Đền thờ kinh dương vương ở đâu

Nằm bên triền sông uốn lượn mang tên Thiên Đức thuở xưa (sông Đuống ngày nay), khu di tích lịch sử thờ vị Thủy tổ của nước ta đang lưu giữ những giá trị văn hóa và lịch sử quý báu. Nhưng vẫn chưa nhiều người biết rằng, đây là một trong những di tích vô cùng giá trị, mang dấu ấn vị vua đầu tiên của nước Việt và kinh thành cổ Luy Lâu.

Dấu tích xưa bên sông Thiên Đức

Đứng trên đê thôn Á Lữ, xã Đại Đồng Thành, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh nhìn về phía con sông Đuống sẽ thấy một vùng cây cối tốt tươi. Những cây xà cừ cổ thụ cành lá xum xuê, cây hoàng lan xòa bóng xuống khu lăng mộ của vua Kinh Dương Vương, vị Thủy tổ mở ra các thời đại vua Hùng. Nhiều năm qua, người dân thôn Á Lữ đã trông nom, gìn giữ khu di tích này.

Theo Ban quản lý di tích lăng và đền thờ Kinh Dương Vương, thần phả, sắc phong và sử sách còn lưu lại cho thấy, Thần Nông lấy Nữ Long sinh ra Viêm Đế, Viêm Đế sinh ra Đế Minh. Đế Minh đi tuần phương Nam sinh ra Lộc Tục. Lộc Tục là bậc thánh trí, có tư chất thông minh, sức khỏe phi thường, tài đức hơn người. Đế Minh phong cho Lộc Tục làm vua cai quản phương Nam, xưng là Kinh Dương Vương. Kinh Dương Vương lập nên nhà nước sơ khai đầu tiên vào năm Nhâm Tuất (2879 trước Công nguyên), đặt tên nước là Xích Quỷ (tên một vì sao sáng đỏ rực bầu trời phương Nam trong dải Ngân Hà).

Kinh Dương Vương đóng lỵ sở ở Luy Lâu, Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh ngày nay rồi dời đô về Việt Trì, Phú Thọ và xây dựng kinh thành. Kinh Dương Vương lấy Thần Long, sinh ra Sùng Lãm (nối vua cha xưng là Lạc Long Quân). Lạc Long Quân lấy Âu Cơ sinh ra Hùng Vương. Kinh Dương Vương tạ thế vào ngày 18 tháng Giêng tại Khúc Khang, bộ Vũ Ninh (thuộc Bắc Ninh ngày nay). Nhân dân địa phương đã lấy ngày giỗ Vua Thủy tổ để tổ chức lễ hội.

Lăng và đền thờ Kinh Dương Vương được các vương triều xưa trùng tu, tôn tạo nhiều lần, kiến trúc nghệ thuật độc đáo. Năm vua Minh Mạng thứ 21 (1840) lăng được trùng tu. Đây là nơi lưu lại những dấu tích xưa với bia, mộ và hoành phi, câu đối: “Nam Bang Thủy Tổ” (Thủy tổ nước Nam), “Nam tổ miếu” (miếu thờ ông Tổ nước Nam), “Bách Việt Tổ” (Vua tổ nước Nam)…

Đền còn  thờ Lạc Long Quân – Âu Cơ. Lăng và đền được xếp vào loại miếu thờ Đế vương các triều đại. Năm 1949, đền và lăng bị thực dân Pháp tàn phá. Nhân dân địa phương đã đấu tranh bảo vệ phần lăng của tổ tiên cùng các sắc phong, đồ thờ. Năm 1993, Bộ Văn hóa ra quyết định công nhận di tích lịch sử văn hóa quốc gia. Từ đó đến nay, khu di tích này được nhân dân thôn Á Lữ và tỉnh Bắc Ninh gìn giữ.

Đền thờ kinh dương vương ở đâu

Đền thờ Kinh Dương Vương.

