Khởi nghĩa Bà Triệu nổ ra ở đâu

Bà Triệu tên là Triệu Thị Trinh, sinh năm Bính Ngọ [226] tại miền núi Quân Yên [hay Quan Yên], quận Cửu Chân, nay thuộc làng Quan Yên [hay còn gọi là Yên Thôn], xã Định Tiến, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa.

Từ nhỏ, bà sớm tỏ ra có chí khí hơn người. Khi cha bà hỏi về chí hướng mai sau, tuy còn ít tuổi, bà đã rằn rỏi thưa: “lớn lên con sẽ đi đánh giặc như bà Trưng Trắc, Trung Nhị”. Triệu Thị Trinh là một phụ nữ xinh đẹp, giỏi võ, có tướng mạo kỳ lạ, người cao lớn, có chí lớn.

Khi nhà Ngô xâm lược đất nước, chế độ áp bức và bóc lột của nhà Ngô trên nước ta hồi bấy giờ vô cùng tàn bạo. Khi được vua Ngô cử sang làm thứ sử nước ta, Chu Phù và bọn tay chân của hắn ngang ngược hoành hành, thẳng tay cướp bóc tài sản của nhân dân Việt Nam. Nhân dân ta bị cưỡng bức phải đi kiếm các thứ như hương thơm, hạt trai, ngọc lưu ly, ngà voi,.. nộp cho vua Ngô. Mùa nào thức ấy, nhân dân ta còn phải nộp các thứ quả lạ như chuối tiêu, dứa, nhãn… để cung đốn cho bọn quan lại nhà Ngô. Chế độ bóc lột này làm cho tài sản người Việt Nam ngày càng kiệt quệ, đời sống ngày càng điêu đứng.

Triệu Thị Trinh và anh trai là Triệu Quốc Đạt vô cùng căm giận bọn quan lại nhà Ngô ngày từ khi còn trẻ tuổi. Bà đã quyết định hy sinh hạnh phúc cá nhân cho sự nghiệp cứu nước. Họ hàng khuyên bà lấy chống, bà khảng khái nói: “Tôi chỉ muốn cười cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá trường kình ở biển Đông, lấy giang sơn, dựng nền độc lập, cởi ách nô lệ, chứ đâu chịu khom lưng làm tì thiếp cho người”.

Với chí lớn ấy, từ năm 19 tuổi, Bà đã cùng anh trai tập hợp nghĩa sĩ trên đỉnh núi Nưa, ngày đêm mài gươm, luyện tập võ nghệ để chuẩn bị khởi nghĩa.

Cuộc khởi nghĩa của bà Triệu và Triệu Quốc Đạt bùng nổ vào năm 248 và được nhân dân trong quận Cửu Chân hưởng ứng nhiệt liệt và nhanh chóng lan tỏa ra quận Giao Chỉ. Bà làm hịch truyền đi khắp nơi, kể tội nhà Ngô và kêu gọi mọi người đứng dậy đánh đuổi quân Ngô. Từ núi rừng Ngàn Nưa, nghĩa quân Bà Triệu tấn công thành Tư Phố và đã mau chóng giành thắng lợi trọn vẹn. Bà Triệu cùng nghĩa quân vượt sông Mã xuống vùng Bồ Điền để xây dựng căn cứ địa.

Triệu Thị Trinh chỉ huy chiến đấu vô cùng gan dạ. Mỗi khi ra trận, Bà thường cưỡi voi, đi guốc ngà, mặc áo giáp vàng, chit khăn vàng. Câu ca dao: “Có coi lên núi mà coi,Coi bà quản tượng cưỡi voi bành vàng” đã vẽ lên hình ảnh oai hùng của nữ anh hùng Triệu Thị Trinh khi bà ra trận. Bà đã đánh cho quân Ngô nhiều trận thất điên bát đảo.

Khi Triệu Qốc Đạt tử trận, Triệu Thị Trinh lãnh đạo toàn bộ quân khởi nghĩa chiến đấu chống quân Ngô. Bà Triệu tư xưng là Nhụy Kiều tướng quân [Vị tướng yêu kiều như nhụy hoa]. Nghĩa quân chiếu đấu liên tiếp nhiều trận, thế lực ngày càng mạnh, quân số có tới hàng vạn người. Nghĩa quân của Bà đánh thắng quân Ngô nhiều trận, giết chế viên thứ sử Châu Giao.

Cuộc khởi nghĩa đã giành được nhiều thắng lợi, làm “chấn động Giao Châu”, là nỗi khiếp sợ của giặc, uy danh của Bà Triệu và nghĩa quân đã khiến giặc Ngô phải thốt lên rằng: “Vung tay đánh cọp xem còn dễ, đối diện Bà Vương mới khó sao”.

Trước sự lớn mạnh của nghĩa quân, triều Đông Ngô đã phải cử viên tướng Lục Dận – người có nhiều kinh nghiệm chiến trường, giữ chức Thứ Sử Giao Châu chỉ huy một đạo quân hùng mạnh gồm 8.000 quân sĩ, có cả chiến thuyền yểm trợ tiến vào nước ta để đối phó với khởi nghĩa Bà Triệu.

