Thịt, cá, trứng, sữa là những thu giàu chất

Các thức tọng dọc ngày như giết, cược, Trứng, Sữa là những thiệt phẩm rất bồi dưỡng, chứa nhiều Protein đặt tặng cơ thể, vạc triển trí óc
1. Sữa và chế biến: Loài người dùng sữa và chế phẩm làm thức chén ở các hoàn cảnh khác nhau: trước tiên là sữa mẹ, đó là thức đớp tự nhiên biếu đứa trẻ sau chốc vào đời, là sữa bò, sữa trâu, sữa dê, sữa cừu, sữa lạc đà…micro shure Nói chung, số lượng sữa cố đổi tùy theo tình trạng sức khỏe của con vụt, còn chất lượng sữa tương đối hằng định trừ hàm lượng lipid gắng đổi theo chế kiêng kị măm.

Thịt, cá, trứng, sữa là những thu giàu chất

 Sữa là một loại thực phẩm rất có giá trị: một mặt đó là nguồn protein có giá trị đâm ra học cao, bình diện khác đó là nguồn canxi quí cùng với các vitamin A,D, B2. Lượng protein trong sữa bò tươi là 3,9 g%, sữa dê khoác là 1,5 g%, sữa trâu 5,2 g%. Lượng lipid trong suốt sữa bò 4,4 g%, sữa dê 4,1 g%, sữa mẹ 3 g%. Casein, lacto anbumin và lacto globulin là các protein chính. đại hồi lượng casein chiếm sang trọnǵ 75% tổng số protein gọi là sữa casein (sữa bò, sữa trâu, sữa dê), lát thấp hơn gọi là sữa anbumin (sữa người). Phần lớn glucid trong sữa ở dưới dạng lactoza. Lactoza kém ngọt hơn sacaroza nhiều. Sữa mẹ có nhiều lactoza (7 g%) hơn sữa bò (2 - 5 g%). tã vào ruột lactoza mộ̃o điều kiện thuật lợi cho sự phát triển đơn số vi khuẩn làm chú sữa và hạn chế các vi khuẩn gây thối. Các lipid trong suốt sữa ở dưới dạng nhũ tương phần lớn các glyxerit với một ít lexitin. Sữa là một nguồn canxi quí: 100g sữa cho 120 mg canxi dễ hấp thâu nhờ có lactoza ở ruột. Sữa tương đối nghèo sắt, vitamin C mà lại có một lượng riboflavin cao (0,19 mg%) các vitamin A, D, ngoài vào còn có nhiều enzym. Sữa đặc là loại sữa đã làm bay hơi đơn phần nước và tặng thêm đường. Đối với trẻ nhỏ, người mỗ khuyên chả dùng sữa kín quâỳ có trải quá nhiều đường.cuc day cong suat k5 Sữa bột là loại sữa đã làm phứt hơi nước sau đó sấy khô khan thành các hạt nhỏ. Sữa bột quâỳ thế rất hút ẩm nên phải để chốn khô vàóo. Đối với trẻ sơ sinh nhút nhát bắt thắt phải dùng sữa làm thức xơi nắm thế, cần pha với nước đúng liều qui định, không loãng chẳng kín quá. Từ sữa người min chế biến phớt lờ, pho mát, sữa chú. Pho mát là loại thức măm có giá trị đơm học cao. Lượng protein và canxi ở pho mát cao hơn ở sữa vì chưng đó có thể nom pho mát như là sữa canh kín tự nhiên. Người ta chế biến pho mát từ sữa toàn phần hoặc sữa đã lấy chất béo bằng cách làm chú sữa bò̉i streptococcus lactic năng men. Loại pho mát làm từ sữa toàn phần có 25 m% protein, 30g% lipid và 760 mg% canxi. Sữa chua cũng là đơn nguồn thức xực quí. trong 100g sữa chua có 3,3 protid, 3,7% lipid kín biệt 120 mg% canxi. 2. Thịt, cá, trứng

