Giáo viên hạng 3 là gì năm 2024

Những đối tượng giáo viên phải có chứng chỉ chức danh nghề nghiệp hạng III như: giáo viên tiểu học được tuyển dụng sau ngày 20.3.2021; giáo viên tiểu học hạng III mã số V.07.03.08 đã đáp ứng trình độ để được bổ nhiệm vào hạng III mã số V.07.03.29...

4 Thông tư mới do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành đã bỏ yêu cầu về chứng chỉ ngoại ngữ, tin học cho giáo viên.

Riêng yêu cầu về chứng chỉ bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp giáo viên hạng III của các cấp học thì các Thông tư này quy định như sau:

Với giáo viên mầm non hạng III

- Có bằng tốt nghiệp cao đẳng sư phạm giáo dục mầm non trở lên;

- Có chứng chỉ bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp giáo viên mầm non hạng III (đối với giáo viên mầm non mới đưọc tuyển dụng vào giáo viên mầm non hạng III thì phải có chứng chỉ trong thời gian 36 tháng kể từ ngày được tuyển dụng).

Ngoài ra, chứng chỉ bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp giáo viên mầm non hạng III là yêu cầu với giáo viên mầm non trong trường hợp sau đây:

- Giáo viên mầm non được tuyển dụng sau ngày 20.3.2021;

- Giáo viên mầm non hạng III mã số V.07.02.05 được bổ nhiệm vào hạng III mã số V.07.02.26 khi đáp ứng các tiêu chuẩn hạng chức danh nghề nghiệp theo quy định mới tại Thông tư 01/2021.

Với giáo viên tiểu học hạng III

Giáo viên tiểu học hạng III mã số V.07.03.29 phải đáp ứng tiêu chuẩn về trình độ đào tạo, bồi dưỡng nêu tại khoản 3 Điều 4 Thông tư số 02/2021/TT-BGDĐT gồm:

- Có bằng cử nhân trở lên thuộc ngành đào tạo giáo viên đối với giáo viên tiểu học. Nếu chưa có đủ thì có bằng cử nhân chuyên ngành phù hợp và chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm dành cho giáo viên tiểu học.

- Có chứng chỉ bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp giáo viên tiểu học hạng III.

Như vậy, sẽ có 2 đối tượng giáo viên tiểu học dưới đây phải đáp ứng yêu cầu về chứng chỉ bồi dưỡng chức danh giáo viên tiểu học hạng III:

- Giáo viên tiểu học được tuyển dụng sau ngày 20.3.2021;

- Giáo viên tiểu học hạng III mã số V.07.03.08 đã đáp ứng trình độ để được bổ nhiệm vào hạng III mã số V.07.03.29.

Với giáo viên THCS hạng III

Giáo viên trung học cơ sở (THCS) hạng III mã số V.07.04.32 có yêu cầu về trình độ, đào tạo nêu tại Khoản 3 Điều 3 Thông tư 03/2021/TT-BGDĐT như sau:

- Bằng cử nhân trở lên thuộc ngành đào tạo giáo viên đối với giáo viên THCS. Nếu môn học chưa đủ giáo viên thì phải có bằng cử nhân chuyên ngành phù hợp và chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm dành cho giáo viên THCS.

- Chứng chỉ bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp giáo viên THCS hạng III.

Như vậy, chứng chỉ chức danh nghề nghiệp hạng giáo viên THCS hạng III là yêu cầu với giáo viên THCS được tuyển dụng sau ngày 20.3.2021.

Với giáo viên THPT hạng III

Với giáo viên trung học phổ thông (THPT), chứng chỉ này là 01 trong 02 tiêu chuẩn về trình độ đào tạo, bồi dưỡng của giáo viên THPT hạng III mã số V.07.05.15 nêu tại Khoản 3 Điều 3 Thông tư số 04 năm 2021.

Tóm lại, yêu cầu chứng chỉ chức danh nghề nghiệp hạng III là yêu cầu bắt buộc với giáo viên THPT hạng III mới được tuyển dụng còn các giáo viên THPT hiện đang giảng dạy thì không yêu cầu.

Lưu ý, nếu giáo viên mới được tuyển dụng và bổ nhiệm vào hạng III theo quy định mới thì phải có chứng chỉ trong thời gian 36 tháng kể từ ngày được tuyển dụng.

Ngày 14/4/2023, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành Thông tư số 08/2023/TT-BGDĐT sửa đổi, bổ sung một số điều của chùm các Thông tư 01-04 quy định mã số, tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp và bổ nhiệm, xếp lương viên chức giảng dạy trong các cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông công lập. Thông tư có hiệu lực thi hành kể từ ngày 30/5/2023.

Giáo viên hạng 3 là gì năm 2024

Chất lượng giảng dạy không phụ thuộc vào hạng của giáo viên. Ảnh minh họa

Tại thời điểm cuối tháng 6 này, nhiều địa phương trên cả nước đã thực hiện các thủ tục chuyển xếp hạng mới cho giáo viên theo quy định.

Tại trường học hiện nay, phần lớn giáo viên được phân thành 3 thứ hạng. Nhóm giáo viên chức danh hạng III, hạng II và hạng I.

Không ít thầy cô được xếp hạng cao nhờ ăn may?

Cô giáo Mai và cô giáo Hoa (giáo viên tiểu học tại một tỉnh phía Nam) cùng tốt nghiệp trung cấp sư phạm, ra trường cùng về dạy tại một trường tiểu học. Vài năm sau, cô giáo Mai đăng ký học đại học từ xa do Trường Đại học Huế tổ chức.

Cô giáo Hoa học lên cao đẳng do trường cao đẳng của tỉnh về giảng dạy. Ở thời điểm này, giáo viên tiểu học có bằng cao đẳng cũng đã là vượt chuẩn.

Năm 2017, có bằng đại học, đáp ứng điều kiện về tiêu chuẩn trình độ, cô giáo Mai được chuyển sang giáo viên tiểu học hạng II theo Thông tư liên tịch số 21/2015/TTLT-BGDĐT-BNV ngày 16 tháng 9 năm 2015 của Bộ Giáo dục và Đào tạo và Bộ Nội vụ quy định mã số, tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp giáo viên tiểu học công lập. Còn cô giáo Hoa được xếp giáo viên tiểu học hạng III vì mới có bằng cao đẳng.

Cũng trong năm này, cô giáo Hoa tiếp tục học liên thông đại học và lấy bằng vào năm 2018. Tuy nhiên, thời điểm này tỉnh không thực hiện việc chuyển xếp hạng giáo viên như trước.

Đến nay, thực hiện việc chuyển xếp hạng giáo viên theo chùm các Thông tư 01-04 và Thông tư 08/2023. Cô giáo Mai được bổ nhiệm giáo viên tiểu học hạng II và được hưởng hệ số lương 4.0, còn cô giáo Hoa được bổ nhiệm sang giáo viên tiểu học hạng III với hệ số lương 3.36.

Giữa hai cô giáo hiện nay, không chỉ khác nhau về thứ hạng (người là giáo viên tiểu học hạng II, người lại là giáo viên tiểu học hạng III) mà hai mức lương cũng chênh lệch nhau khá nhiều.

Cô Hoa nói: “Không đi học đại học sớm hơn mà chỉ học cao đẳng là sai lầm của bản thân. Lấy bằng tốt nghiệp sai thời điểm lại là cái xui của mình nên bây giờ phải chịu mức lương thấp”.

Khác với cô Hoa và cô Mai, thầy giáo Mạnh và thầy giáo Tuấn đều có bằng đại học cùng năm. Tuy nhiên, hai thầy giáo đăng ký học liên thông hai trường đại học khác nhau nên thời gian nhận bằng cũng cách nhau một tháng.

Thầy giáo Mạnh nhận bằng trước nên nộp vào và được chuyển xếp hạng II. Thầy giáo Tuấn nhận bằng chỉ sau một tháng nhưng không được xếp chuyển vì đã qua đợt xét tuyển của tỉnh.

6 năm nay, thầy Tuấn ôm bằng đại học nhưng vẫn hưởng mức lương hệ trung cấp. Thầy Tuấn cho biết, nhờ lần này, thầy đã được bổ nhiệm vào giáo viên tiểu học hạng III với mức lương 4.32 trong khi bạn cùng lớp là thầy Mạnh sẽ được hưởng mức lương với hệ số là 5.02.

Mức chênh lệch này không hề xuất phát từ trình độ, từ năng lực chuyên môn hay hiệu quả giáo dục…mà rõ ràng từ sự may rủi do thầy giáo Mạnh lấy được bằng tốt nghiệp đại học trước, lại vào đúng thời điểm tỉnh nhà xét thăng hạng.

Thầy giáo Tuấn lấy bằng sau một tháng nhưng lại quá xui vì không đúng đợt xét tuyển của tỉnh nhà. Và từ năm 2017 cho đến trước ngày chùm các Thông tư 01-04 có hiệu lực cũng không thực hiện xét nâng hạng lần nào.

Điều đáng nói là, cô giáo Hoa, thầy giáo Tuấn hiện là tổ trưởng chuyên môn, là giáo viên cốt cán bộ môn, có nhiều năm liền là chiến sĩ thi đua cơ sở, được chủ tịch uỷ ban tặng giấy khen...trong khi cô giáo Mai và thầy giáo Mạnh chỉ là những giáo viên bình thường.

Cô giáo Hoa, thầy giáo Tuấn chỉ là một trong hàng trăm ngàn thầy cô giáo bị xui khi chuyển xếp hạng theo chùm Thông tư 01-04 và Thông tư 08/2023.

Người hạng thấp lại chỉ đạo người hạng cao hơn?