Sau nhiều tháng vây hãm căn cứ chỉ huy cuộc khởi nghĩa tại núi Tùng ở thôn Bồ Điền [nay thuộc làng Phú Điền, xã Triệu Lộc huyện Hậu Lộc] với hàng chục trận đánh đã diễn ra, nhưng giặc Ngô vẫn không đánh bại được nghĩa quân. Cuối cùng quân Ngô đã dùng mưu kế thâm hiểm để đối phó nghĩa quân, để giữ khí tiết anh hùng, Bà Triệu đã tuẫn tiết hy sinh trên đỉnh núi Tùng. Sau khi mất, tương truyền Bà đã hiển thánh để phù dân, giúp nước.

Mặc dù cuộc khởi nghĩa do nữ anh hùng dân tộc Triệu Thị Trinh làm chủ tướng lãnh đạo không thành công nhưng đây là mốc son – đỉnh cao khẳng định sự nổi dậy mạnh mẽ của nhân dân ta ở thế kỷ thứ II – III, hàm chứa đầy ý chí quật cường của dân tộc ta với quyết tâm đánh đuổi kẻ thù xâm lược.

Cuộc khởi nghĩa do Bà Triệu lãnh đạo đã góp lửa hồng qua nhiều thế kỷ, tạo ra chiến công rực sáng tại các chiến thắng lịch sử của Ngô Quyền năm 938 trước quân Nam Hán giành lại chủ quyền độc lập hoàn toàn cho dân tộc. Trước công đức to lớn của Bà Triệu đối với đất nước, nhân dân ta đã lập đền thờ dưới chân núi Gai, xây lặng mộ trên đỉnh núi Tùng để chăm lo thờ phụng, nhân dân làng Phú Điền tôn Bà là Thần Hoàng Làng, thờ tại ngôi đình cổ của làng.

Bà Triệu là người phụ nữ đầu tiên trong lịch sử dân tộc được chính quyền nhà nước phong kiến phong tặng. Hình ảnh người nữ tướng anh hùng Triệu Thị Trinh khi ra trận mặc giáp vàng, đi guốc ngà, cài trâm vàng, cưỡi voi trắng ra trận và câu nói: “Tôi muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp bằng song giữ, chém cá Kình ở biển Đông, làm cho trời yên biển lặng, cứu vớt dân lành, chứ đâu giống như người đời cúi đầu khom lưng làm tì thiếp cho người ta” đã trở thành biểu tượng cho lòng yêu nước nồng nàn, ý chí quật cường, quyết tâm đánh đuổi kẻ thù xâm lược của nhân dân ta.

Nữ tướng Triệu Thị Trinh đã đi vào tâm thức dân gian như một nhân vật huyền thoại với lòng tôn thờ và ngưỡng mộ.

Hỏi nhanh

Bà Triệu hi sinh ở đâu?

Bà Triệu hy sinh ở núi Tùng [xã Triệu Lộc, huyện Hậu Lộc, Thanh Hóa] vào năm Mậu Thìn [248], lúc mới 23 tuổi.

Bà Triệu chống quân xâm lược nào?

Bà Triệu chống quân xâm lược Đông Ngô

Khởi nghĩa Bà Triệu nổ ra ở đâu?

Khởi nghĩa Bà Triệu nổ ra ở Thanh Hóa, cụ thể là từ căn cứ Phú Điền [Hậu Lộc – Thanh Hóa], Bà Triệu lãnh đạo nghĩa quân đánh phá các thành ấp của bọn quan lại nhà Ngô ở quận cửu Chân, rồi từ đó đánh ra khắp Giao Châu.

Bà Triệu Thị Trinh sinh vào thế kỉ nào?

Bà Triệu sinh ra vào thế kỷ thứ 3 Sau Công nguyên.

Bà Trưng, Bà Triệu liên quan gì đến nhau?

Hai Bà Trưng và Bà Triệu không liên quan gì đến nhau, tuy nhiên đều là các nữ anh hùng lẫm liệt chống giặc ngoại xâm của Việt Nam.

Khởi nghĩa Bà Triệu nổ ra năm 248 ở Thanh Hóa, chống ách đô hộ của nhà Ngô là đỉnh cao của phong trào chống xâm lược của nhân dân ta thế kỷ II-III. Khởi nghĩa nổ ra trong lúc bọn đô hộ có lực lượng hùng mạnh đã củng cố được ách thống trị trên đất nước ta và đang đẩy mạnh dã tâm đồng hoá dân tộc ta.