Thịt, cá, trứng, sữa là những thu giàu chất

 Thịt, cá, trứng là những loại thức xơi khác nhau mà có nhiều đặc điểm giống rau. * Thịt: Có giá trị dinh dưỡng cao mà lại chả toàn diện. Trước hết thịt là nguồn protein quí, hàm lượng từ 15 - 20%. Thành phần acid amin trong suốt thịt kí đối, đặc bặt có nhiều lysine là yếu tố hạn chế ở tiền lương thực. Ngoài protein trong suốt thịt còn có những chất chiết xuất chảy trong suốt nước có mùi vị đặc hiệu, tã lót luộc vào theo nước.loa dam cuoi Lipid trong thịt chao đảo nhiều liên can tới loại súc vật, mức lớp béo và vị trí miếng thịt. ví dụ ở thịt lợn béo, mỡ có thể tới 30%, ở thịt mạ gầy mỡ giò sang trọnǵ 2%. Mỡ đụng quật có nhiều acid béo no, các acid béo chữa no nhiều mạch kép (EFA) khoảng 2 - 7%. Chỉ trong suốt mỡ gà có 18% acid linolenic (C18:2) và trong suốt mỡ ngựa có 16% linolenic (C16: 3). Ở mỡ lợn các lớp ngoài có nhiều acid béo có chửa no nhiều nối kép hơn các lớp sâu. Lượng acid béo chửa no ở con phiết gầy còm giảm và lượng các acid béo no tăng lên rõ rệt. Thịt nhòm như thường có glucid, glycogen và glucoza có ở lượng rất bé, chủ yếu ở trây và thịt ngựa. Thịt con vật gầy, mệt mỏi ít glycogen bởi thế sau nhút nhát giết ít acid lactic và chóng hỏng. Thịt có nhiều photpho, kali, sắt mà ít canxi. Thịt là đơn thức háp gây định mạnh. Thịt là nguồn các vitamin B tốt, đặc bặt thịt lợn nạc có rất nhiều vitamin B1 (0,90 mg%). Thịt nghèo vitamin C. Thịt được nhòm là loại thức háp qua để đãi khách, tã lót nhà có tết, có giỗ. trong chăn nuôi, để sản xuất 1 kg thịt bò cần 7 kg lương bổng thực, 1 kg thịt lợn cần 3,4 kg. xơi nhiều thịt kéo theo nhiều chất béo no giò có lợi cho sức khỏe tâm mạch. Thịt chứa ít canxi, là một thức xơi hoi toan mạnh. Thịt chứa ít canxi, là một thức chén gây định mạnh. trong thời kỳ ghê tế chuyển tiếp, lượng thịt sử dụng có khuynh hướng tăng nhặt thành thử cần duy trì ở mức vừa phải. Các loại phủ miṇng khác với thịt là có nhiều muối khoáng và vitamin hơn cơ mà cũng lại có nhiều urê và các chất kiềm purin. ì, thận, tim có nhiều cholesterol và photphatit. Não có nhiều cholesterol và phophatit nhất. trong ì có nhiều sắt, là thức măm chống thiếu máu tốt. trong suốt tiết có đủ acid amin và rất nhiều chất sắt (tiết bò 52 mg%) nhưng mà phải dùng thẳng băng quâỳ chóng hỏng. * Cá

Thịt, cá, trứng, sữa là những thu giàu chất

 không trung liệt kém thịt về giá trị dinh dưỡng. Lượng protein trong suốt cá dao động từ 16 - 22 g%, thành phần acid amin hốt đối. Lượng tổ chức liên kết ít hơn ở thịt, phân phối đều và hầu như thường có elastin nên chi cá dễ xài. Lượng chất béo ngả nghiêng từ 1 - 10% tùy theo loài, tuổi, mùa và chu kỳ đâm ra sản, nói chung thấp hơn ở thịt. Tuy vật trong lipid của cá có nhiều acid béo có chửa no (khoảng 60 - 65%) do vậy rất có giá trị, kín bặt là các acid béo nhóm n - 3. Lipid của cá dễ xài cơ mà tặnǵng ôi. Lượng glucid trong suốt cá không đáng kể, dưới 1% ở dưới dạng glycogen. Cá là một nguồn vitamin và chất khoáng quí. Cá nhiều photpho, ít canxi song ton hót bằng toan kiềm tốt hơn thịt. cho nên tọng cá nhỏ cả xương để có thêm canxi. Cá có ít sắt hơn thịt, cá biển có nhiều i ớt. đặc biệt cù nhầy một số loài cá biển như cá thâu, cá hồi có nhiều vitamin A và D. Các loài thủy sản cơ thể mềm và có giáp có hàm lượng protein gần giống cá, là một nguồn vitamin và chất khoáng quí. Đáng chú ý các loại thủy sản thân thể mềm để lọc sang một lượng nước lớn, quâỳ cầm lát nguồn nước bị dù nhiễm chúng dễ chứa các nguồn vi khuẩn hoi bệnh như thương xót hàn, viêm trây. * Trứng:

Thịt, cá, trứng, sữa là những thu giàu chất

 Là một loại thức chén có giá trị dinh dưỡng kín bặt cao. Protein của trứng từ 12 - 14 g% có đủ các acid amin cần thiết thích hợp với nhu cầu kia thể. Người mỗ thường dùng protein của trứng làm chuẩn để sánh sánh các loại protein khác. Lượng lipid nghiêng ngả từ 11 - 16%, tụ họp chủ yếu ở lòng đỏ dưới dạng glyxerit và photpho lipid có vai trò đâm ra hoạt quan liêu trọng. Trứng gà là nguồn lexitin quí, hàm lượng ở lòng đỏ khoảng 8,6 g%. Lexitin thường có ít ở các thực phẩm khác. Lòng đỏ trứng có 1,8 g% cholesterol. Khoảng 84% cholesterol trong suốt lòng đỏ ở dạng tự do và chỉ 16% ở dạng este. Tương quan liêu xuôi lợi giữa lexitin và cholesterol cũng rất đáng chú ý. Trứng là nguồn thực phẩm rượu cồn phẩy duy nhất trong suốt đó lượng lexitin cao hơn nhiều sánh với cholesterol (6 : 1). Ngoài ra, lòng đỏ trứng có nhiều vitamin nhóm B, vitamin A, D và carotene mà hàm lượng cố đổi theo chế tìm của gia cầm (khoảng 350 mcg retinol và 300 mcg carotene trong suốt 100 g). Lòng đỏ trứng có nhiều photpho, lượng canxi thấp (55 mg%) nhưng mà đồng hóa tốt. Sắt có khoảng 2 mg%, tụ hội chủ yếu ở lòng đỏ. Ngoài ra trứng còn có nhiều S và đơn số yếu tố vi lượng khác. Trứng là một thức tợp dễ ăn xài, là thức bát bổ sung tốt tặng khẩu phần trẻ nhỏ từ 6 tháng trở lên. Cần nhớ lòng trắng trứng khó tiêu pha, cho nên luộc chín để hấp thâu tốt.


