Cách tăng khối lượng giá trị thặng dư

Tỷ suất và khối lượng giá trị thặng dư là 2 công thức tính toán để thấy được quy mô và trình bộ bóc lột của nhà tư bản đối vơi người lao động. Nhưng không chỉ đơn giản như vậy, để có thể hiểu được tỷ suất và khối lượng giá trị thặng dư là gì, công thức tính ra sao thì mọi người nên tìm hiểu những thông tin cung cấp dưới đây của phonghopamway.com.vn 


Tỷ suất giá trị thặng dư là gì

Giá trị thặng dư là gì

Giá trị thặng dư nhiều người không biết đây là gì, có nhiều người biết dùng nó nhưng cũng không biết nó là cái gì chỉ nghe người khác nói và dùng theo trong khi không hiểu. Vậy nên mọi người nên hiểu giá trị thặng dư trước khi tìm hiểu về tỷ suất giá trị thặng dư.

Bạn đang xem: Khối lượng giá trị thặng dư

Giá trị thặng dư chính là giá trị dôi ra hay có thể nói cụ thể hơn là số tiền dôi ra của hàng hóa mang lại khi lấy mức thu của một đầu vào nhân tố trừ đi phần giá cung của nó. Có rất rất nhiều học thuyết nói về giá trị thặng dư và mọi người hay các bạn sinh viên sẽ gặp nhiều trong quá trình học chủ nghĩa Mác Lenin. Các khái niệm đưa ra rất khó hiểu nên để hiểu về giá trị thặng dư là gì mọi người có thể xem ví dụ dưới đây.

Ví du: Ông A – chủ công ty thuê một cậu công nhân vào làm việc cho nhà máy với mức lương 50 nghìn/h và người công nhân này trong 1h đó làm ra 2 sản phẩm mỗi sản phẩm được bán ra có giá là 70 nghìn đồng. Vậy là trong 1h người công nhân đó tạo ra 140 nghìn đồng trong khi đó người chủ chỉ trả cho cậu 50 nghìn đồng/h. Số tiền chênh lệnh trong 1 giờ mà người chủ nhận được đó là 90 nghìn/ đồng. Như vậy 90 nghìn chênh lệch đó gọi là giá trị thặng dư.

Tham khảo thêm: giá trị thặng dư siêu ngạchlà gì

Tỷ suất giá trị thặng dư

Tỷ suất giá trị thặng dư là tỷ số tính theo phần trăm giữa giá trị thặng dư và tư bản khả biến tương ứng để sản xuất ra giá trị thặng dư đó.

Nói một cách dễ hiểu hơn là tỷ suất giá trị thặng dư chỉ ra tổng giá trị mới do lao động tạo ra

Công nhân nhận được bao nhiêuNhà tư bản ( chủ công ty/ doanh nghiệp/ người thuê) nhận được bao nhiêu

Tỷ suất giá trị thặng dư nói lên trình độ bóc lột của nhà tư bản đối với công nhân làm thuê, nó chưa nói rõ quy mô bóc lột. Áp dụng vào thời hiện đại ngày nay mọi người có thể dựa vào tỷ suất giá trị thặng dư để xem mình có bị bóc lột sức lao động hay không, mức lương nhận được có tương xứng với sức lao động bỏ ra hay không.

So sánh tỷ suất lợi nhuận và tỷ suất giá trị thặng dư

Tỷ suất lợi nhuận là tỷ lệ phần trăm giữa giá trị thặng dư và toàn bộ tư bản ứng trướcTỷ suất giá trị thặng dư là: tỷ lệ phần trăm giữa số lượng giá trị thặng dư với tư bản khả biến

Tỷ suất lợi nhuận luôn nhỏ hơn tỷ suất giá trị thặng dư bởi tỷ suất lợi nhuận là dựa trên tỷ suất giá trị thặng dư trừ đi các chi phí khác như máy móc, thiết bị, mặt bằng… Tỷ suất lợi nhuận chỉ phản ánh nguồn lợi đem lại sau cùng cho bên nhà đầu tư còn tỷ suất giá trị thặng dư là phản ánh trình độ bóc lột của nhà tư bản.

