáp ứng yêu cầu dạy học Ngữ văn được tổ chức thường xuyên, định kì hằng năm đã giúp cho chất lượng giảng dạy bộ môn được cải thiện.

Phương pháp dạy học Ngữ văn THPT
Nhìn chung, SGK môn Ngữ văn đã cơ bản phù hợp với chương trình, với trình độ của học sinh

Tuy nhiên, chương trình dạy ngữ văn ở trường phổ thông vẫn còn những hạn chế cần khắc phục

Thứ nhất, chương trình chưa nhất quán theo một trục qua các cấp học, nội dung còn nhiều trùng lặp, tính tích hợp giữa các hợp phần càng lên các lớp trên càng mờ nhạt. Việc tách biệt các hợp phần Tiếng Việt và Làm văn trong CT là không hợp lý. CT và SGK vẫn nặng tính hàn lâm, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển năng lực học sinh – nhất là phát triển năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo.

Nhiều bài học trong SGK, nhất là ở các lớp trên, nặng về lý thuyết, ít có tác dụng rèn luyện kỹ năng cho HS. Một số nội dung còn cao đối với khả năng tiếp thu của HS, nhất là HS nông thôn, miền núi và những HS có ở những vùng kinh tế - xã hội khó khăn. Thời lượng dành cho một số nội dung học tập chưa hợp lý. Hầu hết tác phẩm dạy trong SGK THCS, THPT tuy có vị trí trong lịch sử văn học nhưng đã ra đời quá lâu, nhiều tác phẩm không phù hợp với tâm lý của HS hiện nay, do đó không khơi gợi được hứng thú học tập của các em.

Việc đổi mới phương pháp dạy học và kiểm tra đánh giá vẫn chưa thực sự chuyển biến, nhiều khi còn dừng ở hình thức, chưa có chiều sâu. Phương pháp dạy đọc hiểu chưa có hiệu quả, giáo viên chưa chú ý đến việc hình thành cho học sinh phương pháp đọc văn bản. Việc kiểm tra đánh giá vẫn chủ yếu là kiểm tra kiến thức nhớ, tái hiện, làm theo, chép lại,... học tác phẩm nào thi đúng tác phẩm đó, chưa đánh giá đúng được sự vận dụng kiến thức, chưa chú trọng việc đánh giá thường xuyên trên lớp học và sử dụng kết quả đánh giá để điều chỉnh nội dung, phương pháp dạy và học.

Chất lượng đầu ra của sinh SV chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn mặc dù điều kiện học tập ngày càng tốt hơn. Nhiều SV sau khi ra trường lúng túng trong việc dạy học bởi khoảng cách giữa việc học tập - thực tập ở nhà trường và thực tế dạy học. Kiến thức Văn, kĩ năng nghề của SV ngày càng sa sút, chưa coi trọng học tập và rèn luyện nghiệp vụ sư phạm. Công tác tuyển sinh còn nhiều vấn đề cần bàn, CT đào tạo chưa xác định rõ các tiêu chí cho các học phần cơ bản/lựa chọn/bắt buộc; các tổ bộ môn trong khoa Ngữ văn chưa có sự phối hợp tốt, việc cấp chứng chỉ sư phạm chưa được quản lí chặt chẽ, phương pháp đào tạo lạc hậu, chưa phát huy tính tích cực và năng lực tự học của sinh viên.

Đội ngũ GV thụ động trong việc đáp ứng những đòi hỏi của việc thay đổi của chương trình, sách giáo khoa do ý thức tự học, tự nghiên cứu, nâng cao trình độ, chuyên môn nghiệp vụ còn hạn chế. Công tác bồi dưỡng GV tuy được tổ chức thường xuyên, nhưng chưa thực sự xuất phát từ nhu cầu của giáo viên, hiệu quả thấp.

Lan Anh


Page 2

Phương pháp dạy học Ngữ văn THPT

(GD&TĐ)-Bộ GD&ĐT vừa ban hành thông tư quy định về cộng tác viên (CTV) thanh tra giáo dục. Theo quy định này, một trong các tiêu chuẩn của CTV viên thanh tra giáo dục thường xuyên là phải có thời gian công tác trong ngành GD từ 5 năm trở lên.