Bà Triệu tên là Triệu Thị Trinh, em ruột của Triệu Quốc Đạt, một thủ lĩnh có thế lực ở Quân An, quận Cửu Chân [huyện Triệu Sơn - Thanh Hóa]. Năm 19 tuổi, bà cùng anh tập hợp nghĩa sĩ lên đỉnh núi Nưa, mài gươm, luyện võ phất cờ khởi nghĩa. Nhân dân hai quận Giao Chỉ, Cửu Chân đã nổi dậy hưởng ứng cuộc khởi nghĩa của Bà Triệu, đánh thắng quân Ngô nhiều trận. Nhà Ngô lo sợ phải đưa thêm 8000 quân sang nước ta đàn áp phong trào khởi nghĩa.

Bà Triệu Thị Trinh đã hy sinh trên núi Tùng [Phú Điền, Hậu Lộc, Thanh Hóa].

[Theo quehuong.org.vn]

Khởi nghĩa Bà Triệu chống lại quân đô hộ nào?

Bà Triệu có tên thật là gì?

Lệ Hải Bà Vương là danh xưng của ai?

Cuộc khởi nghĩa Bà Triệu diễn ra khi nào?

Đâu là ý nghĩa của khởi nghĩa Bà Triệu?

Bà Triệu đã cùng anh trai tập hợp nghĩa quân khi bao nhiêu tuổi?

Nhà Ngô cử ai sang đàn áp khởi nghĩa Bà Triệu?

Anh trai của Bà Triệu tên thật là gì?

Cùng với việc đặt nhiều thứ thuế, nhà Ngô còn làm gì?

Đầu thế kỉ VI, triều đại phong kiến phương Bắc nào đô hộ vùng Giao Châu?

Bà Triệu
[趙氏貞]

SinhMấtNguyên nhân mấtNơi an nghỉĐài tưởng niệmTên khácDân tộcNgười thânDanh hiệu

Tranh Đông Hồ "Bà Triệu cưỡi voi"

8 tháng 11 năm 226
Yên Định, Cửu Chân, Giao Chỉ
4 tháng 4 năm 248
Hậu Lộc, Cửu Chân, Giao Chỉ
Tự vẫn
núi Tùng [xã Triệu Lộc, huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hoá ngày nay]
Đền Bà Triệu, Hậu Lộc, Thanh Hóa
Triệu Trinh Nương
Triệu Thị Trinh
Triệu Quốc Trinh
Việt
Triệu Quốc Đạt
Triệu Ẩu, Nhuỵ Kiều Tướng Quân, Lệ Hải Bà Vương
Loạt bài
Lịch sử Việt Nam

Thời tiền sử

Hồng Bàng

An Dương Vương

Bắc thuộc lần I [207 TCN – 40]
   Nhà Triệu [207 – 111 TCN]
Hai Bà Trưng [40 – 43]
Bắc thuộc lần II [43 – 541]
   Khởi nghĩa Bà Triệu
Nhà Tiền LýTriệu Việt Vương [541 – 602]
Bắc thuộc lần III [602 – 905]
   Mai Hắc Đế
   Phùng Hưng
Tự chủ [905 – 938]
   Họ Khúc
   Dương Đình Nghệ
   Kiều Công Tiễn
Nhà Ngô [938 – 967]
   Loạn 12 sứ quân
Nhà Đinh [968 – 980]
Nhà Tiền Lê [980 – 1009]
Nhà Lý [1009 – 1225]
Nhà Trần [1225 – 1400]
Nhà Hồ [1400 – 1407]
Bắc thuộc lần IV [1407 – 1427]
   Nhà Hậu Trần
   Khởi nghĩa Lam Sơn
Nhà Hậu Lê
   Nhà Lê sơ [1428 – 1527]
   Lê
   trung
   hưng
[1533 – 1789]
Nhà Mạc [1527 – 1592]
Trịnh–Nguyễn
phân tranh
Nhà Tây Sơn [1778 – 1802]
Nhà Nguyễn [1802 – 1945]
   Pháp thuộc [1887 – 1945]
   Đế quốc Việt Nam [1945]
Chiến tranh Đông Dương [1945 – 1975]
   Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
   Quốc gia Việt Nam
   Việt Nam Cộng hòa
   Cộng hòa Miền Nam Việt Nam
Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam [từ 1976]

Xem thêm

  • Vua Việt Nam
  • Nguyên thủ Việt Nam
  • Các vương quốc cổ
  • Niên biểu lịch sử Việt Nam
sửa

Đối với các định nghĩa khác, xem Bà Triệu [định hướng].

Bà Triệu [chữ Hán: 趙婆], còn được gọi là Triệu Ẩu [趙嫗, "bà Triệu"], Triệu Trinh Nương [趙貞娘], Triệu Thị Trinh [趙氏貞], Triệu Quốc Trinh [8 tháng 11 năm 226 – 4 tháng 4 năm 248], là một trong những vị anh hùng dân tộc trong lịch sử Việt Nam.

