So sánh hình ảnh tre ở khổ đầu và khổ cuối bài thơ Viếng lăng Bác

Phân tích hình ảnh hàng tre trong bài thơ Viếng lăng Bác

Mở đầu và kết thúc bài thơ Viếng lăng Bác hình ảnh hàng trẻ rất nổi bật. Em hãy đưa ra một số ý kiến của bản thân và phân tích hình ảnh hàng tre bên lăng Bác. Sau đây là bài viết mẫu dành cho học sinh lớp 9 mà các bạn có thể tham khảo.

Bài văn phân tích hình ảnh hàng tre

Đôi nét về tác giả

Viễn Phương tên thật là Phan Thanh Viễn, sinh năm 1928 ở An Giang. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mĩ của dân tộc, ông là nhà thơ vẫn gắn bó với cuộc sống chiến đấu và sáng tác. Về phong cách thơ Viễn Phương, ông được biết đến là một tâm hồn giàu cảm xúc, chân thành và dung dị. Đặc biệt ngôn ngữ mang đậm chất Nam Bộ, mang lại cảm xúc sâu lắng cho người nghe. Các tập thơ chính tiêu biểu như: “Như mấy mùa xuân”, Nhớ lời di chúc”, “Mắt sáng học trò”…

Năm 1975, khi đất nước hoàn toàn độc lập, nước nhà được thống nhất, đó là niềm vui của toàn đất nước. Năm 1976, Viễn Phương có dịp được ra thăm lăng Bác. Trong cảm xúc dâng trào, nhà thơ đã viết nên bài thơ này [tháng 4 – 1976]. Bài thơ là nỗi lòng tiếc thương và lòng kính trọng vô bờ của nhà thơ cũng như toàn thể nhân dân miền Nam muốn gửi gắm tới vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc.

Bài phân tích hình ảnh hàng tre trong bài thơ

Bài mẫu số 1

Viếng lăng Bác là bài thơ xuất sắc của Viễn Phương ghi lại những cảm xúc chân thực trong lần đầu ra thăm lăng Bác, đặc biệt hình ảnh hàng tre xuyên suốt bài thơ để lại ấn tượng đậm nét.Hình ảnh hàng tre xuất hiện trong khổ thơ đầu và khổ thơ cuối có ý nghĩa hoàn toàn khác nhau.

Cây tre đối với văn hóa Việt mà nói rất gần gũi, bình dị và thân thuộc với mỗi làng quê. Cây tre xuất hiện nhiều trong các tác phẩm văn học, trở thành công cụ vũ khí chống lại kẻ thù, cây tre còn che chở bảo vệ làng quê trước thiên nhiên.

Trong khổ thơ đầu tác giả đã nhìn thấy từ xa hàng tre ẩn hiện trong sương mù, hàng tre xanh tươi mặc cho “bão táp mưa sa” vẫn đứng thẳng hàng, đó cũng là tính chất tốt đẹp loài tre. Hình ảnh cây tre ẩn dụ như muốn nói đến những đức tính của người giản dị, mộc mạc mà thanh cao. Tre cũng thể hiện tinh thần anh hùng, bất khuất của cả dân tộc Việt Nam ngàn đời nay.

Trước khi kết thúc bài thơ tác giả cũngmong muốn trở thành cây tre tận trung tận hiếu với Bác với đất nước. Hình ảnh cây tre lúc này lại mang ý nghĩa khác.Tác giả muốn hóa thân thành cây tre ngày ngày che chở, bảo vệ Người an giấc ngàn thu.

Xem thêm >>> Phân tích bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương [Dàn ý + 14 Mẫu]

Bài mẫu số 2

Hình ảnh hàng tre là hình ảnh xuyên suốt trong bài thơ “Viếng lăng Bác” của tác giả Viễn Phương. Nó xuất hiện ở khổ đầu và khổ cuối của bài thơ như sự minh chứng cho kết cấu chặt chẽ đầu cuối tương ứng. Hình ảnh xuất hiện ở mỗi khổ thơ lại mang ý nghĩa khác nhau.