Ngoài ra, phải đạt chuẩn về trình độ đào tạo theo quy định của Luật Giáo dục, được đánh giá xếp loại khá trở lên theo chuẩn nghề nghiệp, chuẩn cán bộ quản lý đối với từng cấp học và trình độ đào tạo; là giáo viên dạy giỏi cấp huyện trở lên (đối với giáo viên mầm non, tiểu học, trung học cơ sở); giáo viên dạy giỏi cấp trường trở lên (đối với giáo viên trung học phổ thông); công chức, viên chức hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ (đối với các trường hợp không xếp loại giáo viên giỏi); đã được bồi dưỡng nghiệp vụ về thanh tra giáo dục theo chương trình do Bộ trưởng Bộ GD&ĐT ban hành.Bên cạnh đó, các tiêu chuẩn chung của CTV thanh tra GD là phải có phẩm chất chính trị, đạo đức tốt; có ý thức trách nhiệm, liêm khiết, trung thực, công minh, khách quan. Am hiểu pháp luật và có trình độ chuyên môn phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ thanh tra giáo dục.Giấy chứng nhận cộng tác viên thanh tra giáo dục có giá trị trong thời hạn 3 năm kể từ ngày cấp. Chánh Thanh tra Bộ, Chánh Thanh tra sở đề xuất số lượng cộng tác viên thanh tra giáo dục thường xuyên, đảm bảo đủ thành phần ở các môn học, cấp học và trình độ đào tạo.

Cộng tác viên thanh tra giáo dục sau khi hoàn thành nhiệm vụ ở cơ quan quản lý giáo dục, cơ sở giáo dục hiện đang công tác, được hưởng chế độ đãi ngộ khi tham gia Đoàn thanh tra (không bao gồm thanh tra các kỳ thi) . Cụ thể:

CTV thanh tra giáo dục là cán bộ quản lý cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông hoặc giáo viên mầm non, giáo viên phổ thông, thời gian làm việc một buổi được tính bằng 3 tiết (hoặc giờ dạy) định mức;CTV thanh tra giáo dục là giáo viên, giảng viên ở các đại học, học viện, trường đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp, thời gian làm việc một buổi được tính bằng 1,5 giờ chuẩn giảng dạy; CTV thanh tra giáo dục là công chức, viên chức thuộc Bộ GD&ĐT, sở GD&ĐT, phòng GD&ĐT, các đại học, học viện, trường đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp, thời gian làm việc một buổi được tính bằng 6 giờ định mức. Thông tư có hiệu lực thi hành kể từ ngày 8/2/2013, thay thế Thông tư số 16/TT/LB ngày 23/8/1995 Liên Bộ Giáo dục và Đào tạo - Tài chính “Hướng dẫn thực hiện chế độ đối với giáo viên được điều động làm nhiệm vụ thanh tra giáo dục”.

Thông tư cũng ghi rõ: Bãi bỏ điểm a khoản 2 Điều 11 Thông tư số 28/2009/TT-BGDĐT ngày 21/10/2009 của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT ban hành Quy định về chế độ làm việc đối với giáo viên phổ thông; điểm a khoản 3 Điều 5 Thông tư số 48/2011/TT-BGDĐT ngày 25/10/2011 của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT ban hành Quy định về chế độ làm việc đối với giáo viên mầm non.

Lập Phương


Page 3

Phương pháp dạy học Ngữ văn THPT
- Dự kiến, sau năm 2015, hệ thống chương trình giáo dục phổ thông (GDPT) sẽ giảm số môn học bắt buộc, tăng số môn học tự chọn. Ở từng cấp học giảm số môn, tăng cường các hoạt động GD

GS.TS Đinh Quang Báo cho biết, cấu trúc chương trình phổ thông vẫn sẽ là 12 năm nhưng chương trình có trong số cho môn cốt lõi.

Cụ thể, cấp Tiểu học hiện hành có 11 môn học và 3 hoạt động GD, sau năm 2015 có 5 môn học và 4 hoạt động GD;

Cấp THCS hiện hành có 13 môn học và 4 hoạt động GD, sau năm 2015 có 10 môn học và 3 hoạt động GD;

Cấp THPT: Lớp 10 hiện có 13 môn học và 5 hoạt động GD, sau năm 2015 có 11 môn học với 2 hoặc 3 chủ đề tự chọn và 3 hoạt động GD; lớp 11 và lớp 12 hiện hành có 13 môn học với 5 hoạt động GD, sau năm 2015 còn 4 môn học (Ngữ văn, Toán, Giáo dục công dân, Ngoại ngữ) và 3 môn học tự chọn bắt buộc, 3 hoạt động GD.

Điểm mới nữa được ban soạn thảo đưa ra là phương án thay đổi toàn diện cách kiểm tra đánh giá. Theo đó, thang đo đánh giá năng lực không quy về một nội dung đã học mà được quy chuẩn theo mức độ phát triển năng lực người học. Việc đánh giá năng lực tập trung vào sự tiến bộ của người học hơn là mục tiêu đánh giá để xếp hạng giữa các người học với nhau.