Cần lưu truyền lịch sử và văn hóa cho thế hệ sau

Những ngày đầu xuân Nhâm Thìn, dòng khách thập phương đổ về di tích thờ Kinh Dương Vương đã đông hơn hẳn trước đây. Ông Nguyễn Bá Thi, Hội người cao tuổi thôn Á Lữ cho biết, năm nay lượng du khách trẩy hội về đông gấp nhiều lần năm trước. Lễ hội diễn ra trong 3 ngày 17, 18 và 19 tháng Giêng.

Ngày 17 tháng Giêng, cả sườn đê sông Đuống nơi có lăng Kinh Dương Vương kín người xem quan họ. Những ngày sau, lễ rước kiệu từ lăng về đền, rước nước từ lăng ra sông… đã thu hút được đông đảo nhân dân. Lễ hội truyền thống được tổ chức nhằm lưu truyền cho thế hệ sau giá trị lịch sử và tinh thần quý báu, tưởng nhớ đến tổ tiên.

Sáng 8/2 (ngày 17 tháng Giêng âm lịch), Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Doan đã dự lễ khai hội, dâng hương tưởng niệm tại đền thờ Kinh Dương Vương - Thuận Thành - Bắc Ninh và cắt băng khánh thành đôi rồng đá tại lăng Kinh Dương Vương. Đôi rồng đá đặt dọc theo những bậc thềm đi từ lăng xuống sát bờ sông Đuống.

Khách đến tham quan đền, lăng Kinh Dương Vương, đứng dưới tán lá cổ thụ hướng ra con sông hiền hòa uốn lượn phía trước sẽ thấy lòng mình thanh thản. Nằm giữa vùng đất Kinh Bắc lưu giữ những giá trị vô giá về lịch sử và văn hóa, quần thể di tích này góp phần truyền lại cho thế hệ sau những giá trị tinh thần đó. Sau ngày lễ hội, khách thập phương vẫn tìm đến đây làm lễ, tham quan khu di tích khá đông. “Đây là tín hiệu đáng mừng chứng tỏ nhân dân đã biết về vua Kinh Dương Vương, hiểu hơn về lịch sử và cội nguồn của dân tộc” – ông Nguyễn Bá Thi cho biết.

Tại đây tôi cũng chứng kiến những du khách say sưa đọc lời giới thiệu về Kinh Dương Vương, về lăng và đền thờ vị Thủy tổ. Anh Nguyễn Văn Tuấn, du khách ở quận Hoàn Kiếm, Hà Nội cũng bày tỏ: “Tôi đọc về lịch sử, biết về Kinh Dương Vương nhưng hôm nay mới đến đây và biết thêm về cội nguồn của đất nước. Tôi mong những tài liệu lịch sử về vị vua đầu tiên của đất nước và di tích lịch sử nơi đây sẽ được giáo dục kỹ hơn cho học sinh nhà trường”. Đó cũng là mong muốn của người dân xứ Kinh Bắc nơi gìn giữ, bảo tồn văn hóa, lịch sử truyền thống của dân tộc Việt Nam

Việt Hà

Skip to content

Có một khu di tích lịch sử cổ gồm đền thờ, Lăng Kinh Dương Vương, người được tôn là bậc thủy tổ nước Nam, mở ra thời buổi các vua Hùng, làm rạng rỡ non sông đất Việt, tọa lạc tại ấp Phúc Thần, làng Thần Thủy, nước Xích Quỷ (nay là thôn Á Lữ, xã Đại Đồng Thành, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh) vẫn còn được ít người nghe biết. 

Ngôi đền thờ và lăng mộ Thủy Tổ bình dị, khiêm nhường tọa lạc trên một khu đất bãi ven bờ ở ngoài đê, phương thức dòng Đuống ngày nay khoảng 500m. Lăng xưa, rợp bóng đại thụ, tạo cảnh quan tĩnh mịch, uy nghiêm. Thời thuộc Pháp khu lăng bị tiêu diệt trơ trụi, mãi tới năm 1971, nhân dân thôn Á Lữ mới có tình huống đầu tư và quy hoạch và tôn tạo khang trang, thoáng rộng mà vẫn đậm đặc dấu ấn của phong cách thiết kế cổ.