Trong khổ thơ đầu:

“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác

Đã thấy hàng tre trong sương bát ngát

Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam

Bão táp, mưa sa đứng thẳng hàng”

Hình ảnh hàng tre xuất hiện là ấn tượng đầu tiên của Viễn Phương khi lần đầu từ miền Nam đặt chân ra thăm lăng Bác. Hình ảnh hàng tre không phải là hình ảnh mới lạ bởi nó là biểu tượng của làng quê miền Bắc Việt Nam. Nhưng với Viễn Phương khi lần đầu được đến thăm Bác đã ấn tượng ngay loài cây “bát ngát” này. Và tác giả phải thốt lên rằng “Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam”. “Xanh xanh” là màu của tre, của sự yên bình, lại được trồng ở lăng Bác – ngay tại thủ đô của đất nước. Bởi vậy mới thấy hết giá trị của nó. Hàng tre là ẩn dụ cho sự mộc mạc, giản dị, ngay thẳng như chính con người Bác vậy. “Bão táp, mưa sa đứng thẳng hàng” là đại diện cho phẩm chất của con người Việt Nam trong đấu tranh. Đó là phẩm chất cao cả của những người anh hùng trong chiến đấu: anh dũng, kiên cường với sức sống bền bỉ, dẻo dai.

Trong khổ thơ cuối, hình ảnh hàng tre vẫn xuất hiện trong nguyện vọng của nhà thơ :” Muốn làm hàng tre trung hiếu chốn này”. Đây là sự kết thúc tương ứng với khổ đầu làm cho bài thơ được trọn vẹn và thống nhất. Hình ảnh hàng tre “trung hiếu” là hình ảnh mới khác với hình ảnh hàng tre trong khổ đầu. Nếu khổ đầu nó là sự kiên cường bất khuất để vượt qua mọi gian lao, khổ cực thì khổ cuối, nó là sự “trung hiếu”, trung thành của mỗi người con đất Việt đối với vị lãnh tụ vĩ đại của chúng ta. Đó còn tượng chưng cho hình ảnh các anh chiến sĩ cận vệ ngày đêm canh giấc ngủ ngàn thu cho Bác.

Hình ảnh hàng tre đã quá quen thuộc đối với mỗi chúng ta. Không chỉ trong đời sống hàng ngày mà còn trong cả các sáng tác văn chương. Các tác giả khi muốn nhắc đến sự kiên cường, bất khuất của con người Việt Nam, đều đưa hình ảnh hàng tre vào như một biểu tượng nghệ thuật. Ta từng biết một “tre xung phong vào xe tăng đại bác. Tre giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh…Tre anh hùng chiến đấu” của Thép Mới. Hay một “Tre Việt Nam” của Nguyễn Duy “Đất xanh tre mãi xanh màu tre xanh…”. Nhưng với Viễn Phương, không chỉ là hàng tre kiên cường trong bão táp mưa sa mà còn là hàng tre “trung hiếu” tận tình. Đó là phẩm chất cần có của mỗi một chiến sỹ. Đây là điểm mới làm nên hàng tre khác biệt của Viễn Phương.

Như vậy, chúng tôi vừa hướng dẫn các em phân tích hình ảnh cây tre bên lăng Bác trong bài thơ Viếng lăng Bác đó cũng là câu hỏi trong sách giáo khoa lớp 9 tập 2.

>> Đọc thêm: Nghị luận bài Viếng lăng Bác

Lớp 9 -
  • Cảm nhận khổ 4 5 bài Mùa xuân nho nhỏ LỚP 9

  • Suy nghĩ của em về nhân vật Vũ Nương

  • Suy nghĩ về nhân vật ông Hai trong truyện ngắn Làng

  • Cảm nhận về bài thơ Mùa xuân nho nhỏ Ngữ Văn lớp 9

  • Ý nghĩa nhan đề bài thơ Mùa xuân nho nhỏ Lớp 9

  • Cảm nhận về bài thơ Con cò & Đặc sắc nghệ thuật

  • Bài viết số 5 lớp 9 đề 4: suy nghĩ về hiện tượng vứt rác

3 bài văn mẫu lớp 9 hay nhất

Văn mẫu lớp 9: Cảm nhận khổ thơ đầu và khổ thơ cuối bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương gồm 3 bài văn mẫu, giúp các em học sinh tham khảo để củng cố lại kiến thức Ngữ văn lớp 9 của mình, cũng như có thêm tài liệu ôn thi vào lớp 10.

Đây là một trong những đề bài mà các em thường gặp trong các bài tập làm văn lớp 9. Hy vọng với 3 bài văn mẫu này sẽ giúp cho các em có thêm nhiều tài liệu ôn tập, để có thêm nhiều ý tưởng mới hoàn thiện bài viết của mình.

