Ví dụ về khách thể của vi phạm hành chính

Đối với dân luật chắc chắn cần phải hiểu khách thể là gì? Bởi đó là một trong những khái niệm hay gặp nhất. Trong mỗi môn luật khác nhau, bài học đầu tiên luôn luôn nhắc đến khách thể đặc trưng của từng ngành luật. Bài viết dưới đây sẽ làm rõ khái niệm này.

1. Khách thể là gì?

Cho đến bây, không có bất cứ một văn bản vi phạm pháp luật nào định nghĩa rõ về khách thể là gì, nhưng qua một số đặc điểm, các trường hợp cụ thể có hiểu: Khách thể là một lợi ích về vật chất hoặc về tinh thần hoặc lợi ích cả về mặt tinh thần lẫn vật chất. Mà khi tham gia vào một quan hệ pháp luật nào đó, các chủ thể đều mong muốn đạt được.

Lợi ích về vật chất là một loại khách thể

Mặt khác, trong mỗi quy phạm pháp luật đa số đều được cấu thành từ 4 thành phần: chủ thể, khách thể, mặt chủ quan, mặt khách quan. Chình vì vậy mà khách thể cũng có rất nhiều loại.

Ví dụ về một trường hợp khách thể trong quan hệ dân sự: A tự sáng tác ra một tác phẩm nghệ thuật và đem đi đăng ký bản quyền thì khách thể ở đây chính là quyền bản quyền đối với tác phẩm nghệ thuật đó. Một ví dụ khác, A trộm cắp 1 chiếc xe máy của B, trong tình huống này khách thể chính là quyền sở hữu tài sản là chiếc xe máy của B bị A xâm phạm. Lưu ý, chiếc xe máy trong trường hợp này chính là đối tượng tác động chứ không phải là khách thể, rất nhiều bạn bị nhầm lẫn ở điểm này.

2. Khách thể nghiên cứu là gì?

Như ở trên bạn đã có thể hiểu được khách thể là gì, vậy khái niệm khách thể nghiên cứu là gì? Tại sao lại có khái niệm này? 

Khái niệm khách thể nghiên cứu là gì?

Khách thể nghiên cứu là hệ thống sự vật tồn tại khách quan trong các mối liên hệ mà người nghiên cứu cần khám phá, là vật mang đối tượng được nghiên cứu. Có thể nói khách thể nghiên cứu là nơi chứa đựng các câu hỏi mà người nghiên cứu cần trả lời.

Ví dụ: Khi nghiên cứu về động lực thúc đẩy quá trình đổi mới công nghệ sản xuất thì khách thể nghiên cứu ở đây chính là các công ty, xí nghiệp áp dụng đổi mới công nghệ sản xuất.

3. Khách thể của tội phạm là gì?

Khách thể của tội phạm có thể hiểu là quan hệ xã hội bị tội phạm xâm phạm và được pháp luật hình sự bảo vệ. Trong mỗi trường hợp khách thể của tội phạm sẽ khác nhau và thường rất khó để xác định đúng và đủ. Người nghiên cứu cần phải có cái nhìn sâu sắc mới có thể nắm được khách thể chính xác.

Khách thể của tội phạm là gì?

Việc phân tích khách thể tội phạm là rất có ý nghĩa trong luật hình sự. Chỉ khi xác định đúng được khách thể, ta mới có thể xác định được tội danh của tội phạm. Trong nhiều trường hợp, với cùng một loại hành vi, cùng một loại chủ thể nhưng chỉ cần khác khách thể cũng sẽ cấu thành các tội danh khác nhau. Người áp dụng luật cần phân biệt được và sử dụng đúng.

Khách thể của tội phạm chia làm ba loại:

  • Khách thể chung của tội phạm là hệ thống các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và bị tội phạm xâm phạm.

Ví dụ: Độc lập chủ quyền biển đảo bị xâm phạm 

  • Khách thể loại tội phạm là nhóm quan hệ xã hội có cùng tính chất được nhóm các quy phạm pháp luật hình sự bảo vệ và bị nhóm tội phạm xâm hại.

Ví dụ: Bất cứ tội phạm nào cũng đều xâm phạm đến khách thể loại tội phạm như tội phạm ma tuý, tội phạm xâm phạm chủ quyền quốc gia…

  • Khách thể trực tiếp của tội phạm là quan hệ xã hội bị tội phạm cụ thể xâm hại mà sự xâm hại này phản ánh được đầy đủ tính chất nguy hiểm cho xã hội của tội phạm đó.