Năm 226, Sĩ Nhiếp mất, vua Đông Ngô là Tôn Quyền bèn chia đất từ Hợp Phố về bắc thuộc Quảng Châu dùng Lã Đại làm thứ sử; từ Hợp Phố về nam là Giao Châu, sai Đới Lương làm thái thú; và sai Trần Thì làm thái thú quận Giao Chỉ. Lúc bấy giờ, con của Sĩ Nhiếp là Sĩ Huy tự nối ngôi và xưng là thái thú, liền đem binh chống lại.

 

Bản đồ Tam quốc năm 262, Đông Ngô kiểm soát Giao Châu.

Thứ sử Lã Đại bèn xua quân sang đánh. Do nghe lời chiêu dụ, Sỹ Huy cùng năm anh em ra hàng. Lã Đại đem chém tất cả rồi đem đầu gửi về Vũ Xương. Dư đảng của Sỹ Huy tiếp tục chống lại, khiến Lã Đại mang quân vào Cửu Chân giết hại một lúc hàng vạn người.

 

Tượng Bà Triệu tại đền thờ trên núi Nưa thuộc thị trấn Nưa huyện Triệu Sơn tỉnh Thanh Hóa.

Bà Triệu sinh ngày 2 tháng 10 năm Bính Ngọ [8 tháng 11 năm 226][1] tại miền núi Quan Yên [hay Quân Yên], quận Cửu Chân, nay thuộc làng Quan Yên [hay còn gọi là Yên Thôn], xã Định Tiến, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa.

Từ nhỏ, bà sớm tỏ ra có chí khí hơn người. Khi cha bà hỏi về chí hướng mai sau, tuy còn ít tuổi, bà đã rắn rỏi thưa: “Lớn lên con sẽ đi đánh giặc như bà Trưng Trắc, Trưng Nhị”. Cha mẹ đều mất sớm, Bà Triệu đến ở với anh là Triệu Quốc Đạt, một hào trưởng[2] ở Quan Yên.

Lớn lên, bà là người có sức mạnh, giỏi võ nghệ, lại có chí lớn. Đến năm 19 tuổi gặp phải người chị dâu [vợ ông Đạt] ác nghiệt,[3] bà giết chị dâu rồi vào ở trong núi Nưa [nay thuộc các thị trấn Nưa huyện Triệu Sơn, xã Mậu Lâm huyện Như Thanh, xã Trung Thành huyện Nông Cống, Thanh Hóa], chiêu mộ được hơn ngàn tráng sĩ.

Mùa xuân năm Mậu Thìn [248], thấy quan lại nhà Đông Ngô [Trung Quốc] tàn ác, dân khổ sở, Bà Triệu bèn bàn với anh việc khởi binh chống lại. Lúc đầu, anh bà không tán thành nhưng sau chịu nghe theo ý kiến của em.

Từ hai căn cứ núi vùng Nưa và Yên Định, hai anh em bà dẫn quân đánh chiếm huyện trị Tư Phố[4] nằm ở vị trí hữu ngạn sông Mã. Đây là căn cứ quân sự lớn của quan quân nhà Đông Ngô trên đất Cửu Chân. Thừa thắng, lực lượng nghĩa quân chuyển hướng xuống hoạt động ở vùng đồng bằng con sông này.

Đang lúc ấy, Triệu Quốc Đạt lâm bệnh qua đời.[5] Các nghĩa binh thấy bà làm tướng có can đảm, bèn tôn lên làm chủ. Bà đã phối hợp với ba anh em họ Lý ở Bồ Điền đánh chiếm các vùng đất còn lại ở phía Bắc Thanh Hóa ngày nay, đồng thời xây dựng tuyến phòng thủ từ vùng căn cứ Bồ Điền đến cửa biển Thần Phù [Nga Sơn, Thanh Hoá] để ngăn chặn viện binh của giặc Ngô theo đường biển tấn công từ phía Bắc. Khi ra trận, Bà Triệu mặc áo giáp vàng, đi guốc ngà, cài trâm vàng, cưỡi voi trắng một ngà[6] và được tôn là Nhụy Kiều tướng quân. Quân Bà đi đến đâu cũng được dân chúng hưởng ứng, khiến quân thù khiếp sợ. Phụ nữ quanh vùng thúc giục chồng con ra quân theo Bà Triệu đánh giặc. Để chia rẽ nghĩa quân, giặc đã xảo quyệt phong cho Bà Triệu đến chức Lệ Hải Bà Vương [nữ vương xinh đẹp của vùng ven biển], song Bà không một chút xao động. Để mua chuộc Bà Triệu, giặc bí mật sai tay chân thân tín tới gặp và hứa sẽ cung cấp cho Bà thật nhiều tiền bạc, song, Bà cũng chẳng chút tơ hào. Sau nhiều trận trực tiếp đối địch và cũng là hơn nhiều trận liên tiếp chịu nhiều thất bại đau đớn, hễ nghe tới việc phải đi đàn áp Bà Triệu là binh lính giặc lại lo lắng đến kinh hồn bạt vía. Tương truyền, quân Ngô khiếp uy dũng của Bà Triệu nên phải thốt lên rằng:

Hoành qua đương hổ dị, Đối diện Bà vương nan.

Dịch:

Múa giáo đánh cọp dễ, Đối mặt Vua Bà thì thực khó.

Được tin cuộc khởi nghĩa lan nhanh,[7] vua Ngô là Tôn Quyền liền phái tướng Lục Dận [cháu của Lục Tốn], sang làm Thứ sử Giao Châu, An Nam hiệu úy, đem theo 8.000 quân sang đàn áp cuộc khởi nghĩa. Đến nơi, tướng Lục Dận liền dùng của cải mua chuộc một số lãnh tụ địa phương để làm suy yếu và chia rẽ lực lượng nghĩa quân.

Những trận đánh ác liệt đã diễn ra tại căn cứ Bồ Điền.[8] Song do chênh lệch về lực lượng và không có sự hỗ trợ của các phong trào đấu tranh khác nên căn cứ Bồ Điền bị bao vây cô lập, và chỉ đứng vững được trong hơn hai tháng.

 

Đền Bà Triệu tại xã Triệu Lộc, huyện Hậu Lộc, Thanh Hóa.

Theo Trần Trọng Kim trong Việt Nam sử lược, bà chống đỡ với quân Đông Ngô được năm, sáu tháng thì thua. Bà Triệu đã tuẫn tiết trên núi Tùng [xã Triệu Lộc, huyện Hậu Lộc, Thanh Hóa] vào năm Mậu Thìn [248], lúc mới 23 tuổi.[9]

Theo truyền thuyết, sau khi tìm thấy thi thể nữ chủ tướng, ba anh em họ Lý đã đắp mộ chu toàn cho Bà ngay trên đỉnh núi. Không bao lâu sau đó, ba ông cũng đã tuẫn tiết dưới chân núi Tùng để giữ trọn lời thề với nữ chủ tướng của mình.[10]

Nước Việt lại bị nhà Đông Ngô đô hộ cho đến 263[11], khi Lã Hưng giết thứ sử Tôn Tư và dâng các châu cho Tào Ngụy, sau này là nhà Tấn.

Năm 19 tuổi, đáp lời người hỏi bà về việc chồng con, Bà Triệu nói:

Tôi chỉ muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá trường kình ở biển Đông, lấy lại giang sơn, dựng nền độc lập, cởi ách nô lệ, chứ không chịu khom lưng làm tì thiếp cho người![12]

Về sau vua Lý Nam Đế [tức Lý Bí] khen Bà Triệu là người trung dũng, sai lập miếu thờ, phong là: "Bậc chính anh liệt hùng tài trinh nhất phu nhân".

Sử gia Lê Tung ở thế kỷ 16 viết:

Triệu Ẩu [tức Bà Triệu] là người con gái ở quận Cửu Chân, họp quân trong núi, đánh phá thành ấp, các bộ đều theo như bóng theo hình, dễ hơn trở bàn tay. Tuy chưa chiếm giữ được đất Lĩnh Biểu như việc cũ của Trưng Vương, nhưng cũng là bậc hùng tài trong nữ giới.[13]

Vua Tự Đức ở thế kỷ 19 cũng viết:

Con gái nước ta có nhiều người hùng dũng lạ thường. Bà Triệu Ẩu thật xứng đáng là người sánh vai được với Hai Bà Trưng. Xem thế thì há có phải chỉ Trung Quốc mới có đàn bà danh tiếng như chuyện Thành Phu Nhân và Nương Tử Quân mà Bắc sử đã chép đâu.[14]

Hiện nay, nơi núi Tùng [xã Triệu Lộc] vẫn còn di tích lăng mộ của bà. Cách nơi bà mất không xa, trên núi Gai ngay sát quốc lộ 1A [đoạn đi qua thôn Phú Điền, xã Triệu Lộc, cách thành phố Thanh Hóa 18 km về phía Bắc] là đền thờ bà. Hằng năm, vào ngày 21 tháng 2 [âm lịch], người dân trong vùng vẫn tổ chức làm lễ giỗ bà.

 

Đền Bà Triệu ở dưới chân núi Gai tại xã Triệu Lộc, huyện Hậu Lộc, Thanh Hóa

Tên của bà được đặt cho một số địa danh tại tỉnh Thanh Hóa như huyện Triệu Sơn [từ năm 1964[15]] và xã Triệu Lộc [thuộc huyện Hậu Lộc, từ năm 1954].

Tại nhiều tỉnh thành ở Việt Nam, tên bà cũng đã được dùng để đặt tên cho nhiều trường học và đường phố; riêng tại Hà Nội, có một con đường mang tên phố Bà Triệu.

Tháng 5 năm 2020, Firaxis Games xác nhận Bà Triệu sẽ là người lãnh đạo nền văn minh Việt Nam trong bản mở rộng New Frontier Pass của game Civilization VI.

Trong Đại Nam quốc sử diễn ca có đoạn “Bà Triệu Ẩu đánh Ngô”, khái quát rất sinh động:

Binh qua trải bấy nhiêu ngày, Mới sai Lục Dận sang thay phiên thần. Anh hùng chán mặt phong trần, Nữ nhi lại cũng có lần cung đao. Cửu Chân có ả Triệu Kiều, Vú dài ba thước tài cao muôn người. Gặp cơn thảo muội cơ trời, Đem thân bồ liễu theo loài bồng tang. Đầu voi phất ngọn cờ vàng, Sơn thôn mấy cõi chiến trường xông pha. Chông gai một cuộc quan hà, Dù khi chiến tử còn là hiển linh.

Tương truyền quân Ngô khiếp uy dũng của Bà Triệu nên có câu:

Hoành qua đương hổ dị, Đối diện Bà vương nan. Dịch: Múa giáo đánh cọp dễ, Đối mặt Vua Bà thì thực khó.

Trong dân gian hiện cũng còn truyền tụng nhiều câu thơ ca và câu đối liên quan đến bà như sau:

  • Ru con con ngủ cho lành,
Để mẹ gánh nước rửa bành ông voi. Muốn coi, lên núi mà coi, Có bà Triệu tướng cưỡi voi, đánh cồng. Túi gấm cho lẫn túi hồng Têm trầu cánh kiếm cho chồng ra quân.
  • Tùng Sơn nắng quyện mây trời,
Dấu chân Bà Triệu rạng ngời sử xanh.
  • Cửu Chân trăm trận gan hơn sắt,
Lục Dận nhiều phen mắt đã vàng.
  • Trông bành voi, Ngô cũng lắc đầu, sợ uy Lệ Hải Bà Vương, những muốn bon chân về Bắc quốc;
Ngồi yên ngựa, khách đi hoài cổ, tưởng sự Lạc Hồng nữ tướng, có chăng thẹn mặt đấng nam nhi." [Khuyết danh]
  • Một đầu voi chống chọi với quân thù, sau Trưng nữ rạng danh bà Lệ Hải;
Ba thước vú tử sinh cùng đất nước, cho Ngô hoàng biết mặt gái Giao Châu. Chí sĩ Dương Bá Trạc

Ngoài ra, trong Hồng Đức quốc âm thi tập và trong các tập thơ của các danh sĩ như Nguyễn Đôn Phục, Nguyễn Đôn Dự... đều có thơ khen ngợi Bà Triệu.

Lâu nay sử sách đều biên chép cuộc khởi nghĩa Bà Triệu thất bại, và bà đã tự vẫn năm 248. Tuy nhiên, GS Lê Mạnh Thát đã dẫn Thiên Nam ngữ lục và Ngụy chí để kết luận rằng Bà Triệu đã không thua bởi tay Lục Dận, trái lại đã đánh bại viên tướng này. Lục Dận chỉ chiếm được vùng đất nay thuộc Quảng Tây và Bà Triệu đã giữ được độc lập cho đất nước đến khi Đặng Tuân được Tôn Hựu sai sang đánh Giao Chỉ vào năm 257[16]. Tuy nhiên, ý kiến mới mẻ này còn phải được sự đồng thuận của nhiều người trong giới.

Tên gọi

Những bộ sử cổ chỉ gọi bà là Triệu nữ [cô gái Triệu], Triệu Ẩu. Những tên gọi Triệu Trinh Nương, Triệu Thị Trinh, Triệu Quốc Trinh... theo Văn Lang thì rõ ràng là mới đặt gần đây. Tác giả cho biết vấn đề tên gọi này [cũng như tên gọi của Bà Trưng] thuộc phạm trù ngôn ngữ Việt cổ và cách đặt tên người ở thời gian đầu Công nguyên, còn đang được nghiên cứu [tr. 33].

Ngoài ra, Bà Triệu còn được người đời tôn là Nhụy Kiều tướng quân [vị tướng yêu kiều] và Lệ Hải bà vương [vua bà ở vùng biển mỹ lệ][17].

Riêng cái tên Triệu Ẩu [趙嫗], thấy xuất hiện lần đầu trong Nam Việt chí, Giao Châu ký [thế kỷ 4, 5] rồi đến Thái bình hoàn vũ [thế kỷ 10] dưới mục Quân Ninh [tức Quân Yên cũ][18].

Trước đây, Hồng Đức quốc âm thi tập, Đại Việt sử ký toàn thư, Thanh Hóa kỉ thắng, Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục... đều gọi bà là Triệu Ẩu. Sau, sử gia Trần Trọng Kim khi cho tái bản Việt Nam sử lược đã không giải thích mà chỉ ghi chú rằng: Bà Triệu, các kỳ xuất bản trước để là Triệu Ẩu. Nay xét ra nên để là Triệu Thị Chinh [tr. 52].