Xem thêm: Cách Hạn Chế Xuất Tin Sớm Tại Nhà Hiệu Quả, Không Cần, Điều Trị Cách Nào

Khối lượng giá trị thặng dư là gì


Cách tăng khối lượng giá trị thặng dư


Nếu như tỷ suất giá trị thặng dư nói lên trình độ bóc lột của nhà tư bản đối với người lao động thì khối lượng giá trị thặng dư nói lên quy mô bốc lột người lao động.

Khối lượng giá trị thặng dư là tích số giữa tỷ suất giả trị thặng dư và tổng tư bản khả biến đã được sử dụng. Mọi người có thể hiểu về cơ bản là như vậy nhưng nói chung quy là khái niệm này dùng để chỉ quy mô bóc lột sức lao động của các nhà tư bản đối với người lao động.

Cách tăng khối lượng giá trị thặng dư

Khái niệm giá trị thặng dư

Công thức tính tỷ suất giá trị thặng dư

Cách tăng khối lượng giá trị thặng dư

Trong đó:

m’ : Là tỷ suất giá trị thặng dưm: Giá trị thặng dưV: Tổng tư bản khả biến đại biểu cho giá trị của tổng số sức lao động

Bên cạnh đó mọi người còn có thêm một công thức tính tỷ suất giá trị thặng dư nữa đó là :

m’ = Thời gian lao động thặng dư/ Thời gian lao động tất yếu x 100%

Ví dụ về tỷ suất giá trị thặng dư:

Ví dụ 1 người lao động làm việc 1 ngày là 8h và 4h là thời gian lao động tất yếu thì

m’ = 4/4 x 100% = 100% => Tỷ suất thặng dư là 100%

Công thức tính khối lượng giá trị thặng dư

Công thức tính khối lượng giá trị thăng dư :

M = m x V

Trong đó:

M: Khối lượng giá trị thặng dưm: giá trị thặng dư V: Tư bản khả biến 

Ví dụ về khối lượng giá trị thặng dư:

Một doanh nghiệp thuê 100 công nhân lương là 200 đô/tháng, tỷ suất khối lượng thặng dư là 150%.

m’ = m/v x 100% = 150/100%/200 = 300$

=> Khối lượng giá trị thặng dư cả năm của doanh nghiệp đó là

M = m’ x V = 300 x 100 x 12 = 360.000$

Ý nghĩa thực tiễn tỷ suất và khối lượng giá trị thặng dư

Tỷ suất giá trị lao động thặng dư phản ánh gì ?

Chỉ rõ được trong tổng giá trị sức lao động tạo ra: Công nhân hưởng bao nhiêu và tư bản chiếm đoạt bao nhiêu => hay nói cách khác thì người lao động được hưởng bao nhiêu và công ty/ doanh nghiệp thuê được hưởng lời bao nhiêu.Chỉ ra trong một ngày lao động: thời gian lao động thặng dư mà người công nhân làm cho nhà tư bản chiếm bao nhiêu phần trăm so với thời gian lao động tất yếu làm cho mình

Tóm lại là tỷ suất giá trị thặng dư chỉ rõ trình độ bốc lột của các công ty/ doanh nghiệp hiện nay đối với người lao động.

Cách tăng khối lượng giá trị thặng dư

Ý nghĩa thực tiễn giá trị thặng dư

Khối lượng giá trị thăng dư phản ánh gì?

Khối lượng giá trị thặng dư phản ánh về quy mô bốc lột sức lao động của Nhà tư bảnQuy mô của chủ nghĩa tư bản tăng, CNTB ngày càng phát triển thì khối lượng giá trị thặng dư và khối lượng giá trị thặng dư tăng => Trình độ bốc lột sức lao động tăng.

Hy vọng qua những kiến thức trên đây về tỷ suất giá trị thặng dư là gì mọi người có thể hiểu hơn về 2 khái niệm nay. Với mỗi người lao động đây chính là quyền lợi và biết được bản thân có đang làm việc hiệu quả, khoa học hay không tránh bị bóc lột nhưng bản thân lại không thấy được điều đó.