Ví dụ: Hành vi giết người, cướp của là xâm phạm đến quan hệ nhân thân và quan hệ sở hữu.

4. Khách thể quan hệ pháp luật là gì?

Tìm hiểu về khách thể của quan hệ pháp luật

Mặc dù cũng không có một khái niệm nào cụ thể hay rõ ràng nhưng qua các trường hợp và từ những phân tích từ thực tế có thể hiểu rằng: Khách thể quan hệ pháp luật là những đối tượng được chủ thể quan tâm, hướng tới và mong muốn đạt được khi tham gia vào một quan hệ pháp luật nào đó.

Khách thể quan hệ pháp luật có thể bao gồm:

  • Tài sản vật chất như tiền, vàng, bạc, nhà ở, phương tiện đi lại, vật dụng hàng ngày hoặc các loại tài sản khác…;
  • Hành vi xử sự của con người như vận chuyển hàng hóa, khám bệnh, chữa bệnh, chăm sóc người già, trẻ em; bầu cử, ứng cử vào các cơ quan quyền lực nhà nước; phục vụ hành khách trên tàu hỏa, máy bay; hướng dẫn người du lịch, tham quan…;
  • Các lợi ích phi vật chất như quyền tác giả, quyền phát minh sáng chế, danh dự, nhân phẩm, học vị, học hàm…

Vai trò của việc xác định khách thể quan hệ pháp luật:

  •  Giúp xác định được nội dung quan hệ pháp luật. 
  • Giúp các nhà làm luật định hướng điều chỉnh hoặc không điều chỉnh các quan hệ pháp luật.

Hy vọng qua bài viết sau sẽ cung cấp được một số kiến thức cơ bản về khách thể, thế nào là khách thể? Và các loại khách thể. Có thể một phần nào giúp mọi người hiểu thêm về khách thể.

Khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội được Luật hình sự bảo vệ, bị tội phạm xâm hại, gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại.

Các nội dung liên quan: 

2. Các loại khách thể của tội phạm

Khoa học Luật hình sự dựa trên mức độ khái quát của các quan hệ xã hội đã chia khách thể của tội phạm thành ba loại: Khách thể chung của tội phạm, Khách thể loại của tội phạm, Khách thể trực tiếp của tội phạm. Cụ thể:

a] Khách thể chung của tội phạm

Khách thể chung của tội phạm là tổng hợp tất cả các quan hệ xã hội bị tội phạm xâm hại và được Luật hình sự bảo vệ. Theo Luật hình sự Việt Nam, khách thể chung của tội phạm là những quan hệ xã hội được xác định tại khoản 1 Điều 8 Bộ luật hình sự 2015 [sửa đổi, bổ sung 2017].

Bất cứ hành vi phạm tội nào cũng đều gây phương hại đến khách thể chung là một trong những quan hệ xã hội được xác định tại khoản 1 Điều 8. Chính vì vậy, thông qua khách thể chung, chúng ta có thể thấy được nhiệm vụ của Bộ luật hình sự và bản chất giai cấp của nó. Hay nói đúng hơn là thấy được chính sách hình sự của một quốc gia.

b] Khách thể loại của tội phạm

Khách thể loại của tội phạm là nhóm quan hệ xã hội có cùng tính chất được một nhóm các quy phạm pháp luật hình sự bảo vệ và bị một nhóm tội phạm xâm hại. Khách thể loại có vai trò quan trọng về mặt lập pháp. Nó là cơ sở để Bộ luật hình sự xây dựng các chương trong phần các tội phạm.

Tội phạm trên thực tế dù rất đa dạng về các mặt chủ thể, chủ quan, khách quan nhưng nếu xâm hại đến các quan hệ xã hội có cùng tính chất sẽ được xếp chung vào một chương. Thông qua việc xem xét các nhóm khách thể nhất định, chúng ta có thể đánh giá được tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội cụ thể khi trực tiếp xâm hại đến một trong số các khách thể của nhóm.