Sau năm 2015, dự kiến kỳ thi tuyển sinh đầu vào THCS, THPT sẽ giao quyền tự chủ hoàn toàn cho các trường. Bộ GD-ĐT sẽ giao việc tổ chức và xử lý kết quả thi tốt nghiệp THPT cho các sở GD-ĐT, bộ chỉ giữ nhiệm vụ quản lý vĩ mô là ban hành quy chế thi, phôi bằng và xây dựng hệ thống câu hỏi, bài tập. Kết quả xếp loại bằng tốt nghiệp được xét trên cơ sở kết quả đánh giá cả quá trình học và kết quả thi. Để có cơ sở so sánh, đối chiếu sự tăng trưởng chất lượng theo thời gian, Bộ GD-ĐT cũng sẽ tổ chức đánh giá định kỳ quốc gia ở lớp cuối mỗi cấp học với các lớp 5, 9, 12.

GS Báo khẳng định, việc giảm một số môn không phải là giảm tải, cắt giảm chương trình đơn thuần mà giảm là để tích hợp tốt hơn. Học sinh thu nạp được lượng tri thức rộng hơn, sâu hơn, nhiều hơn.

"Về nguyên tắc học gì thi nấy. Chọn môn nào phải tính toán thể hiện được kiến thức tích hợp. Không thể làm/dạy theo kiểu đơn tuyến như hiện nay tức mà phải để học sinh vận dụng tất cả những kiến thức ấy" - GS nói.

Đề án đổi mới lần này hướng vào dạy học sinh năng lực. Để triển khai vấn đề chất lượng giáo viên là quan trọng nhất. Hiện đội ngũ của chúng ta còn lúng túng khi dạy theo năng lực. Nhưng có thể họ cũng chỉ là nạn nhân của cách đánh giá hiện nay. Đánh giá tập trung vào khối lượng kiến thức, chú trọng thành tích thì cách dạy/học khác.


Page 4

Phương pháp dạy học Ngữ văn THPT

(GD&TĐ)-Hội thảo phổ biến kết quả nghiên cứu về giới và sức khỏe sinh sản cho thanh niên, học sinh, sinh viên và tập huấn kế hoạch tổ chức triển lãm về giới và sức khỏe sinh sản cho thanh niên, học sinh, sinh viên được tổ chức sáng nay (4/12) tại Hà Nội.

Đến dự có Thứ trưởng Bộ GD&ĐT Trần Quang Quý; Trưởng Đại diện Văn phòng Unesco tại Việt Nam - bà Katherine Muller-Marin, Trưởng Đại diện Văn phòng Unesco tại Việt Nam; các chuyên gia tư vấn quốc tế; đại diện Bộ Lao động, thương binh và xã hội và đại diện 7 sở HD&ĐT khu vực phía Bắc...Tại hội thảo, báo cáo kết quả nghiên cứu về tình dục vị thành niên và giáo dục tình dục trên các đối tượng độ tuổi từ 14 đến 24 của Trung tâm Sáng kiến sức khỏe và dân số đã đưa ra những con số rất cụ thể về kiến thức cũng như thái độ của thanh niên, học sinh, sinh viên tham gia khảo sát đối với tình yêu và tình dục, trong đó có tình dục tiền hôn nhân; sự an toàn trong hẹn hò; vấn đề mang thai, HIV và tình dục an toàn; kiến thức về lây truyền và phòng chống HIV/AIDS; thái độ và sự hiểu biết của những đối tượng này đối với bao cao su, thuốc tránh thai nói riêng và sử dụng các biện pháp tránh thai nói chung; Sự tự chủ của vị thành niên trong việc lựa chọn hành vi tình dục; sự chia sẻ về tình yêu, tình dục đối với phụ huynh, giáo viên cũng như bạn bè; các yếu tố về môi trường ảnh hưởng đến thực tiễn tình dục của vị thành niên... Khuyến nghị từ nghiên cứu này đưa ra là, giáo dục giới tính phải được đưa thành một nội dung bắt buộc của chương trình giáo dục phổ thông. Đồng thời, việc giảng dạy nội dung này cần được bắt đầu trước khi học sinh nữ và học sinh nam bước vào giai đoạn dậy thì. Nội dung giáo dục giới tính không nên bắt đầu bằng hậu quả của tình yêu và tình dục mà thay vào đó là chú trọng đến sức khỏe giới tính lành mạnh. Giáo dục giới tính cần phải là một quá trình liên tục và tổng thể chứ không phải là các phần riêng lẻ, độc lập. Bên cạnh đó, chương trình giáo dục giới tính trong nhà trường cần được thảo luận với cả phụ huynh để họ có thể hỗ trợ hiệu quả trong quy trình này.... Phát biểu tại hội thảo, Thứ trưởng Bộ GD&ĐT Trần Quang Quý cho biết, Bộ GD&ĐT đã chủ động từng bước đưa nội dung giáo dục sức khỏe sinh sản, giới, giới tính, truyền thông về bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em, giáo dục kỹ năng sống, phòng, chống HIV/AIDS vào Chỉ thị năm học và chỉ đạo toàn Ngành theo từng năm học thông qua các công văn hướng dẫn nhiệm vụ năm học về giáo dục thể chất và y tế trường học.

Kiến thức về giới và sức khỏe sinh sản không chỉ được phổ biến, tuyên truyền trong các hoạt động giảng dạy trong nhà trường; các hoạt động ngoại khoá; thông tin, phát thanh, phổ biến dưới cờ mà còn được tuyên truyền, phổ biến sâu rộng cho các em học sinh, sinh viên thông qua các hoạt động của các phong trào thi đua “Trường học thân thiện - học sinh tích cực”; phong trào “Hai không”. Các báo, tạp chí của ngành đã có hàng chục triệu trang chuyên mục về phòng, chống HIV/AIDS, sức khỏe giới tính và sức khỏe sinh sản, cung cấp kịp thời các thông tin bổ ích cho công tác phòng, chống HIV/AIDS, sức khỏe giới tính và sức khỏe sinh sản đến cán bộ, giáo viên các trường học trên khắp mọi miền đất nước.

Để tăng cường vấn đề giáo dục sức khỏe sinh sản cho học sinh trong nhà trường, Thứ trưởng cho rằng, cần tăng cường tuyên truyền chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước và Chính phủ về giáo dục sức khỏe sinh sản, giới tính; truyền thông về bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em, giáo dục kỹ năng sống, bình đẳng giới nói chung và bình đẳng giới trong giáo dục. Hoàn thiện cơ sở pháp lý thông quan việc nghiên cứu, ban hành chiến lược, chính sách và mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới; Kiện toàn bộ máy làm công tác quản lý nhà nước về giáo dục sức khỏe sinh sản, giới, giới tính, truyền thông về bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em, giáo dục kỹ năng sống, bình đẳng giới tại các cơ sở. Cùng với đó, xây dựng và tổ chức thực hiện Kế hoạch hành động thực hiện Chiến lược về bình đẳng giới; tăng cường hoạt động của hệ thống các Ban Chỉ đạo phòng, chống AIDS và phòng, chống tệ nạn ma tuý, mại dâm trong các cơ sở giáo dục. Đặc biệt là thực hiện Kết luận của Phó thủ tướng Chính phủ Nguyễn Thiện Nhân ngày 4/1/2012 giao Bộ GD&ĐT nghiên cứu đưa nội dung mất cân bằng giới tính khi sinh, giáo dục giới tính, sức khỏe sinh sản vào chương trình giáo dục trong nhà trường phổ thông.

Thứ trưởng Trần Quang Quý cũng yêu cầu nâng cao chất lượng dạy và học, hoạt động ngoại khoá về giáo dục giới tính, truyền thông về bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em, giáo dục kỹ năng sống, phòng, chống HIV/AIDS. Chú trọng phối hợp giữa gia đình, nhà trường và cộng đồng trong giáo dục sức khỏe sinh sản, giới, giới tính, truyền thông về bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em, giáo dục kỹ năng sống, phòng, chống HIV/AIDS; chống kỳ thị và phân biệt đối với trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS; đảm bảo an toàn, thân thiện trong các dịch vụ y tế trong các cơ sở giáo dục; tăng cường kiểm tra, giám sát và tăng cường hợp tác quốc tế về giáo dục giới tính, truyền thông về bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em, giáo dục kỹ năng sống, giáo dục phòng, chống HIV/AIDS...

Tại hội thảo, thông tin tổ chức triển lãm về giới và sức khỏe sinh sản cho thanh niên, học sinh, sinh viên cũng được công bố.