-   Tỷ suất giá trị thặng dư

+ Khái niệm: Tỷ suất giá trị thặng dư là tỷ số tính theo phần trăm giữa giá trị thặng dư và tư bản khả biến cần thiết để sản xuất ra giá trị thặng dư đó.

+ Công thức: nếu ký hiệu m’ là tỷ suất giá trị thặng dư, m là giá trị thặng dư, v là tư bản khả biến, thì m’ được xác định bằng công thức:

Cách tăng khối lượng giá trị thặng dư

+ Ý nghĩa:

*    Tỷ suất giá trị thặng dư chỉ rõ trong tổng số giá trị nới do sức lao động tạo ra thì công nhân được hưởng bao nhiêu, nhà tư bản chiếm đoạt bao nhiêu.

*    Tỷ suất giá trị thặng dư còn chỉ rõ, trong một ngày lao động, phần thời gian lao động thặng dư mà người công nhân làm cho nhà tư bản chiếm bao nhiêu phần trăm so với thời gian lao động tất yếu làm cho mình.

Do đó, có thể biểu thị tỷ suất giá trị thặng dư theo một công thức khác:

Cách tăng khối lượng giá trị thặng dư

*     Tỷ suất giá trị thặng dư nói lên trình độ bóc lột của nhà tư bản đối với công nhân làm thuê, nó chưa nói rõ quy mô bóc lột. Để phản ánh quy mô bóc lột, C. Mác sử dụng phạm trù khối lượng giá trị thặng dư.

-     Khối lượng giá trị thặng dư

+ Khái niệm: Khối lượng giá trị thặng dư là tích số giữa tỷ suất giả trị thặng dư và tổng tư bản khả biến đã được sử dụng.

+ Công thức: nếu ký hiệu M là khối lượng giá trị thặng dư, V là tổng tư bản khả biến, thì M được xác định bằng công thức:

M = m’. V

+ Chủ nghĩa tư bản càng phát triển thì khối lượng giá trị thặng dư càng tăng, vì trình độ bóc lột sức lao động càng tăng. Khối lượng giá trị thặng dư phản ánh quy mô của sự bóc lột.

Loigiaihay.com

Mục đích của các nhà tư bản là sản xuất ra giá trị thặng dư tối đa. Vì vậy, các nhà tư bản dùng nhiều phương pháp để tăng tỷ suất và khối lượng giá trị thặng dư. Khái quát có hai phương pháp để đạt được mục đích đó là sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối và sản xuất giá trị thặng dư tương đối.

a) Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối

Trong giai đoạn phát triển đầu tiên của sản xuất tư bản chủ nghĩa, khi kỹ thuật còn thấp, tiến bộ chậm chạp thì phương pháp chủ yếu để tăng giá trị thặng dư là kéo dài ngày lao động của công nhân.

Sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối là phương pháp sản xuất ra giá trị thặng dư được thực hiện trên cơ sở kéo dài tuyệt đối ngày lao động của công nhân trong điều kiện thời gian lao động tất yếu không đổi và giá trị thặng dư được sản xuất ra bằng phương pháp này được gọi là giá trị thặng dư tuyệt đối.

Giả sử ngày lao động là 8 giờ, trong đó 4 giờ là thời gian lao động tất yếu và 4 giờ là thời gian lao động thặng dư. Điều đó có thể biểu diễn bằng sơ đồ sau đây:

Cách tăng khối lượng giá trị thặng dư

Do đó, tỷ suất giá trị thặng dư là:

Cách tăng khối lượng giá trị thặng dư

Giả sử nhà tư bản kéo dài ngày lao động thêm 2 giờ, trong khi thời gian tất yếu không thay đổi, vẫn là 4 gịờ. Khi đó ngày lao động được chia như sau:

Cách tăng khối lượng giá trị thặng dư

Do đó, tỷ suất giá trị thặng dư là:

Cách tăng khối lượng giá trị thặng dư

Như vậy, khi kéo dài tuyệt đối ngày lao động trong điều kiện thời gian lao động tất yếu không thay đổi, thì thời gian lao động thặng dư tăng lên, nên tỷ suất giá trị thặng dư tăng lên. Trước đây, tỷ suất giá trị thặng dư là 100% thì bây giờ là 150%.