Việc sắp xếp các chương trong phần các tội phạm dựa theo khách thể loại là hết sức hợp lý và khoa học. Nếu chúng ta sắp xếp theo các cơ sở khác [chủ quan, chủ thể…]thì sẽ dẫn đến tình trạng nhiều tội phạm có bản chất rất khác nhau lại nằm cùng một chương. Điều này gây khó khăn rất lớn trong việc đánh giá tính nguy hiểm cho xã hội của từng tội phạm và việc xử lý chúng.

Các tội phạm được quy định trong cùng một chương phần các tội phạm [có cùng khách thể loại] bao giờ cũng xâm hại đến khách thể loại của chúng. Tuy nhiên, từng tội phạm trong một chương đó không phải luôn xâm hại cùng khách thể trực tiếp. Điều đó có nghĩa là mỗi tội phạm có khách thể trực tiếp riêng của nó.

c] Khách thể trực tiếp của tội phạm

Khách thể trực tiếp của tội phạm là một hoặc một số quan hệ xã hội cụ thể bị hành vi phạm tội cụ thể xâm hại. Thông qua việc gây thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại [xâm hại] đối với khách thể trực tiếp mà tội phạm đã gây phương hại đến khách thể chung và khách thể loại của tội phạm.

Ví dụ về khách thể của tội phạm

Ví dụ 1: A trộm cắp tài sản của B. A đã xâm hại đến khách thể trực tiếp là quyền sở hữu tài sản của B và gây phương hại đến khách thể chung và khách thể loại là quyền sở hữu của công dân.

Một tội phạm có thể xâm hại đến nhiều khách thể nhưng không phải lúc nào tất cả các khách thể đó đều được xem là khách thể trực tiếp. Khách thể trực tiếp khi đó là quan hệ xã hội mà tội phạm gây thiệt hại thể hiện được đầy đủ bản chất nguy hiểm cho xã hội của tội phạm.

Ví dụ 2: Hành vi trộm cắp dây điện thoại đang sử dụng vừa gây thiệt hại cho quan hệ sở hữu XHCN vừa gây thiệt hại cho an toàn thông tin liên lạc. Nhưng rõ ràng, thiệt hại cho an toàn thông tin liên lạc mới thể hiện đầy đủ bản chất nguy hiểm của hành vi phạm tội. Do đó, hành vi phạm tội phải được xác định là tội phá huỷ công trình, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia chứ không phải Đtội trộm cắp tài sản.

Trong nhiều trường hợp, nếu một tội phạm xâm phạm đến nhiều khách thể mà xâm phạm đến khách thể nào cũng thể hiện được bản chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, chúng ta cần xem xét dấu hiệu thứ hai để xác định khách thể loại. Đó là: khách thể đó phải luôn bị tội phạm cụ thể đó xâm hại trong mọi trường hợp, hoặc người phạm tội muốn xâm hại khách thể nào [lỗi]….

Chẳng hạn, hành vi giật túi xách của người đi đường làm cho chủ sở hữu ngã dẫn đến thương tích. Ở đây có hai khách thể bị xâm hại là quyền sở hữu và sức khoẻ. Tuy nhiên, quyền sở hữu đúng là khách thể trực tiếp của hành vi “cướp giật tài sản”, sức khoẻ không là khách thể trực tiếp của hành vi này.

Một tội phạm có thể có một khách thể trực tiếp hoặc nhiều khách thể trực tiếp. Tội phạm có nhiều khách thể trực tiếp khi hành vi phạm tội xâm hại đến nhiều quan hệ xã hội  mà việc xem xét sự gây thiệt hại đối với bất cứ một quan hệ xã hội nào cũng không thể hiện đầy đủ bản chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi đó và nhiều khách thể đó luôn bị xâm hại ở mọi trường hợp phạm tội.

Ví dụ 3: Hành vi cướp tài sản vừa xâm hại đến quan hệ nhân thân vừa xâm hại đến quan hệ sở hữu. Bản chất nguy hiểm của hành vi cướp tài sản chỉ được thể hiện đầy đủ qua cả việc xâm hại quan hệ nhân thân và quan hệ sở hữu. Chính vì thế, cả hai khách thể đều là khách thể trực tiếp của tội phạm.

Khách thể trực tiếp là cơ sở thể hiện rõ nhất bản chất của tội phạm cụ thể. Nó giúp  xác định đúng tội danh và đánh giá đúng đắn tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm  tội cụ thể.

Video liên quan

Chủ Đề