Cảm nhận khổ 1 và 4 bài Viếng lăng Bác của Viễn Phương

“Viếng lăng Bác” là tiếng lòng của nhà thơ đối với Bác Hồ kính yêu trong lần ra Bắc viếng lăng Bác cùng đoàn cán bộ miền Nam năm 1976, khi đất nước thống nhất. Bài thơ thể hiện niềm xúc động thiêng liêng, thành kính, niềm tự hào, đau xót của nhà thơ khi lần đầu tiên được viếng Bác. Tình cảm ấy được thể hiện chân thành và cảm động qua khổ 1 và khổ 4 của bài thơ.

Mở đầu bài thơ, Viễn Phương không giấu nổi niềm xúc động của một người con đã đi từ một nơi rất xa cả về không gian và thời gian, giờ đây giây phút được trở về bên Bác, được nhìn ngắm nơi bác yên nghỉ, hồi tưởng về quá khứ xa xăm:

“Con ở miền Nam ra thăm lăng BácĐã thấy trong sương hàng tre bát ngátÔi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam

Bão táp mưa sa, đứng thẳng hàng”

Câu thơ mở đầu như một lời thông báo ngắn gọn, lời lẽ giản dị nhưng chứa đựng trong nó biết bao điều sâu xa. Nhà thơ nói mình ở miền Nam, ở tuyến đầu của Tổ quốc, ở nơi máu đổ suốt mấy chục năm trời. Như vậy, không đơn giản là chuyên đi thăm công trình kiến trúc, không chỉ chiêm ngưỡng trước di hài một vĩ nhân mà đó là cây tìm về cội, lá tìm về cành, máu chảy về tim, sông trở về nguồn.

Chữ “con” ở đầu câu thơ nghe thật thân thiết và cảm động. Trong ngôn từ của nhân loại không có một chữ nào lại xúc động và sâu nặng bằng tiếng “con”. Cách xưng hô này thật gần gũi, thật thân thiết, ấm áp tình thân thương mà vẫn rất mực thành kính, thiêng liêng. Đồng thời, cũng diễn tả tâm trạng xúc động của người con ra thăm cha sau bao nhiêu năm xa cách.

Nhà thơ sử dụng từ “thăm” thay cho từ “viếng” cũng là một dụng ý đặc biệt. “Viếng” là đến chia buồn với thân nhân người chết. còn “thăm” là gặp gỡ, trò chuyện với người đang sống. Cách nói giảm, nói tránh đã làm giảm nhẹ nỗi đau thương mất mát. Lời thơ khẳng định Bác vẫn còn mãi trong trái tim nhân dân miền Nam,trong lòng dân tộc. Đồng thời gợi sự thân mật, gần gũi: Con về thăm cha – thăm người thân ruột thịt, thăm chỗ Bác nằm, thăm nơi Bác ở để thỏa lòng khát khao mong nhớ bấy lâu.

Câu thơ không có một dụng công nghệ thuật nào nhưng lại vô cùng gợi cảm, dồn nén biết bao cảm xúc. Cách xưng hô và cách dùng từ của Viễn Phương giúp cho người đọc cảm nhận được tình cảm xúc động, nhớ thương của một người con đối với cha. Đó không chỉ là tình cảm riêng của nhà thơ mà còn là tình cảm chung của dân tộc Việt Nam. Thế hệ này tiếp nối thế hệ khác song tất cả đều có chung một tình cảm như thế với Bác Hồ kính yêu.

Hình ảnh hàng tre bát ngát mở ra không gian rộng lớn, khoáng đạt. Hàng tre tiêu biểu cho mọi miền quê hương đất nước, biểu tượng tâm hồn của Bác luôn rộng mở trước thiên nhiên, là biểu tượng cho tinh hoa, cho đất nước, cho sức sống bền bỉ của dân tộc Việt Nam. Thành ngữ “bão táp mưa sa” nhằm chỉ những khó khăn, gian khổ, những vinh quang và cay đắng mà nhân dân ta đã vượt qua trong trường kì dựng nước và giữ nước, đặc biệt là trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ vừa qua. “Đứng thẳng hàng” là tinh thần đoàn kết đấu tranh, chiến đấu anh hùng, không bao giờ khuất phục, tất cả vì độc lập tự do của nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ.

Hàng tre bát ngát ấy như những đội quân danh dự cùng với những loài cây khác đại diện cho những con người ở mọi miền quê trên đất nước Việt Nam tụ họp về đây sum vầy với Bác, trò chuyện và bảo vệ giấc ngủ cho Người. Nơi Bác nghỉ vẫn luôn xanh mát bóng tre xanh. Chỉ một khổ thơ ngắn thôi nhưng cũng đủ để thể hiện những cảm xúc chân thành, thiêng liêng của nhà thơ và cũng là của nhân dân đối với Bác kính yêu.

