Tôm bị đốm trắng xử lý
Dịch bệnh đốm trắng bùng phát lần đầu năm 1992 tại Đài Loan sau đó là Nhật Bản và Hàn Quốc. Bệnh lây lan sang Malaysia, Ấn Độ và Thái Lan vào năm 1994, và tới năm 1996 đã gây thiệt hại khắp Đông Nam Á.
2.NGUYÊN NHÂN GÂY BỆNH Bệnh do virus đốm trắng (WSSV), tăng sinh trong nhân tế bào. Virus đốm trắng (WSSV) lây nhiễm trên nhiều loài giáp xác ( nước ngọt, nước lợ và nước mặn) theo chiều ngang ( qua môi trường nước và ăn vật nhiễm bệnh tại ao nuôi) và chiều dọc( từ tôm mẹ nhiễm bệnh sang tôm con trong các trại sản xuất giống). WSSV không lây từ mẹ sang trứng do trứng sẽ không chín khi bị nhiễm virus này. Tuy nhiên tôm mẹ thải virus đốm trắng trong môi trường nước và lây nhiễm cho ấu trùng. Tất cả các giai đoạn phát triển của tôm đều có thể nhiễm bệnh. Tôm hoang dã là vật mang WSSV, đặc biệt ở các vùng nước ven biển gần khu nuôi tôm của cả các nước Châu Á, nhưng tỷ lệ chết trên tôm hoang dã vẫn chưa được quan sát. WSSV có khả năng tồn tại trong nước mặn từ 5-40‰, độ pH 4-10 nhiệt độ 0 – 800C. Trong phòng thí nghiệm, virus đốm trắng bị bất hoạt bởi Natri hypochlorite ( nước javel) ở nồng độ 1 ppm trong 10 phút và Policodon-iodine ( I-ốt) ở 2,5 ppm trong 10 phút; mất khả năng gây bệnh khi xử lý nhiệt ở 500C trong 20 phút trong nước mặn tinh khiết hoặc xử lý phơi khô trong 30 phút. Virus cũng mất khả năng gây bệnh trong 60 phút dưới tia UV 9×105 μWs/cm2; bất hoạt ở nồng độ Ozone 0,5μg/mL ở 250C. Hòa virus mật độ cao vào nước mặn tinh khiết vẫn gây bệnh sau 120 ngày ở độ mặn 25 ‰ và hơn 120 ngày ở độ mặn 4 ‰. Nếu mật độ virus thấp thì duy trì khả năng gây bệnh 7-10 ngày ở độ măn tương ứng. 3. DẤU HIỆU BỆNH LÝ Giai đoạn cấp tính:
Lưu ý:
Giai đoạn cận cấp tính:
Giai đoạn mãn tính:
4. CHUẨN ĐOÁN BỆNH Xét nghiệm sinh học phân tử PCR hoặc kiểm tra bằng test kit nhanh,hoặc kỹ thuật lamp PCR. Phương pháp dung test kit nhanh có thể thực hiện rên cả tôm giống và tôm thương phẩm. Tuy nhiên lượng tôm mẫu dùng kiểm tra nhỏ nên có thể không đại diện được tình trang tôm bệnh trong ao. Nếu lượng mẫu ban đầu có tính đại diện tốt, PCR là phương pháp chuẩn mực và chính xác nhất cho phép phát hiện đốm trắng. Tuy nhiên kỹ thuật này đòi hỏi cao trong trang bị phòng xét nghiệm, trình độ kỹ tuật viên. Vì vậy chỉ thực hiện lại các chi cục thú y, phòng xét nghiệm uy tính. Một kỹ thuật mới dùng phát hiệm đốm trắng phát triển bởi công ty LOCI là WSSV LOCI LAMP- PCR . Phương pháp xét nghiệm đơn giản, tương tự test nhanh nhưng phát hiện được virus ở tải lượng thấp, đọc kết quả dễ dàng dựa trên sự thay đổi màu sắc. Lượng mẫu lớn có tính đại diện. Ưu điểm quan trọng của kỹ thuật này là kinh phí đầu tư ban đầu thấp, cho phép áo dụng tại các cơ sở tôm giống, ao nuôi quy mô nhỏ.
Hình: Quy trình xét nghiệm bệnh tôm bằng LAMP-PCR Dưa vào dấu hiệu bệnh lý: Dựa vào các dấu hiệu bệnh lý để xác định bệnh. Củng cố thêm kết luận bằng một trong các phương pháp trình bày phía dưới.
Ngoài ra đốm trắng có thể xuất hiện do sự vôi hóa trong nước có độ kiềm cao hoặc do sự phân giải vỏ của vi khuẩn. Nếu do các nguyên nhân này, tôm sẽ không xuất hiện các dấu hiệu cấp tính. Có thể phân biệt sự khác nhau này dưới kính hiển vi.
Làm mô bệnh học các cơ quan tuyến râu, cơ quan tạo máu, chân bơi, mang, dạ dày, cơ bụng. Nhuộm H&E và quan sát thể vùi của virus dưới kính hiển vi.
5. PHÒNG NGỪA VIRUS ĐỐM TRẮNG Phòng ngừa bằng cách hạn chế các nguồn nguyên nhân gây bệnh sau: Xử lý ao đã nhiễm virus đốm trắng:
– Cách ly ao bệnh – Thu tôm trong vòng 1-2 ngày nếu tôm đạt kích cỡ thu hoạch – Sau khi thu tôm, khử trùng nước và dụng cụ nhiễm WSSV bằng Chlorine nồng độ 40 ppm. Giữ nước sau khi xử lý Chlorine ít nhất 7 ngày trước khi xả ra môi trường. Dụng cụ và quạt nước dùng trong ao phải được phun xịt bằng nước hòa chlorine với nồng độ 1600ppm hoặc nếu có thể thì ngâm trong nước hòa tan 40ppm chlorine trong ít nhất 3 ngày. Nếu tôm chưa đạt cỡ thu hoạch thì hủy tôm bằng Chlorine nồng độ 40ppm. Trong trường hợp tôm chưa chết hết thì tái xử lý Chlorine nồng độ 100ppm. Xác tôm chết phải lưu lại trong ao ít nhất 7 ngày cho phân hủy tự nhiên và tiêu diệt mầm bệnh ( vì mầm bệnh có thể tồn tại trong nhân tế bào). Sau khi tháo nước, loại bỏ bùn đáy, xử lý vôi 4.000- 5.000kg/ ha khi đáy còn ẩm ( có thể xử lý vôi theo pH phơi đất). Phơi khô đáy, đảm bảo không còn chỗ ẩm cho mầm bệnh ẩn nấp. Những ao gần kề ao nhiễm WSSV không có dấu hiệu bệnh ( như giảm ăn, lờ đờ ) có thể duy trì bằng cách giảm thiểu các nghuyên nhân gây căng thẳng. Xử lý iodine 10% ở mức 0,3 – 1ppm ( lập lại sau 3-4 ngày) hoặc formaline 70ppm ( mỗi ngày) hoặc BKC 1 ppm |