Vị trí: Á Lũ, Thuận Thành, Bắc Ninh

Đền thờ kinh dương vương ở đâu

Lăng Kinh Dương Vương được ghép hàng loạt bằng đá xanh, phong cách thiết kế dễ dàng theo kiểu chồng diêm tám mái, tám đao dốc, nền lăng được tôn cao, bao quanh có tường rào bảo đảm. Mặt trước Lăng nhìn ra sông Đuống, có bậc đá lên xuống sát mép nước, tiếp đây là 4 trụ cổng tam môn bằng đá xanh cao nhòng với đôi rồng đá uốn mình, đầu ngẩng cao chầu vào và các trụ đèn lồng hai bên cánh phong đắp nổi hình các dân cư Việt cổ săn bắn, hái lượm như ta thường cảm nhận thấy phía trên mặt trống đồng.

Việc thờ cúng Kinh Dương Vương ở Việt Nam không thịnh hành bằng tín ngưỡng thờ cúng Thần Nông, vị thần là cụ thủy tổ của Hùng Vương cùng theo đó là vị thần cũng được sùng bái trong tín ngưỡng nông nghiệp ở Việt Nam; được các triều đại phong kiến lập Đàn Xã Tắc để tế lễ hàng năm

Đền thờ Kinh Dương Vương tọa lạc nằm trong đê. Tại gian tiền tế có hai bức đại tự: “Nam bang Thủy Tổ” (Ông Tổ nước Nam) và “Thần Tiên Thiên tử” (con của Thần, Tiên và Trời). Gian hậu cung có 3 ngai thờ. Ngai giữa thờ Kinh Dương Vương với bức đại tự: “Nam bang Thủy Tổ” (Ông Tổ nước Nam; Phía phía bên phải thờ Lạc Long Quân với bức đại tự: “Hải khoát sơn tràng” (Sông rộng, núi dài); Bên trái thờ Âu Cơ với bức đại tự: “Bách Việt Tổ” (Tổ Bách Việt) và một số trong những hoành phi, câu đối chữ Hán.

Sách Đại Nam nhất thống chí chép rằng, vào thời điểm năm 1840 thời vua Minh Mệnh, lăng được trùng tu Kinh Dương Vương có nguồn gốc xuất xứ từ phương Bắc. Nguyên Đế Minh là cháu bốn đời vua Thần Nông, đi tuần thú phương Nam, cưới Vụ Tiên nữ, sinh ra người thiếu niên tư chất mưu trí, sức khỏe hơn người, đặt tên là Lộc Tục và phong Lộc Tục làm vua phương Nam, quản lý đất nước khoảng từ thời điểm năm 2879 TCN …

Những cụ cao niên làng Á Lữ, địa điểm nghìn đời nối nhau giữ gìn, hương khói lăng mộ và đền thờ Thủy Tổ Kinh Dương Vương cho thấy thêm, nhân dân bản địa còn giữ được hàng trăm sắc phong của không ít vương triều phong kiến, qua đó cam đoan địa điểm chính là lăng tẩm bậc đế vương, hàng năm thờ phụng theo nghi lễ quốc khánh, có quan triều đình về làm chủ lễ.Thần phả làng Á Lữ cũng ghi, Lộc Tục là một trang nam nhi có tư chất mưu trí, tài đức hơn người.

Sau khi được vua cha phong làm vua phương Nam, Lộc Tục thành  lập bộ tộc Dâu, đóng lỵ sở tại Liên Lâu (Luy Lâu, nay thuộc huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh), đặt Quốc hiệu là Việt Thường, xưng là Kinh Dương Vương, lấy Long Nữ là con gái Động Đình Quân, đẻ ra Sùng Lãm.Năm 2789 (TCN) đổi Quốc hiệu là Xích Quỷ (tên một ngôi sao có màu đỏ, chiếu sáng nhất trong 28 ngôi sao trong Nhị thập Bát Tú), rồi mất.