Kể từ đó có nhiều lý giải khác nhau, như:

  • Sử gia Phạm Văn Sơn: Vì người Tàu căm giận nên đặt tên là Triệu Ẩu [Ẩu có nghĩa là mụ] để tỏ ý khinh mạn [tr. 205].
  • Nhóm tác giả sách Lịch sử Việt Nam [trước thế kỷ 10, quyển 1, tập 1]: Sách sử Trung Quốc gọi bà là Triệu Ẩu với nghĩa xấu [người vú em] [tr. 109].
  • Một số người lại giải thích "ẩu" nghĩa là con mụ họ Triệu, là bà già, hoặc là "nữ tù trưởng Triệu".

Hình tượng vú dài

Sách Giao Chỉ chí chép:

Trong núi ở quận Cửu Chân có người con gái họ Triệu, vú dài ba thước, không lấy chồng, họp đảng cướp bóc các quận, huyện, thường mặc áo ngắn màu vàng, chân đi giày mũi cong, ngồi đầu voi mà chiến đấu, sau chết làm thần.[19]

Sách Những trang sử vẻ vang giải thích: Phụ nữ khổng lồ, vú dài… là huyền thoại về bà Mẹ-Đất [terre-Mère, Déesse-Mère]. Sau hình tượng đó được khoác cho bất kỳ một phụ nữ hiệt kiệt nào [tr. 129]. Các tác giả sách Lịch sử Việt Nam [tập I] cũng đều cho rằng huyền thoại về một người phụ nữ có "vú dài ba thước" vốn rất phổ biến ở phương Nam, từ Hợp Phố đến Cửu Chân. Như truyện "Tẩy thị phu nhân", "Tiểu quốc phu nhân" đều nói họ là những phụ nữ cao to và có vú dài đôi ba thước... Có thể, vì bà Triệu cũng là một người phụ nữ kiệt xuất, nên dân gian đã dùng hình tượng này khoác lên cho bà [tr. 345].

  1. ^ “Cổng Thông tin Điện Tử Tỉnh Hậu Giang Trang chủ”. Truy cập 5 tháng 10 năm 2015.
  2. ^ Truyền thuyết và thần tích cho rằng Triệu Quốc Đạt làm huyện lệnh. [Lịch sử Việt Nam, Tập I, tr. 345].
  3. ^ Ghi theo Việt Nam sử lược [tr. 52]. Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam [tr. 905] và Lịch sử Việt Nam [trước thế kỷ 10, tr. 108] đều chép rằng: Biết sự chuẩn bị khởi nghĩa của Bà Triệu, người chị dâu toan đi tố cáo với quân Ngô nên bị bà giết chết. Truyền thuyết và thần tích thì cho rằng bà này phạm tội lăng loàn [Lịch sử Việt Nam, trước thế kỷ 10, tr. 108].
  4. ^ Tư Phố nằm ở vị trí hữu ngạn sông Mã, gần nơi hợp lưu của sông Chu vào sông Mã, là đầu mối giao thông quan trọng ngày nay là đất thuộc làng Giàng, Xã Thiệu Dương, huyện Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa.
  5. ^ Chép theo Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam [tr. 905]. Sách Giai thoại về phụ nữ VN [tr 10] và Danh nhân đất Việt [tr. 46] đều ghi ông Đạt tử trận.
  6. ^ Hình ảnh này của Bà Triệu đã được sử phong kiến Trung Quốc là Nam Việt chí và Giao Châu chí ghi lại [Theo Danh nhân đất Việt, tập 1, tr. 47].
  7. ^ Sách Ngô Thư chép: Toàn thể Giao Châu đều chấn động. Dẫn lại theo Danh nhân đất Việt [tập 1], tr. 50.
  8. ^ Những trận đánh ác liệt diễn ra tại căn cứ Bồ Điền đã để lại những dấu tích trong lòng đất nơi đây. Năm 1965, nhân dân đào mương làm thuỷ lợi đã phát hiện nhiều loại binh khí bằng đồng như giáo, mác, mảnh giáp đồng và cả xương người và xương ngựa [1] Lưu trữ 2010-03-01 tại Wayback Machine.
  9. ^ Theo thần tích đền Bà Triệu ở núi Gai [xã Triệu Lộc, huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hoá] thì trước kia dưới chân núi Tùng là một dòng sông Âu [còn gọi là sông Ấu] chảy qua. Để giữ trọn khí tiết, Bà Triệu đã lên đỉnh núi Tùng trầm mình xuống sông Âu tự vẫn.
  10. ^ “Về thăm Khu di tích đền Bà Triệu”. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 1 năm 2020. Truy cập ngày 13 tháng 9 năm 2020.
  11. ^ Theo
  12. ^ Chép theo Đại cương lịch sử Việt Nam [Tập 1, tr. 89]. Câu nói này thấy chép đầu tiên trong sách Thanh Hoá kỷ thắng của Vương Duy Trinh, sống vào thế kỷ 19, từng làm tổng đốc Thanh Hoá. Có bản chép khác một vài chữ. Thí dụ như trong sách Việt Nam sử lược: "Tôi muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá kình ở biển khơi, đánh đuổi quân Ngô giành lại giang sơn, cởi ách nô lệ, đâu chịu khom lưng làm tì thiếp cho người!" [tr. 50].
  13. ^ Đại Việt sử ký toàn thư [tập 1], tr. 101.
  14. ^ Khâm định Việt sử Thông giám cương mục [Tiền biên, quyển 3, tờ 9]. Đoạn sách trên có thêm câu nữa, đó là: Nhưng nếu nói vú dài ba thước thì thật là quái gở và đáng cười lắm.
  15. ^ Quyết định 177-CP ngày 16/12/1964 về việc điều chỉnh địa giới của một số huyện thuộc các tỉnh Lạng-sơn, Yên-bái và Thanh-hoá do Hội đồng Chính phủ ban hành.
  16. ^ Lịch sử Phật giáo Việt Nam [Tập 1, trang 385-386] hoặc xem chi tiết ở Thiền sư Lê Mạnh Thát và những phát hiện lịch sử chấn động Lưu trữ 2011-07-26 tại Wayback Machine.
  17. ^ Lục Dận một mặt dùng tiền của đút lót mua chuộc những kẻ dao động, một mặt dụ dỗ Bà Triệu ra hàng, hứa sẽ phong làm Lệ Hải bà vương [theo Lịch sử Việt Nam [trước thế kỷ 10, quyển 1, tập 1, tr. 109]
  18. ^ Theo 'Lịch sử Việt Nam [Tập 1], tr. 343.
  19. ^ Ngoài ra sử xưa Trung Quốc còn cho rằng, khi quân Ngô lõa thân ra đánh, Bà Triệu sợ chạy lên núi tự tận. Nhóm tác giả sách Lịch sử Việt Nam [trước thế kỷ 10, quyển 1 tập 1] phê: Phong kiến Trung Quốc tìm mọi cách bôi nhọ bà, hòng xóa nhòa ý nghĩa lớn lao của cuộc khởi nghĩa [tr. 109].