Hiếu Nguyễn


Page 5

Phương pháp dạy học Ngữ văn THPT

(GD&TĐ) - Nhiều giáo viên chủ quan cho rằng, chỉ cần dốc tất cả sự nhiệt tình để truyền thụ kiến thức trong một tiết dạy, như thế là thành công. Thật ra, nghề dạy học là một trong những nghề công phu nhất. Một giờ dạy trên lớp có cho hiệu quả hay không phụ thuộc vào nhiều yếu tố, mà chỉ khi nào, thầy chuẩn bị tốt ở vai trò chủ đạo, trò học tập trong tâm thế chủ động thì mới gọi là thành công...

Tâm thế của người thầy giáo

Kinh nghiệm qua những lần đi dự giờ các giáo viên cho thấy, yếu tố đầu tiên đem đến thành công cho một giờ dạy trên lớp là tâm thế thoải mái, sự tự tin của người thầy giáo khi bước vào lớp học. Một là do chính thầy giáo chuẩn bị bài kỹ càng nên học sinh dễ tiếp thu bài; hai là chính sự tự tin của người thầy làm không khí lớp học thêm phấn chấn .

Một nữ giáo viên ở trường trung học phổ thông nọ kể lại: Có lần đã vào thời điểm gần kết thúc năm học, Sở Giáo dục và Đào tạo đột xuất thông báo xuống trường về việc đoàn thanh tra của Bộ Giáo dục và Đào tạo đi thực tế, kiểm tra tình hình thực hiện chương trình ở cơ sở. Cả Ban giám hiệu và giáo viên đều lo lắng, vì không kịp chuẩn bị trước để đối phó như mỗi khi có thanh, kiểm tra, nề nếp cuối năm có phần trễ nải. Cuối cùng thì đoàn thanh tra vào dự đột xuất một tiết dạy lịch sử lớp 11 của đúng nữ GV nọ. Cô cho biết : “ Thú thật là lúc đó em vô cùng lo sợ, vì từ nhiều năm em chỉ chuyên dạy lịch sử lớp 10; nhưng vì sĩ diện của bản thân, của trường, em lấy hết can đảm bước vào lớp, trên môi nở một nụ cười thân thiện với tất cả. Học sinh nhìn cô giáo mới cũng với vẻ thân thiện và chờ đợi. Thế là em bình tĩnh tập trung tất vào bài giảng, cố nhớ những gì cần phải nhớ. Tuy tiết dạy hôm ấy không thật xuất sắc như mọi tiết khác, nhưng cũng diễn ra trôi chảy từ đầu đến cuối.”

Sự chi phối của tâm thế người thầy đối với hiệu quả lên lớp như vậy, nhưng khi chuẩn bị một giáo án lên lớp, người thầy đã không lường trước những tình huống sẽ xảy ra. Tại sao có hiện tượng một học sinh khi kiểm tra bài cũ ở môn học này luôn đủ điểm, còn ở môn học khác lại rất hay bị điểm yếu, kém? Hãy xem lại thái độ của người thầy giáo khi gọi em lên bảng để kiểm tra. Chính vì thế, có giáo viên đã dùng “ thủ thuật” tạo tâm thế trước khi kiểm tra bài cũ bằng cách khi vào lớp, khen một bình hoa tươi cắm khéo, hỏi han, trò chuyện một cách tự nhiên với học sinh. Tâm thế của người thầy giáo còn rất cần trong khi giới thiệu chuyển tiếp từ bài cũ sang bài mớí, làm cho lời giới thiệu bài mạch lạc, trôi chảy hơn.

Cải tiến khâu kiểm tra bài cũ

Khái niệm “cũ” và “ mới” ở phạm trù kiến thức không những không khác biệt nhau như xem xét hình thức của một vật thể, mà nó còn dung hoà trong một hệ thống. Trong một bộ môn, kiến thức mới là sự tiếp nối của kiến thức được gọi là “ cũ”. Hiểu được vấn đề này, người thầy giáo không thể xem nhẹ khâu kiểm tra bài cũ. Khi học sinh nắm chắc bài cũ tức là người thầy đã thành công 50%.

Muốn học sinh nắm vững bài cũ, có mấy thao tác giáo viên cần lưu ý: Chuẩn bị kỹ các câu hỏi ở phần củng cố lại bài học; Cho học sinh chuẩn bị bài ở nhà theo hệ thống câu hỏi đó; Chọn câu hỏi kiểm tra bài phù hợp với từng đối tượng; Mức độ kiểm tra ở mỗi lần tăng dần từ dễ đến khó với mỗi học sinh để các em có cơ hội tiến bộ. Không vội trách phạt, nhục mạ một học sinh không thuộc bài khi chưa hiểu rõ nguyên nhân. Tất nhiên không phải giáo viên nào cũng làm được như vậy. Nhưng nếu kiên trì và tính toán một cách khoa học từng thao tác như trên, nhất định sẽ thành công.