Đền thờ kinh dương vương ở đâu

Sùng Lãm nối ngôi vua cha, xưng là Lạc Long Quân. Lạc Long Quân kết quyên cùng Âu Cơ, sinh ra một trăm người thiếu niên, trong số đó đứa con cả liên tục được truyền ngôi, lấy hiệu là Hùng Vương (vua mạnh).To lên, Hùng Vương cảm nhận thấy đất Luy Lâu trống trải, thắng thì có chỗ xông lên, nhưng thua thì không còn đất lùi, mới dời lên Nghĩa Lĩnh (Phong Châu, Phú Thọ), có thế ỷ dốc, dựng đô, đổi Quốc hiệu là Văn Lang, chia nước làm 15 bộ. Bộ quê hương gọi là bộ Vũ Ninh và truyền được 18 đời…

Kinh Dương Vương mất ngày 18 tháng Giêng (không rõ năm) tại trang Phúc Khang, bộ Vũ Ninh (nay là thôn Á Lữ, xã Đại Đồng Thành, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh).Để tưởng niệm Tổ tiên, hàng trăm ngàn đời nay, vào trong ngày giỗ Kinh Dương Vương (18/1 âm lịch hàng năm), dân làng Á Lữ lại mở hội để tưởng niệm tới người đã khai sinh đất Việt, cũng là sự việc biết ơn và tri ân các bậc Vương Tổ đã sinh ra vua Hùng, bộc lộ đạo lý uống nước nhớ nguồn.

Năm 2013, tỉnh Bắc Ninh đầu tư và quy hoạch bảo tồn, tôn tạo và phát huy trị giá quần thể di tích lịch sử lịch sử văn hoá đất nước Lăng và Đền thờ Kinh Dương Vương đi kèm theo các dịch vụ phụ trợ để nâng tầm phát triển du lịch văn hoá tâm linh, đột phá lễ hội, xứng với vai trò, vị trí lịch sử của không ít người được phụng thờ tại chỗ này: Đức Kinh Dương Vương – người khai thiên lập quốc, vị Thủy Tổ của toàn dân tộc Việt.

Đền thờ kinh dương vương ở đâu

Khu lăng Kinh Dương Vương tọa lạc ở ngoài đê, phương thức dòng Đuống ngày nay khoảng 500m. Lăng xưa, rợp bóng đại thụ, tạo cảnh quan tĩnh mịch, uy nghiêm. Thời thuộc Pháp khu lăng bị tiêu diệt trơ trụi, mãi tới năm 1971, nhân dân thôn Á Lữ mới có tình huống đầu tư và quy hoạch và tôn tạo khang trang, thoáng rộng mà vẫn đậm đặc dấu ấn của phong cách thiết kế cổ. 

Lăng kinh dương vương có 8 mái “hai tầng mái”, trước cửa lăng mộ có 3 bệ thờ, trên đường vào về hướng tay phải khu lăng mộ có khu nhà ở để du khách sắp lễ…

Toàn bộ diện tích khu Lăng kinh dương vương khoảng 4200 m2. Nghi trượng khu lăng mộ gồm: Tấm bia đá xanh cao 1,05m, rộng 0,45m, mang dòng chữ “Kinh Dương Vương lăng” bia khắc năm Minh Mệnh thứ 21 (1840) tháng 11, ngày 16 dựng xong lăng; trước lăng có đại tự “Nam bang thủy tổ” và câu đối “Việt nam sơ đầu xuất – Hồng bàng vạn đại xương” và “Lập thạnh kỷ công nam thánh tổ, Phong thần tổ tích bắc thần tôn”, cùng một số trong những bát hương sành, sứ cỡ lớn hoa văn cổ kính… 

Kinh Dương Vương được nhân dân Á Lữ tôn thờ ở đình làng (đình bị Pháp phá năm 1949), đền trong thờ Lạc Long Quân, đền ngoài thờ Âu Cơ (hai đền đều bị Pháp phá năm 1949). Năm 1959 nhân dân Á Lữ rước ba vị về thờ ở khu văn chỉ (địa điểm thờ lúc này). Đền lúc này gồm ba gian xây cất kiểu chữ công, nhà ngoài (tiền tế) gồm 5 gian, đủ để lập các ban thờ và đảm nhận du khách thăm viếng, có tường gạch bao quanh để bảo đảm, diện tích khu đền khoảng 2347 m2.