Nếu ở khổ thơ đầu, nhà thơ giới thiệu mình là người con miền Nam ra thăm Bác thì trong khổ thơ cuối, nhà thơ lại đề cập đến sự chia xa Bác. Nghĩ đến ngày mai về miền Nam,xa Bác, xa Hà Nội, tình cảm của nhà thơ không kìm nén, ẩn giấu trong lòng mà được bộc lộ thể hiện ra ngoài:

“Mai về miền Nam thương trào nước mắtMuốn làm con chim hót quanh lăng BácMuốn làm đoá hoa toả hương đâu đây

Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này…”

Câu thơ “Mai về miền Nam thương trào nước mắt” như một lời giã biệt. Lời nói giản dị diễn tả tình cảm sâu lắng. Từ “trào” diễn tả cảm xúc thật mãnh liệt, luyến tiếc, bịn rịn không muốn xa nơi Bác nghỉ. Đó là không chỉ là tâm trạng của tác giả mà còn là của muôn triệu trái tim khác. Được gần Bác dù chỉ trong giây phút nhưng không bao giờ ta muốn xa Bác bởi Người ấm áp quá, rộng lớn quá.

Mặc dù lưu luyến muốn được ở mãi bên Bác nhưng tác giả cũng biết rằng đến lúc phải trở về miền Nam. Và chỉ có thể gửi tấm lòng mình bằng cách muốn hóa thân, hòa nhập vào những cảnh vật quanh lăng để được luôn ở bên Người trong thế giới của Người:

“Muốn làm con chim hót quanh lăng BácMuốn làm đoá hoa toả hương đâu đây

Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này…”

Điệp ngữ “muốn làm” cùng các hình ảnh đẹp của thiên nhiên“con chim”,”đóa hoa”,”cây tre” đã thể hiện ước muốn tha thiết, mãnh liệt của tác giả. Nhà thơ ao ước được hóa thân thành con chim nhỏ cất tiếng hót làm vui lăng Bác, thành đóa hoa đem sắc hương, điểm tô cho vườn hoa quanh lăng. Đặc biệt là ước nguyện “Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này” để nhập vào hàng tre bát ngát, canh giữ giấc ngủ thiên thu của Người.

Hình ảnh cây tre có tính chất tượng trưng một lần nữa nhắc lại khiến bài thơ có kết cấu đầu cuối tương ứng. Hình ảnh hàng tre quanh lăng Bác được lặp ở câu thơ cuối như mang thêm nghĩa mới, tạo ấn tượng sâu sắc, làm dòng cảm xúc được trọn vẹn. “Cây tre trung hiếu” là hình ảnh ẩn dụ thể hiện lòng kính yêu, sự trung thành vô hạn với Bác, nguyện mãi mãi đi theo con đường cách mạng mà Người đã đưa đường chỉ lối. Đó là lời hứa thủy chung của riêng nhà thơ và cũng là ý nguyện của đồng miền Nam,của mỗi chúng ta nói chung với Bác.

Kết thúc đầu cuối tương ứng khiến bài thơ như một tiếng khóc đau đớn, nghẹn ngào trước sự ra đi của Bác, là lòng thương nhớ không nguôi, lòng kính phục vô hạn của nhà thơ Viễn Phương và của nhân dân ta đối với Bác Hồ. Khổ 1 và 4 của bài thơ Viếng lăng bác diễn tả thành công hình tượng Bác Hồ vĩ đại bằng những hình ảnh đẹp, nhịp điệu tha thiết, cảm xúc nồng nàn chân thực. Âm hưởng của bài thơ ngân vang mãi trong lòng người đọc.

Cảm nhận khổ 1 và 4 bài thơ Viếng lăng Bác - Mẫu 2

Khổ thơ đầu là những cảm xúc của nhà thơ khi đã đến lăng Bác, đứng trước không gian, cảnh vật bên ngoài lăng. Câu thơ đầu “Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác” như một thông báo giản dị mà chứa đựng bao tình cảm thân thương. Tác giả xưng “con ” gọi “Bác” thể hiện tình cảm vừa gần gũi vừa thành kính. Đây là cách xưng hô thường thấy với Bác, nhưng với Viễn Phương, nó vẫn mang sắc thái tình cảm riêng, bởi ông là người con của miền Nam, miền Nam anh dũng chiến đấu, miền Nam trong trái tim Bác. Nhà thơ không nói ra “viếng” mà là ra “thăm”, như con về thăm cha, thăm nơi Bác nghỉ. Nỗi đau như cố giấu mà giọng thơ vẫn có gì ngậm ngùi.