Page 2

  • 18:00 26/03/2022
  • Xếp hạng 5/5 với 20536 phiếu bầu

Hầu hết các loại thực phẩm sau khi mua về cần trải qua quá trình chế biến, nấu nướng mới có thể ăn được. Chế biến thực phẩm nhiều đạm cần đảm bảo mức nhiệt ở mức an toàn để đảm bảo không làm hao hụt, biến tính chất dinh dưỡng.

Đạm (protein) là một trong những chất dinh dưỡng đảm nhiệm nhiều chức năng quan trọng trong cơ thể con người. Đạm là thành phần của các mô cấu tạo, bảo vệ cơ thể và tế bào mềm ở các cơ quan. Nếu không có chất đạm hấp thụ từ thực phẩm thì cơ thể người không thể phát triển, các cơ quan nội tạng không thể hoạt động. Trung bình, tỷ lệ chất đạm trong cơ thể người là 10 - 20% trọng lượng cơ thể (tùy theo giới tính, độ tuổi, thể trạng béo - gầy).

Đạm có ở trong nhiều loại thực phẩm khác nhau như thịt, rau, quả, hạt,... Chất đạm cần thiết cho con người được cung cấp từ thực phẩm có nguồn gốc từ động vật hoặc thực vật. Nguồn chất đạm từ ngũ cốc, đậu chỉ chiếm 3 - 10% trọng lượng thức ăn. Trong khi đó, khoai, trái cây, cải lá xanh,... chỉ chứa 3% lượng đạm.


Phần lớn thực phẩm mua về thường phải trải qua một quá trình chế biến, nấu nướng mới có thể ăn được. Thức ăn giàu đạm như thịt, cá, trứng, sữa,... cũng không phải là ngoại lệ. Trong quá trình chế biến nóng, các chất dinh dưỡng sẽ chịu những biến đổi lý hóa rất đa dạng.

Với chất đạm, khi đun nóng ở nhiệt độ 70°C, đạm bị đông vón lại rồi bị thoái hóa. Khi có axit, quá trình đông vón sẽ xảy ra ở nhiệt độ thấp hơn. Quá trình đông vón này giúp chất đạm dễ tiêu.

Trong khi đó, nếu nấu nướng ở nhiệt độ cao quá lâu thì sẽ làm giảm đi giá trị dinh dưỡng của protein (do tạo thành các liên kết khó tiêu). Quá trình này thường xảy ra khi nướng, hấp thực phẩm trong lò có nhiệt độ cao hoặc rán thực phẩm trong dầu mỡ quá lâu (thực phẩm chế biến trong dầu mỡ có thể lên tới mức nhiệt trên 200°C, thực phẩm nướng trên bếp than có thể lên tới mức nhiệt trên 300°C,...).

Vậy khi chế biến thực phẩm nhiều đạm, nên nấu thịt ở nhiệt độ bao nhiêu, rán cá ở nhiệt độ nào? Theo các chuyên gia dinh dưỡng, với thực phẩm cung cấp chất đạm như thịt, cá, trứng thì phải sử dụng nhiệt độ trên 70°C. Nên duy trì mức nhiệt trên 100°C để nấu chín thực phẩm và diệt khuẩn (gồm cả virus và vi khuẩn). Khi luộc gà hoặc ngan, vịt, chân giò, cá, gan,... cần luộc chín kỹ, đặc biệt là chú ý phần thịt sát với xương không được để còn màu hồng. Đồng thời, nên hạn chế sử dụng thực phẩm được nướng, rán, quay,... trong lò ở nhiệt độ cao hoặc trong dầu mỡ với thời gian chế biến lâu.

Sử dụng nhiệt kế đo nhiệt độ nấu ăn giúp người nội trợ kiểm soát được nhiệt độ cho từng loại thực phẩm

Như vậy, khi chế biến thực phẩm nhiều đạm, cần đảm bảo nhiệt độ nấu nướng thích hợp để đảm bảo các chất dinh dưỡng không bị biến tính, đồng thời đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm để giúp cơ thể hấp thu tốt chất đạm có trong thức ăn, ngăn ngừa sản sinh các chất độc hại.

Mọi thắc mắc cần được bác sĩ chuyên khoa giải đáp cũng như quý khách hàng có nhu cầu khám và điều trị tại Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Vui lòng đăng ký khám trực tuyến trên Website để được phục vụ tốt nhất.

XEM THÊM: