- Tại sao?
Vì trong cơ thể người mắc bệnh lao có nhiều dân số trực khuẩn lao khác nhau:
· Nhóm trực khuẩn đang hoạt động và sinh sản: loại này có nhiều trong các hang lao, tức là các lỗ lủng trong phổi theo cách nói thông thường. Nhóm này dễ bị thuốc kháng lao tiêu diệt.
· Nhóm sinh sản chậm nằm trong các đại thực bào, khó bị tiêu diệt hơn.
· Nhóm ngủ yên, sinh sản cực kỳ chậm, nằm rải rác trong các mô cơ thể. Các vi khuẩn trong nhóm này không sinh sản nhưng vẫn sống. Khi sức đề kháng của cơ thể suy yếu đi chúng sẽ hoạt động trở lại. Nhóm này rất khó bị tiêu diệt.
Mặt khác vi khuẩn lao có đặc điểm là có một số vi khuẩn tự nhiên có khả năng chống lại được thuốc kháng lao, gọi là kháng thuốc [lờn thuốc]. Số vi khuẩn càng đông càng có khả năng có nhiều vi khuẩn kháng thuốc.
- Ho khạc kéo dài trên 3 tuần
- Gầy sút, kém ăn, mệt mỏi
- Sốt nhẹ về chiều
- Ra mồ hôi đêm
- Đau ngực, khó thở
- Ho ra máu
Vi trùng lao có thể gây bệnh ở bất kỳ bộ phận nào của cơ thể: lao phổi, lao xương, lao da, lao thận, lao màng não, lao hạch, v.v. Lao phổi là thường gặp nhất, lao ngoài phổi ít gặp hơn. Chỉ có lao phổi mới lây.
Tiếng động lụp bụp nghe được là tiếng cọ màng phổi khi dịch màng phổi bắt đầu rút đi. Khi dịch màng phổi rút đi sẽ tạo ra một lớp cặn
Không kiêng cữ thức ăn gì cả trừ những thức ăn bệnh nhân bị dị ứng làm bệnh nhân ngứa mề đay mỗi khi ăn thức ăn đó. Bệnh nhân
Bạn bị lao màng phổi gây tràn dịch màng phổi và điều trị theo phác đồ 6 tháng là kết thúc. Khi bạn kết thúc phác đồ đó thì được đánh giá là hoàn thành điều trị và bạn đã khỏi bệnh lao màng phổi. Khi bạn bị lao màng phổi gây tràn dịch màng phổi thì sau thời gian
Nếu đau nhẹ và ngay vị trí dẫn lưu thì không đáng ngại do vết thương dẫn lưu làm bạn bị đau.
Bạn nên tái khám theo hướng dẫn của Bs để kiểm tra kỹ về sự hồi phục của phổi.
1. Lao phổi tái phát
2. Di chứng lao phổi cũ
3. Ho ra máu do nguyên nhân khác, không do bệnh lao phổi.
Đối với khả năng thứ 1: Người nhà em cần đến trung tâm hay bệnh viện chuyên khoa về lao để được tầm soát bệnh lao tái phát và điều trị theo phác đồ lao phổi tái phát.
Đối với khả năng thứ 2: Lao phổi sau điều trị khi lành sẽ để lại những vết xơ sẹo trên phổi hay làm giãn phế quản, khi bị nhiễm trùng có thể xuất huyết làm bệnh nhân ho ra máu. Do đó, bệnh nhân cần được điều trị nhiễm trùng với kháng sinh như viêm phổi thông thường. Sau điều trị hết đợt nhiễm trùng, bệnh nhân cần điều chỉnh chế độ ăn uống nghỉ ngơi thích hợp để phòng ngừa bội nhiễm. Đối với những bệnh nhân ho ra máu nặng , kéo dài gây ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống của bệnh nhân có thể hội chẩn với bác sĩ khoa Ngoại để xem xét chỉ định cắt phân thùy phổi bị di chứng.
Đối với khả năng thứ 3: Có rất nhiều nguyên nhân ho ra máu không do lao như ung thư phổi, nấm phổi, ký sinh trùng ở phổi,... Bệnh nhân cần đến bệnh viện chuyên khoa hô hấp để được tầm soát và điều trị sớm
Di chứng ở phổi thì không gây nguy hiểm gì cho người xung quanh vì đã tiêu diệt hết vi trùng. Nhưng bản thân người từng bị lao có mốt số biến chứng từ sẹo cũ đó như: dãn phế quản, bệnh phổi tắc nghẽn, bệnh phổi hạn chế, tái phát lao...Và nếu sẹo nhỏ không đáng kể thì không để lại các biến chứng trên.
Điều trị lao theo phác đồ của chương trình chống lao quốc gia từ 6 – 8 tháng thì khỏi. Tuy nhiên nếu chỉ mắc bệnh lao thì điều trị tương đối dễ dàng hơn. Điều trị lao có bệnh ĐTĐ kèm theo tương đối phức tạp
- Về chế độ thuốc. Thuốc lao hầu hết chuyển hóa qua gan và thận vì vậy khi dùng thuốc lao ít nhiều có ảnh hưởng lên 2 cơ quan này. Có thể có tác dụng phụ như sau
+ Tác dụng phụ nặng : Viêm gan, Viêm trựợt da , suy thận, sốc phản vệ
+ Tác dụng phụ nhẹ: đau bụng , buồn nôn, nôn. Ngứa, nổi mề đây, đau các khớp lớn….
Khi uống thuốc vào có hiện tượng đi tiểu màu đỏ, phân màu đỏ mồ hôi màu đỏ, thậm chí khó nước mắt màu đỏ. Hiện tượng này là bình thường, vì đó là màu của thuốc. Còn tất cả những biểu hiện tác dụng phụ nặng , nhẹ như trên thì bệnh nhân phải đến gặp trực tiếp Bác Sĩ điều trị để Bs có hướng giải quyết
+ Thuốc ĐTĐ cũng chuyển hóa qua gan và thận. Vì vậy khi dùng 2 loại cùng lúc thì có ảnh hưởng tới gan. Vả lại thuốc ĐTĐ dạng uống có tác dụng cạnh tranh với thuốc lao vì vậy ít nhiều làm giảm tác dụng của thuốc lao. Đối với bệnh nhân bị Lao + ĐTĐ chúng ta nên chuyển thuốc uống ĐTĐ qua chích Insulin là an toàn và hiệu quả , giảm tác dụng phụ của thuốc và kiểm soát đường huyết tốt nhất
Với bệnh nhân có 2 bệnh trên kèm theo, để điều lao hiệu quả điều đầu tiên phải kiểm soát được đường huyết trong giới hạn cho phép thì bệnh lao mới khỏi
- Về chế độ dinh dưỡng . Khi mắc 2 bệnh cùng lúc thì chế độ dinh dưỡng cũng khác nhau.
o Bệnh lao thì đòi hỏi bệnh nhân phải ăn uống thật tốt không kiêng khem. Còn bệnh ĐTĐ thì phải có chế độ kiêng khem . Vấn đền này đã khó khăn rồi
o Bệnh lao cần cung cấp đường thì lại phải kiêng đường …
Tóm lại phối hợp điều trị Lao – ĐTĐ phải phối hợp đồng bộ 3 chuyên khoa sâu. Lao bệnh phổi. Nội tiết. Nội tim mạch
Khi bệnh nhân lao phổi nói, nhất là khi ho hoặc hắt hơi, họ sẽ bắn ra chung quanh muôn ngàn những hạt đàm nhỏ, trong các hạt đều có chứa một số vi trùng lao: đó là các hạt nhỏ gây nhiễm. Số lượng các hạt nhỏ bắn ra chung quanh bệnh nhân rất lớn khi bệnh nhân ho [3.500] hoặc hắt hơi [1.000.000]. Khi tiếp xúc với không khí, bề mặt những hạt nhỏ này sẽ khô dần đi và trở thành những hạt rất nhẹ luôn chứa vi trùng lao còn sống lơ lửng trong không khí một thời gian. Ở nơi tù hãm, những hạt này còn lơ lửng trong không khí lâu hơn nữa và các vi trùng có thể sống nhiều giờ trong bóng tối.
Ánh sáng trực tiếp của mặt trời tiêu hủy vi trùng lao nhanh chóng. Do đó làm thông thoáng và phơi sáng nơi bệnh nhân lao sống có thể làm giảm nguy cơ lây nhiễm cho những người sống tiếp xúc với họ.
Như vậy những người sống gần hay ngủ gần bệnh nhân sẽ có nguy cơ hít phải những hạt nhỏ gây nhiễm. Nguy cơ lây nhiễm càng cao khi sự tiếp xúc càng mật thiết vì liên quan đến mật độ vi trùng trong không khí. Như vậy hai yếu tố chủ yếu xác định nguy cơ lây truyền vi trùng lao cho người lành là: nồng độ những hạt nhỏ gây nhiễm lơ lửng trong không khí, và thời gian mà người đó hít thở không khí này. Ta dễ dàng hiểu rằng một tỷ lệ lớn trẻ em sống gần nguồn lây sẽ bị nhiễm lao. Con nhỏ của một bà mẹ đang ho ra vi trùng có nguy cơ bị lây nhiều nhất.
Bệnh nhân có vi trùng dương tính qua soi trực tiếp [nhìn thấy được bằng kính hiển vi] thì lây nhiều hơn vì họ khạc ra nhiều vi trùng hơn so với những người có vi trùng chỉ phát hiện bằng nuôi cấy.