Trong thực tế, giáo viên rất hay kêu ca học sinh lười học, hay là chậm tiếp thu bài. Nhưng bản thân giáo viên thì chưa chắc đã chu đáo khi soạn thảo bước kiểm tra bài cũ trong giáo án lên lớp của mình, có khi chỉ là soạn đối phó cho đủ 5 bước lên lớp mà thôi. Hệ thống câu hỏi kiểm tra bài cũ cũng phải đảm bảo tính tối ưu như hệ thống câu hỏi dẫn đắt tìm hiểu bài mới: Tính bao quát, tính trọng tâm, tính vừa sức.

Ngoài ra cũng cần phải chú ý các hình thức kiểm tra, không nhất thiết khi kiểm tra miệng cứ phải gọi học sinh lên phía trên bục giảng để đọc thuộc làu lý thuyết, mà có thể để học sinh đứng ở bên dưới trình bày bài hoặc chiếu lên bảng hệ thống câu hỏi trắc nghiệm, bản đồ tư duy cho học sinh phát hiện nhanh. Trong vòng 10 phút kiểm tra bài cũ, vẫn có thể huy động được nhiều học sinh tham gia chứ không chỉ kiểm tra 1, 2 em. Chuẩn bị kỹ lưỡng khâu kiểm tra bài cũ như vậy, học sinh không bị cho điểm oan; không hao phí thời giờ cho sự khiển trách; kiến thức được củng cố vững chắc, nhanh tiếp thu bài mới...

Thay đổi “khẩu vị” trong khi giảng bài

Người thầy giáo có thể say mê giảng bài suốt gần cả tiếng đồng hồ của một tiết học mà không có cảm giác mệt mỏi. Nhưng với một học sinh, việc ngồi im để nghe thầy giảng bài suốt gần cả tiếng không phải là điều dễ dàng. Hiện tượng uể oải, ngáp vặt, ngủ gục, nói chuyện riêng trong lớp diễn ra khá phổ biến. Những giáo viên thiếu kinh nghiệm khi bắt gặp những hiện tượng như vậy thường hay nổi nóng, và buộc học sinh phải ngồi nghe một cách nghiêm túc mà không biết làm như vậy không những không mang lại hiệu quả gì mà còn gây thêm sự căng thẳng trong lớp học.

Để một tiết học diễn ra nhẹ nhàng, sinh động, giáo viên cần lưu ý những điểm sau đây: Lường trước đối tượng học sinh thiếu tập trung do tác động của hoàn cảnh khách quan (có chuyện không hay trong gia đình, sức khoẻ kém, cơ thể mệt mỏi) để có cách giảng bài thích hợp; Không rập khuôn theo một trình tự mà học sinh đã quá quen thuộc; Linh hoạt thay đổi khẩu khí, thay đổi cách thức hỏi, giảng giải đối với học sinh; Không tiếp tục giảng giải khi học sinh ở dưới lớp ồn ào... mà có thể bất ngờ gọi một học sinh kiểm tra lại kiến thức mà giáo viên vừa truyền đạt.

Có một vị phụ huynh than phiền về đứa con trai học lớp 11 không phải là đứa con hư hỏng không biết vâng lời cha mẹ, nhưng lại bỏ rất nhiều giờ học Toán. Tiếp cận, gần gũi em học sinh này một thời gian, chúng tôi mới biết em bị mất căn bản sau kỳ nghỉ ốm một tuần lễ vào năm học lớp 10, từ đó, mỗi khi vào tiết Toán lại có trạng thái lo lắng, thiếu tự tin vào bản thân mình. Nhưng thầy giáo dạy Toán ở lớp 11 đã không hiểu được tâm trạng đó của em và còn rất hay gọi em lên để kiểm tra bài cũ và sỉ mắng trước mặt bạn bè.

Tóm lại, để một tiết dạy thật sự thành công, đem lại hứng thú cho học sinh, trong một người thầy phải hội đủ cả 3 yếu tố: Nhà sư phạm, nhà khoa học và người nghệ sĩ. Sự hỗ trợ của công nghệ thông tin với những phần mềm và thiết bị nghe nhìn hiện đại là điều kiện vô cùng thuận lợi để các giáo viên có thể cải tiến lối dạy truyền thống, tạo nên những tiết dạy mới mẻ, sinh động, hạn chế tối đa tình trạng học sinh bỏ học chỉ vì chán học.

Uyên Phương


Page 6

Phương pháp dạy học Ngữ văn THPT

(Bentre.gov.vn)-Dân tộc Việt Nam từ xa xưa vốn có truyền thống rất hiếu học và "Tôn sư trọng đạo”, “Nhất tự vi sư, bán tự vi sư” (học một chữ cũng là thầy, học nửa chữ cũng là thầy). Gia đình có con học giỏi không chỉ vinh dự cho ông bà, cha mẹ,  mà còn cho cả dòng họ. Dù nhà nghèo khó đến đâu, cha mẹ cũng cố tìm mọi cách cho con cái được học hành “nửa bụng chữ bằng một hũ vàng”.

Bác Hồ của chúng ta, khi dạy học tại trường Dục Thanh - Phan Thiết, tuy thời gian dạy không dài, nhưng những ngày dạy học, Bác đã khêu gợi ở học sinh cách học, sự tìm tòi. Khi học khắc sâu vào tâm hồn non nớt của trẻ một lòng yêu nước. Bác là nhà sư phạm lớn, không những nêu ra những quan điểm mà còn chỉ ra nội dung cụ thể trong công việc “trồng người”.

Nhưng trong công việc này đòi hỏi sự chịu đựng gian khổ, tinh thần trách nhiệm, sự kiên trì, vừa khoa học, vừa tinh tế mà Bác gọi một cách hình ảnh nhưng rất gần gũi mà dễ hiểu là “sự nghiệp trồng người”.

Tư tưởng “trồng người” của Bác cho chúng ta thấy rõ vai trò của con người với sự hiểu biết, với năng lực đạo đức và phẩm chất chính trị trong sáng để phục vụ nhân dân.

Bác xác định rõ chức năng của người thầy giáo: “Nếu không có thầy giáo thì không có giáo dục”. Nhưng để thực hiện được vai trò vẻ vang của mình, trước hết: “Thầy giáo phải xứng đáng là thầy, thầy phải được lựa chọn cẩn thận vì không phải ai cũng làm được”.

Tư tưởng về công tác giáo dục mang tính nhân văn và triết lý sâu sắc, chính vì quan tâm đến công tác giáo dục, trong lúc Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước, Người đã viết bài in trên Tạp chí Cộng sản Pháp số 14 (năm 1921), Người đã căm phẫn lên án chính sách “làm cho dân ngu để dễ trị”, đầu độc dân bản xứ bằng rượu và thuốc phiện.

Người viết: “Người Đông Dương không được học, đúng thế, bằng sách vở và bằng diễn văn nhưng người Đông Dương nhận sự giáo dục bằng cách khác. Đau khổ, nghèo đói và sự đàn áp tàn bạo là người thầy duy nhất của họ. Sự tàn bạo của chủ nghĩa tư bản đã chuẩn bị đất rồi: Chủ nghĩa xã hội chỉ còn phải làm cái việc là gieo hạt giống của công cuộc giải phóng nữa thôi”.

Sau 30 năm bôn ba khắp năm châu bốn biển tìm đường cứu nước, ngày 28/01/1941, Bác Hồ trở về Tổ quốc Việt Nam trực tiếp lãnh đạo cách mạng. Trước hết, Người lo “diệt giặc đói khổ, diệt giặc dốt”. Ngày 01/02/1942, Người viết bài “Nên học sử ta”, in trên Báo Việt Nam độc lập:

“Dân ta phải biết sử ta

Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”

Người căn dặn: Dân ta phải biết sử ta. Sử ta dạy cho ta chuyện vẻ vang của tổ tiên ta. Dân tộc ta là con Rồng, cháu Tiên, có nhiều người tài giỏi đánh Bắc dẹp Nam, yên dân trị nước, tiếng để muôn đời.

Cách mạng Tháng Tám thành công, ngày 03/9/1945, Bác Hồ đã chủ trương “Mở một chiến dịch giáo dục”, đó là nhiệm vụ thứ hai trong những nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.

Tiếp theo, ngày 10/10/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh “Về việc thành lập Hội đồng cố vấn học chính”. Hội đồng gồm có Bộ trưởng Bộ Giáo dục và 30 hội viên chọn ở các ngành, các giới để nghiên cứu trình Chính phủ những chủ trương, chính sách về giáo dục.

Bác còn quan tâm đến việc tổ chức bồi dưỡng đội ngũ giáo viên – những chiến sĩ tiên phong chống nạn mù chữ. Bác viết thư gửi anh chị, em giáo viên bình dân học vụ – những nhà giáo làm việc mà không có lương bổng, thành công mà không có tiếng tăm. Lòng hăng hái và nỗ lực của anh chị, em đã mang lại kết quả là đồng bào ta nhiều người biết đọc, biết viết. Người khen ngợi: “Vinh dự đó thì tượng đồng bia đá nào cũng không bằng”.