Hình ảnh đầu tiên và cũng là ấn tượng đậm nét với tác giả về cảnh quan bên lăng Bác là hình ảnh hàng tre. Dường như nóng lòng, hồi hộp, nhà thơ đã đến lăng từ rất sớm, từ “trong sương”, và tới đây nhà thơ lại bắt gặp một hình ảnh rất đỗi thân thương của quê hương Việt Nam: cây tre. Lăng Bác như ở trong tre, giữa tre. Hàng tre “bát ngát” chạy dài quanh lăng, “xanh xanh” màu đất nước Việt Nam, hàng tre sống trong mọi không gian, thời gian: “Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng”. Cây tre từ lâu đã trở thành biểu tượng cho sức sống bền bỉ, kiên cường của dân tộc. Trong cái nhìn xúc động của nhà thơ, hàng tre vừa thực, vừa ảo, lung linh trong tâm tưởng. Hàng tre ấy cũng là hình ảnh cây cối mang màu đất nước tụ về đây giữ giấc ngủ bình yên cho Người. Hàng tre như những chiến sĩ đang canh giấc cho Bác. Đó cũng là hình ảnh của dân tộc kiên cường, bất khuất, gắn bó, trung thành bên Bác. Hình ảnh hàng tre như khúc dạo đầu đã nói lên bao xúc động, bồi bồi của nhà thơ khi đến bên lăng Người.

Khổ cuối [khổ thơ thứ tư] là cảm xúc của nhà thơ khi ra về. Nhà thơ lưu luyến muốn được ở mãi bên lăng Bác. Lòng nhớ thương, đau xót kìm nén đến giờ phút chia tay đã vỡ òa thành nước mắt: “Mai về miền Nam thương trào nước mắt". Tình cảm chắp cánh cho ước mơ, nhà thơ muốn được hóa thân, hòa nhập vào cảnh vật ở bên làng Bác:

Muốn làm con chim hót quanh lăng BácMuốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây

Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.

Hình ảnh cây tre lặp lại tạo ấn tượng đậm nét và làm cho dòng cảm xúc được trọn vẹn. Cậy tre khách thể đã hòa nhập cùng cây tre chủ thể. Hình ảnh ẩn dụ này thể hiện lòng kính yêu và trung thành vô hạn đối với Bác, mãi mãi đi theo con đường của Bác. Các điệp ngữ “muốn làm” cùng các hình ảnh thơ đứng sau nó tạo một nhạc thơ dồn dập, tha thiết diễn tả tình cảm, khát vọng dâng trào mãnh liệt. Bài thơ tưởng khép lại trong sự xa cách của không gian nhưng lại tạo được sự gần gũi trong tình cảm, ý chí. Đây cũng là những tình cảm chân thành của mỗi người khi vào viếng Bác, nhất là những người con miền Nam vốn xa cách về không gian, của cả những ai chưa được đến lăng Bác nhưng lòng vẫn thành tâm hướng về Người.

Cảm nhận khổ 1 và 4 bài thơ Viếng lăng Bác - Mẫu 3

Trong các bài thơ viết về Bác Hồ, Viếng lăng Bác của Viễn Phương là một bài thơ đặc sắc, gây cho em nhiều xúc động nhất. Bao trùm toàn bài thơ là niềm thương cảm vô hạn, lòng kính yêu và biết ơn sâu sắc của nhà thơ đối với Bác Hồ vĩ đại.

Câu thơ mở đầu "Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác" như một lời nói nghẹn ngào của đứa con đi xa trở về thăm viếng hương hồn Bác Hồ kính yêu. Tình cảm ấy là tình cảm chung của đồng bào và chiến sĩ miền Nam đối với lãnh tụ vĩ đại của dân tộc.

Nhà thơ đứng lặng đi, trầm ngâm từ phía xa nhìn lăng Bác. Hàng tre để lại cho anh nhiều cảm xúc và liên tưởng thấm thía. Màu tre xanh thân thuộc của làng quê Việt Nam luôn luôn gắn bó với tâm hồn của Bác. Bác đã "đi xa "nhưng tâm hồn Bác vẫn gắn bó thiết tha với quê hương xứ sở:

Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng.