Ba gian trong – gian giữa có long ngai sơn son thếp vàng đặt trên bệ thờ Kinh Dương Vương, gian bên trái có ngai đặt trên bệ thờ Âu Cơ, gian phía phía bên phải có ngai đặt bệ thờ Lạc Long Quân, cùng với hệ thống nghi trượng bằng đồng, gỗ, sứ khá đa dạng chủng loại như: mâm đồng, đỉnh, lư hương, ống hoa, thau rước nước, chiêng…

Những bức đại tự đặt ở vị trí long trọng: “Nam tổ miếu”, “Nam bang thủy tổ” và câu đối “Việt Nam hoàng đồ vạn lý giang sơn đề tạo thủy – Hồng Bàng đế trụ thiên thu hà lạc tú linh thanh”, “Phụ đạo thiên niên quốc – Âu Cơ bách noãn bào”… cùng 15 đạo sắc của không ít vua triều Nguyễn ban cấp hiện còn lưu giữ, đạo sắc có niên hiệu gần nhất: “… Gia Long cửu niên (1810) tháng tám ngày 11 Sắc chỉ.

Siêu Loại huyện, Á Lữ xã, viên sắc xã trưởng toàn xã đẳng hệ luôn xã tòng tiền phụng sự Kinh Dương Vương nhất vị hữu linh triều gia tôn mỹ tự chuẩn hứa y cựu phụng sự chỉ thần kính ý cố sắc”… Đạo sắc có niên hiệu muộn nhất… Khải Định cửu niên (1924) tháng bảy ngày 25 sắc chỉ, Bắc Ninh tỉnh, Thuận An phủ, Siêu loại huyện, Á Lữ xã, toàn tiền phụng sự Kinh Dương Vương hộ quốc tý dân hiển hữu công đức tiết mông ban cấp, sắc chỉ chuẩn hứa phụng sự tứ kinh chính trực…

 Ngoài Lăng kinh dương vương , đình, đền và các sưu tập hiện vật được bảo trọng tại Á Lữ Đại Đồng Thành, Thuận Thành, nói đến thủy tổ người Việt, rành rành sử sách còn ghi:“… Vua Kinh Dương Vương tự là Lộc Tục, thú Động Đình quân nữ, sinh ra Lạc Long Quân – tự là Sùng Lãm, ngài thú đức Âu Cơ sinh trăm thiếu niên, sau 50 người theo mẹ lên núi, 50 người theo cha xuống vùng biển khai thác, gìn giữ mở mang bờ cõi, ngài truyền cho con cả nối ngôi – vua Hùng Vương đầu tiên …” 

“Kể từ khi Kinh Dương Vương, họ Hồng Bàng nối dòng dõi Thần Nông, lấy con gái vua Động Đình, sáng rõ đạo bà xã chồng, theo đúng nguồn phong hóa, vua thì lấy đức mà cảm hóa dân, rũ áo khoanh tay, dân thì cày ruộng, đào giếng, ra ngoài thì làm lụng, trở lại thì nghỉ dưỡng, chẳng cần là phong tục thái cổ của Viêm đế ư ?

Lạc Long Quân nối đời Hồng Bàng lấy con gái họ Âu Lạc mà có điềm tốt sinh trăm thiếu niên, tổ của không ít người Bách Việt thực bắt đầu từ đấy, hưởng nước trải lâu năm, cực kỳ lâu bền hơn, đã giàu thọ lại nhiều thiếu niên từ xưa tới thời điểm này trước đó chưa từng có, Hùng Vương nối nghiệp Lạc Long, chăm ban tước huệ để vỗ yên dân…”

Đền thờ kinh dương vương ở đâu

“Kỷ Hồng Bàng thị – Kinh Dương Vương tên húy là Lộc Tục, con cái họ thần Nông…”
Phù hợp với các chứng tích tại các di tích lịch sử Khảo cổ học, vị trí lăng mộ và đình miếu chứng nhận về Lộc Tục, tức Kinh Dương Vương tại thôn Á Lữ, xã Đại Đồng Thành, huyện Thuận Thành đã đặt niên mốc 2873 TCN vào trang đầu lịch sử dựng nước. Tiếp đây là sự có mặt của Lạc Long Quân thiếu niên và người kết tục công danh và sự nghiệp Kinh Dương Vương trên vùng đất này…

 Tôn trọng thực sự lịch sử, ngày 2/2/1993. Bộ Văn hóa cổ truyền – Thông tin ra ra quyết định số 74/VH-QĐ công nhận “Di tích lịch sử lăng và đền thờ Kinh Dương Vương, xã Đại Đồng Thành, huyện Thuận Thành”.