Hay tại lớp học chính trị của các giáo viên cấp II, cấp III toàn miền Bắc vào ngày 13/9/1958, Bác nói lời tâm huyết: “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây; vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”.

Bác giao nhiệm vụ cho ngành giáo dục trực tiếp là các nhà giáo đào tạo ra những công dân tốt và cán bộ tốt cho Nhà nước. Người căn dặn các thầy giáo, cô giáo không ngừng tu dưỡng đạo đức, không ngừng học tập, nâng cao nghiệp vụ.

Tư tưởng “trồng người” của Bác là chỉ cho chúng ta mục tiêu mà nền giáo dục phải đạt tới, đó là phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, làm cho dân giàu, nước mạnh. Bác luôn coi con người là vốn quý nhất, là nhân tố đảm bảo cho sự thành công của cách mạng. Đó là con người phải được phát triển toàn diện về các mặt đức, trí, thể, mỹ.

Lúc sinh thời Bác đã khẳng định vai trò của người thầy là phải có tâm hồn, kiến thức và sau cùng là phương pháp sư phạm. Tâm hồn của người thầy được xây dựng trên lòng yêu thương vô hạn, lòng quý mến và sự tôn trọng con người. Chính lòng tôn trọng đó là cội nguồn của mọi tình cảm cao đẹp, là khởi thủy của đạo đức. Lòng yêu thương của người thầy phải được gắn liền với sự tôn trọng con người. Những hành vi, cử chỉ đi ngược lại sự tôn trọng là xúc phạm đến sự nghiệp cao cả, sự nghiệp “trồng người”.

Thấm nhuần tư tưởng và lời dạy của Bác, Đảng và Nhà nước ta hơn bao giờ hết luôn coi trọng sự nghiệp giáo dục. Năm 1982 đã lấy ngày 20/11 hàng năm làm "Ngày Nhà giáo Việt Nam"; quan tâm và tạo điều kiện cho đông đảo đội ngũ thầy giáo, cô giáo được đào tạo chính quy, để họ thực sự là những “kỹ sư tâm hồn”; đồng thời chăm lo cho cơ sở vật chất của ngành giáo dục như trường lớp, phương tiện, đồ dùng dạy học ngày một tiến bộ, văn minh và hoàn thiện; đồng lương của nhà giáo từng bước được cải thiện, ngoài lương cơ bản, thầy cô còn được hưởng phụ cấp đứng lớp.

Tuy nhiên, những tiêu cực trong ngành giáo dục trong thời gian qua và hiện nay làm mọi người lo ngại, như: bệnh thành tích, tiêu cực trong thi cử, nạn dạy thêm, học thêm tràn lan, chạy điểm, chạy trường..., điểm thi môn lịch sử trong các kỳ thi tốt nghiệp THPT và tuyển sinh cao đẳng, đại học rất thấp khiến ta phải suy nghĩ.

Vài năm gần đây, dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quan tâm của các cấp, ngành giáo dục đã có chuyển biến mạnh mẽ; mặt yếu kém được khắc phục, phong trào nhà trường thân thiện, học sinh tích cực, những tấm gương nhà giáo “vừa hồng vừa chuyên”, những học sinh – sinh viên chăm ngoan, vượt khó học giỏi, “học đi đôi với hành” ngày một nhiều hơn; nhiều học sinh đoạt giải cao trong các kỳ thi quốc gia và quốc tế.

Hy vọng ngành Giáo dục và Đào tạo sẽ sớm có biện pháp hữu hiệu khắc phục những yếu kém, bất cập hiện nay, xứng đáng với lời vinh danh của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng về giáo dục: "Nghề dạy học là nghề cao quý nhất trong các nghề cao quý, nghề sáng tạo nhất trong các nghề sáng tạo. Các thầy cô giáo không những dạy chữ mà còn dạy người, họ cứ như cây thông trên sườn núi, cây quế giữa rừng sâu thầm lặng toả hương dâng hiến trí tuệ, sức lực cho đời".

Đồng thời, bảo đảm thực hiện nghiêm túc tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục, để giáo dục thật sự là "quốc sách hàng đầu", phục vụ đắc lực công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa nước ta.

(Tư liệu Hồ Chí Minh toàn tập. NXB Sự thật)

Người viết: Hoàng Chương