Các nhà tư bản tìm mọi cách kéo dài ngày lao động, nhưng ngày lao động có những giới hạn nhất định. Giới hạn trên của ngày lao động do thể chất và tinh thần của người lao động quyết định. Vì công nhân phải có thời gian ăn, ngủ, nghỉ ngơi, giải trí để phục hồi sức khỏe. Việc kéo dài ngày lao động còn vấp phải sự phản kháng của giai cấp công nhân. Còn giới hạn dưới của ngày lao động không thể bằng thời gian lao động tất yếu, tức là thời gian lao động thặng dư bằng không. Như vậy, về mặt kinh tế, ngày lao động phải dài hơn thời gian lao động tất yếu, nhưng không thể vượt quá giới hạn về thể chất và tinh thần của người lao động.

Trong phạm vi giới hạn nói trên, độ dài của ngày lao động là một đại lượng không cố định và có nhiều mức khác nhau. Độ dài cụ thể của ngày lao động do cuộc đấu tranh giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản trên cơ sở tương quan lực lượng quyết định. Cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân đòi ngày lao động tiêu chuẩn, ngày làm 8 giờ đã kéo dài hàng thế kỷ.

b)  Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối

Việc kéo dài ngày lao động bị giới hạn về thể chất và tinh thần của nguời lao động và vấp phải cuộc đấu tranh ngày càng mạnh mẽ của giai cấp công nhân. Mặt khác, khi sản xuất tư bản chủ nghĩa phát triển đến giai đoạn đại công nghiệp cơ khí, kỹ thuật đã tiến bộ làm cho năng suất lao động tăng lên nhanh chóng, thì các nhà tư bản chuyển sang phương thức bóc lột dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động xã hội, tức là bóc lột giá trị thặng dư tương đối.

Sản xuất giá trị thặng dư tương đối là phương pháp sản xuất ra giá trị thặng dư được thực hiện bằng cách rút ngắn thời gian lao động tất yếu lại để kéo dài một cách tương ứng thời gian lao động thặng dư trên cơ sở tăng năng suất lao động xã hội trong điều kiện độ dài ngày lao động không đổi. Giá trị thặng dư được sản xuất ra bằng phương pháp này được gọi là giá trị thặng dư tương đối.

Giả sử ngày lao động là 8 giờ và nó được chia thành 4 giờ là thời gian lao động tất yếu và 4 giờ là thời gian lao động thặng dư. Điều đó có thể biểu diễn như sau:

Cách tăng khối lượng giá trị thặng dư

Do đó, tý suất giá trị thặng dư là:

Cách tăng khối lượng giá trị thặng dư

Giả định rằng ngày lao động không thay đổi, nhưng bây giờ công nhân chỉ cần 3 giờ lao động đã tạo ra được một lựơng giá trị mới bằng với giá trị sức lao động của mình. Do đó, tỷ lệ phân chia ngày lao động sẽ thay đổi: 3 giờ là thời gian lao động tất yếu và 5 giờ là thời gian lao động thặng dư. Điều đó được biểu diễn như sau:

Cách tăng khối lượng giá trị thặng dư

Do đó, bây giờ tỷ suất giá trị thặng dư sẽ là:

Cách tăng khối lượng giá trị thặng dư

Như vậy, tỷ suất giá trị thặng dư đã tăng từ 100% lên 166%.

Làm thế nào để có thể rút ngắn được thời gian lao động tất yếu? Thời gian lao động tất yếu có quan hệ với giá trị sức lao động. Muốn rút ngắn thời gian lao động tất yếu phải giảm giá trị sức lao động. Muốn hạ thấp giá trị sức lao động phải giảm giá trị những tư liệu sinh hoạt thuộc phạm vi tiêu dùng của công nhân. Điều đó chỉ có thể thực hiện được bằng cách tăng năng suất lao động trong các ngành sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt thuộc phạm vi tiêu dùng của công nhân và tăng năng suất lao động trong các ngành sản xuất ra tư liệu sản xuất để sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt đó, tức là tăng năng suất lao động xã hội.