Cây tre, "hàng tre xanh xanh"... "đứng thẳng hàng" ẩn hiện thấp thoáng trước lăng Bác. Cây tre đã được nhân hóa như biểu tượng ca ngợi dáng đứng của con người Việt Nam: kiên cường, bất khuất, mộc mạc, thanh cao... Hình ảnh cây tre trong lời thơ của Viễn Phương biểu thị niềm tự hào dân tộc làm cho mỗi chúng ta cảm nhận sâu sắc về phẩm chất cao quý của Bác Hồ cũng như của con người Việt Nam trong bốn nghìn năm lịch sử.

Trong nền thơ ca Việt Nam hiện đại có nhiều bài thơ nói đến hình ảnh mặt trời: "Mặt trời chân lí chói qua tim" [Từ ấy - Tố Hữu]. "Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi - Mặt trời của mẹ, em nằm trên lưng" [Nguyễn Khoa Điềm]. Viễn Phương có một lối nói rất hay và sáng tạo, đem đến cho em nhiều liên tưởng thú vị:

Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng,
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ.

Ở đây "mặt trời... rất đỏ" là hình ảnh ẩn dụ tượng trưng cho đạo đức, lòng yêu nước, tinh thần cách mạng sáng ngời của Bác. Mặt trời thiên nhiên thì vĩnh hằng cũng tựa như tên tuổi và sự nghiệp cách mạng của Bác Hồ đời đời bất tử.

Viễn Phương đã ví dòng người vô tận đến viếng lăng Bác như "Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân ".Mỗi người Việt Nam đến viếng Bác với tất cả tấm lòng kính yêu và biết ơn vô hạn. Ai cũng muốn đến dâng lên Người những thành tích tốt đẹp, những bông hoa tươi thắm nảy nở trong sản xuất, chiến đấu và học tập. Hương hoa của hồn người, hương hoa của đất nước kính dâng Người. Cách nói của Viễn Phương rất hay và xúc động: lòng thương tiếc, kính yêu Bác Hồ gắn liền với niềm tự hào của nhân dân ta - nhớ Bác và làm theo Di chúc của Bác.

Khổ cuối, cảm xúc thơ dồn nén, sâu lắng, làm xúc động lòng em. Lời hứa thiêng liêng của nhà thơ đối với hương hồn Bác trước khi trở lại miền Nam thật vô cùng chân thành. Câu mở đầu nhà thơ viết: "Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác"... đến đây, anh lại nghẹn ngào nói: "Mai về miền Nam thương trào nước mắt"... Biết bao lưu luyến, buồn thương! Ra về trong muôn dòng lệ "thương trào nước mắt". Xúc động tột cùng, nhà thơ muốn hóa thân làm "con chim hót", làm "đóa hoa tỏa hương", làm "cây tre trung hiếu" để được đền ơn đáp nghĩa, để được mãi mãi sống bên Người. Ba lần nhà thơ nhấc lại hai chữ "muốn làm" như thế giọng thơ trở nên thiết tha, cảm động. Những câu thơ của Viễn Phương vừa giàu hình tượng vừa dào dạt biểu cảm, đã khơi gợi trong tâm hồn em bao tình thương tiếc và biết ơn vô hạn đối với Bác Hồ kính yêu. Trong câu thơ của Viễn Phương tuy có tiếng khóc nhưng không làm cho chúng ta bi lụy, yếu mềm, trái lại, nó đã nâng cánh tâm hồn chúng ta:

Xin nguyện cùng Người vươn tới mãiVững như muôn ngọn dải Trường Sơn"

[Bác ơi - Tố Hữu]

Ai cũng cảm thấy phải sống xứng đáng, phải sống đẹp để trở thành"cây tre trung hiếu"của đất nước quê hương:

Mai về miền Nam, thương trào nước mắt,Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác,Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây,

Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.

"Cây tre trung hiếu" là một hình ảnh ẩn dụ đầy sáng tạo, thể hiện đạo lí sáng ngời của con người Việt Nam tận trung với nước, tận hiếu với dân, đời đời trung thành với sự nghiệp cách mạng của Bác.

Bác Hồ đã đi xa, nhưng hình ảnh Bác, sự nghiệp cách mạng và công đức của Bác vẫn sống mãi trong tâm hồn dân tộc. Bài thơ của Viễn Phương đã thể hiên rất hay và chân thành tình cảm của hàng triệu con người Việt Nam đối với lãnh tụ Hồ Chí Minh.

Cập nhật: 26/04/2021

Video liên quan

Video liên quan

Chủ Đề