  • Khuyết danh, Đại Việt sử lược [Nguyễn Gia Tường dịch. Nguyễn Khắc Thuần hiệu đính]. Nhà xuất bản TP. Hồ Chí Minh, 1993.
  • Ngô Sĩ Liên, Đại Việt sử ký toàn thư [Tập 1]. Nhà xuất bản KHXH, Hà Nội, 1983.
  • Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược. Nhà xuất bản Tân Việt, Sài Gòn, 1968.
  • Phạm Văn Sơn, Việt sử tân biên [Quyển 1]. Nhà xuất bản Khai Trí, Sài Gòn, lần tái bản năm 1968.
  • Phan Huy Lê, Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn, Lương Ninh, Lịch sử VN [tập I]. Nhà xuất bản Đại học & THCN, 1983.
  • Trương Hữu Quýnh-Phan Đại Đoàn-Nguyễn Cảnh Minh, Đại cương lịch sử Việt Nam [tập I]. Nhà xuất bản Giáo dục, 2007.
  • Nhiều người soạn, Lịch sử Việt Nam [trước thế kỷ 10], quyển 1 tập 1. Nhà xuất bản Giáo dục, 1977.
  • Nguyễn Q. Thắng-Nguyễn Bá Thế, Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam. Nhà xuất bản KHXH, Hà Nội, 1992.
  • Văn Lang-Quỳnh Cư-Nguyễn Anh, Danh nhân đất Việt [Tập 1]. Nhà xuất bản Thanh niên, 1995.
  • Hồng Nam-Hồng Lĩnh, Những trang sử vẻ vang của dân tộc Việt Nam chống phong kiến Trung Quốc xâm lược. Nhà xuất bản KHXH, Hà Nội, 1984.
  • Hoàng Khôi-Hoàng Đình Thi, Giai thoại về phụ nữ Việt Nam. Nhà xuất bản Phụ nữ, 1987.
  • ĐỗThị Hảo- Mai Thị Ngọc Chúc, Các nữ thần Việt Nam. Nhà xuất bản Phụ nữ, 1984.
  • Đặng Duy Phúc, Việt Nam anh kiệt. Nhà xuất bản Hà Nội, 2004.
  • Nhiều người soạn, Hỏi đáp lịch sử [Quyển 1]. Nhà xuất bản Trẻ, 2006.
  • Triệu Thị Trinh tại Từ điển bách khoa Việt Nam
  • Triệu Thị Trinh Lưu trữ 2006-10-08 tại Wayback Machine trang Văn hóa Việt Nam - Bưu điện Đà Nẵng.
  • Ngọn cờ vàng, tác giả Đinh Gia Thuyết, đăng tại trang web của Bộ Văn hóa - Thông tin [Việt Nam].
  • Triệu Thi Trinh trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư
  • Triệu Thị Trinh[liên kết hỏng] trang quận 8 Thành phố Hồ Chí Minh

Lấy từ “//vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Bà_Triệu&oldid=68398264”

Video liên quan

Chủ Đề