Nếu trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư bản, sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối là phương pháp chủ yếu, thì đến giai đoạn tiếp sau, khi kỹ thuật phát triển, sản xuất giá trị thặng dư tương đối là phương pháp chủ yếu. Lịch sử phát triển của lực lượng sản xuất và của năng suất lao động xã hội dưới chủ nghĩa tư bản đã trải qua ba giai đoạn: hợp tác giản đơn, công trường thủ công và đại công nghiệp cơ khí, đó cũng là quá trình nâng cao trình độ bóc lột giá trị thặng dư tương đối.

Hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư nói trên được các nhà tư bản sử dụng kết hợp với nhau để nâng cao trình độ bóc lột công nhân làm thuê trong quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản. Dưới chủ nghĩa tư bản, việc áp dụng máy móc không phải là để giảm nhẹ cường độ lao động của công nhân, mà trái lại tạo điều kiện để tăng cường độ lao động. Ngày nay, việc tự động hóa sản xuất làm cho cường độ lao động tăng lên, nhưng dưới hình thức mới, sự căng thẳng của thần kinh thay thế cho cường độ lao động cơ bắp.

• Giá trị thặng dư siêu ngạch

Cạnh tranh giữa các nhà tư bản buộc họ phải áp dụng phương pháp sản xuất tốt nhất để tăng năng suất lao động trong xí nghiệp của mình nhằm giám giá trị cá biệt của hàng hóa thấp hơn giá trị xã hội của háng hóa, nhờ đó thu được giá trị thặng dư siêu ngạch.

Giá trị thặng dư siêu ngạch là phần giá trị thặng dư thu được do tăng năng suất lao động cá biệt, làm cho giá trị củ biệt của hàng hóa thấp hơn giá trị thị trường của nó.

Xét từng trường hợp thì giá trị thặng dư siêu ngạch là hiện tượng tạm thời, nhanh chóng xuất hiện rồi cũng lại nhanh chóng mất đi. Nhưng xét toàn bộ xã hội tư bản thì giá trị thặng dư siêu ngạch là hiện tượng tồn tại thường xuyên. Theo đuổi giá trị thặng dư siêu ngạch là khát vọng của nhà tư bản và là động lực mạnh nhất thúc đẩy các nhà tư bản cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất, tăng năng suất lao động, làm cho năng suất lao động xã hội tăng lên nhanh chóng. Mác gọi giá trị thặng dư siêu ngạch là hình thức biến tứơng của giá trị thặng dư tương đối, vì giá trị thặng dư siêu ngạch và giá trị thặng dư tương đối dều dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động (mặc dù một bên là dựa vào tăng năng suất lao động cá biệt, còn một bên dựa vào tăng năng suất lao dộng xã hội).

Sự khác nhau giữa giá trị thặng dư siêu ngạch và giá trị thặng dư tương đối còn thể hiện ở chỗ giá trị thặng dư tương đối do toàn bộ giai cấp các nhà tư bản thu được. Xét về mặt đó, nó thể hiện quan hệ bóc lột của toàn bộ giai cấp các nhà tư bản đối với toàn bộ giai cấp công nhân làm thuê. Giá trị thặng dư siêu ngạch chỉ do một số nhà tư bản có kỹ thuật tiên tiến thu được. Xét về mặt đó, nó không chỉ biểu hiện mối quan hệ giữa tư bản và lao động làm thuê, mà còn trực tiếp biểu hiện mối quan hệ cạnh tranh giữa các nhà tư bản.

Từ đó, ta thấy rằng giá trị thặng dư siêu ngạch là động lực trực tiếp, mạnh nhất thúc đẩy các nhà tư bản cải tiến kỹ thuật, áp dụng công nghệ mới vào sản xuất, hoàn thiện tổ chức lao động và tổ chức sản xuất để tăng năng suất lao động, giảm giá trị của hàng hóa.

Loigiaihay.com