 Dù cho cuộc chiến tranh tiêu diệt, bão lũ tàn phá, nhân dân Á Lữ luôn bảo trọng, tôn tạo khu di tích lịch sử lịch sử lăng và đền thờ Kinh Dương Vương để nhân dân trong làng và du khách thập phương quanh năm hương khói và tụ hội ( từ 15 tới 18 tháng giêng âm lịch hàng năm) thắp hương bái lạy tiên tổ biểu hiện cổ truyền “Uống nước nhớ nguồn”.

Đền thờ kinh dương vương ở đâu


 Di tích lịch sử lăng và đền Lăng kinh dương vương cam đoan Bắc Ninh là vùng đất người Việt cổ sớm tụ cư – cái nôi chốn tổ của đất Việt. Và làm đa dạng chủng loại thêm kho báu lịch sử xứ Bắc cổ kính và văn hiến; sáng rõ thêm cội nguồn dân tộc Việt Nam.

Mặt trước khu di tích lịch sử lăng Kinh Dương Vương hướng ra phía dòng sông Đuống quanh năm mang phù sa đầy màu mỡ tươi rất tốt về cho vùng quê Kinh Bắc.Tới thời điểm này, phong cách thiết kế khu lăng mộ Kinh Dương Vương gồm: Cổng Lăng kinh dương vương , qua cổng lăng đi thẳng vào là phần mộ vua Kinh Dương Vương, hai bên tả hữu là bốn nhà Văn chỉ, Võ chỉ và nhà khách. Xung quanh bốn bề cây cối xanh mát.

Đã hàng nghìn năm nay, cứ tới ngày 18.1 (âm lịch) là dân cư làng Á Lữ cùng với nhân dân bao quanh lại tổ chức lễ hội Kinh Dương Vương nhằm mục tiêu tưởng niệm tới vị vua đầu tiên của nước Việt, Đại đế Lạc Long Quân và Hoàng hậu Âu Cơ.Năm nay, do liên quan của dịch COVID – 19, các lễ hội, các nghi lễ tôn giáo, thờ tự trên địa phận tỉnh Bắc Ninh đã phải tạm ngưng từ thời điểm ngày 29.1, theo ra quyết định của UBND tỉnh để phòng chống dịch COVID-19. Quyết định này còn có giá trị thực thi cho tới khi có chỉ huy, chỉ dẫn mới.

Đền thờ kinh dương vương ở đâu

Những ngày thời điểm cuối năm âm lịch, theo đại diện thay mặt Ban chủ tịch di tích lịch sử, năm nay do liên quan bởi dịch COVID – 19 nên lượng khách về tham quan, điều tra về di tích lịch sử không nhiều, chủ đạo là dân cư bản địa.Nhóm bạn trẻ quê tại huyện Thuận Thành (Bắc Ninh) tới thắp hương và tham quan tại di tích lịch sử đền lăng Kinh Dương Vương. Hương (26 tuổi), một thành viên trong Group cho thấy thêm, tới khu di tích lịch sử, không chỉ vấn đề được điều tra về văn hóa cổ truyền – lịch sử của dân tộc còn được hòa tâm hồn vào khoảng trống khoáng đãng cứu cho chính bản thân mình tĩnh tâm các ngày thời điểm cuối năm.

Chuyên Mục: Review Bắc Ninh

Nguồn Blog Review Du Lịch: https://bietthungoctrai.vn/ Lăng Kinh Dương Vương đền thờ vị vua đầu tiên nước Việt –