Hiện nay, trong nhiều trường học, giáo viên hạng III là tổ trưởng chuyên môn, là giáo viên cốt cán cấp trường, cấp huyện thị, thậm chí cấp tỉnh nhưng một số giáo viên hạng II không đủ năng lực chuyên môn để đảm nhận những nhiệm vụ như vậy.

Có những giáo viên hạng III có năng lực chuyên môn vững vàng, có kỹ năng sư phạm tốt hơn một số giáo viên hạng II. Và, có những giáo viên hạng II lại giỏi hơn nhiều một số giáo viên hạng I.

Thầy giáo Hùng, hiệu trưởng một trường học tại miền Trung chia sẻ: “Năm học nào trường mình cũng có đội tuyển học sinh giỏi. Người phụ trách, chịu trách nhiệm chính ôn luyện cho các em lại là giáo viên hạng III. Trong khi ở trường, có không ít giáo viên hạng II, thậm chí hạng I nhưng vẫn không đủ tin tưởng để giao phó”.

Nói rồi, thầy Hùng còn cho biết, cô giáo hạng III ấy lại là giáo viên cốt cán cấp tỉnh phụ trách modul về môn Toán trong chuyên đề bồi dưỡng thường xuyên của giáo viên. Cô là người hướng dẫn, hỗ trợ và chấm bài cho nhiều thầy cô giáo hạng II, hạng I của nhiều trường học ở địa phương.

Ở nhiều trường học hiện nay, không phải cứ giáo viên hạng I, hạng II là giỏi hơn, nhiệt huyết hơn giáo viên hạng III.

Không hẳn, lớp dạy của những thầy cô giáo hạng I, hạng II chất lượng học tập tốt hơn những lớp giáo viên hạng III đảm nhiệm. Vì thế, khi phân công chuyên môn, nhà trường hầu như không căn cứ vào thứ hạng để giao nhiệm vụ mà nhìn vào năng lực chuyên môn cũng như hiệu quả công việc của mỗi thầy cô giáo.

Giáo viên hiện nay đều có một nhiệm vụ như nhau là giảng dạy và giáo dục học sinh. Ngoài công tác giảng dạy, mọi hoạt động khác ở nhà trường, các thầy cô giáo đều phải có nghĩa vụ thực hiện ngang bằng nhau.

Tuy thế, họ lại có những điểm khác biệt như người là giáo viên hạng III, người hạng II, người lại hạng I. Ngoài thứ hạng chênh lệch nhau thì mức lương nhận được cũng vô cùng khác nhau.

Cùng làm chung công việc, cùng chịu trách nhiệm ngang nhau, có người nhận mức lương cao còn có người lại quá thấp.

Giáo viên nếu nói không phân bì, so đo là nói dối. Không ít thầy cô đã ngậm ngùi, buồn tủi, và có cả nuối tiếc giá mà, biết vậy…

Mong muốn của nhiều thầy cô giáo ở các bậc học hiện nay là không phân biệt giáo viên theo hạng như hiện nay mà đánh giá năng lực giáo viên theo chất lượng giảng dạy và giáo dục học sinh hàng năm. Vì chỉ có như thế, các thầy cô giáo mới nỗ lực hết mình vì học sinh.

Lương giáo viên hạng 1 2 3 là gì?

Giáo viên phổ thông (tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông) hạng III có hệ số lương 2,34-4,98; hạng II có hệ số lương 4,0-6,38; hạng I có hệ số lương 4,4-6,78.

Giáo viên tiểu học hạng 3 là như thế nào?

Giáo viên tiểu học hạng III có bằng tốt nghiệp cao đẳng sư phạm tiểu học hoặc cao đẳng sư phạm các chuyên ngành phù hợp với bộ môn giảng dạy trở lên; trình độ ngoại ngữ bậc 2 hoặc có chứng chỉ tiếng dân tộc đối với những vị trí việc làm yêu cầu sử dụng tiếng dân tộc; có trình độ Tin học đạt chuẩn kỹ năng sử dụng công ...

Giáo viên mầm non hạng 3 là như thế nào?

Thông tư 01/2021/TT-BGDĐT quy định Mã số, hạng chức danh nghề nghiệp giáo viên mầm non như sau: Giáo viên mầm non hạng 3 (mã số V. 07.02.26): Là hạng thấp nhất trong xếp hạng giáo viên mầm non. Ở hạng này, giáo viên cần có bằng cao đẳng sư phạm mầm non trở lên và có chứng chỉ CDNN giáo viên mầm non hạng III.

Giáo viên hạng 2 và hạng 3 khác nhau như thế nào?

Việc xếp hạng là căn cứ để xếp lương. Theo đó, giáo viên mầm non hạng III có hệ số lương từ 2,1 đến 4,89; hạng II có hệ số từ 2,34 đến 4,98; hạng I từ 4 đến 6,38. Hệ số lương của giáo viên tiểu học, THCS và THPT hạng III từ 2,34 đến 4,98; hạng II từ 4 đến 6,38; hạng I từ 4,4 đến 6,78.