Định nghĩa công bằng là gì

Công bằng xã hội là một khái niệm về mối quan hệ công bằng và chính đáng giữa cá nhân và xã hội. Điều này được đo lường bằng các điều khoản rõ ràng và ngấm ngầm để phân phối của cải, cơ hội bình đẳng cho hoạt động cá nhân và các đặc quyền xã hội. Ở phương Tây cũng như các nền văn hóa châu Á lâu đời, khái niệm công bằng xã hội thường đề cập đến quá trình đảm bảo rằng các cá nhân hoàn thành vai trò xã hội của họ và nhận được những gì họ có được từ xã hội.[1][2][3] Trong các phong trào cơ sở toàn cầu hiện nay cho công bằng xã hội, người ta nhấn mạnh vào việc phá vỡ các rào cản đối với di động xã hội, tạo ra các mạng lưới an sinh xã hội và công bằng kinh tế.[4][5][6][7][8]

Một người biểu tình giương cao một tấm biển kêu gọi "thay đổi, tự do, công bằng xã hội" tại một cuộc biểu tình năm 2011.

Công bằng xã hội giao quyền và nghĩa vụ trong các tổ chức của xã hội, cho phép mọi người nhận được những lợi ích cơ bản và gánh nặng hợp tác. Các tổ chức có liên quan thường bao gồm thuế, bảo hiểm xã hội, y tế công cộng, trường công lập, các dịch vụ công, luật lao động và quy định của thị trường, để đảm bảo công bằng trong việc phân phối của cải, và cơ hội bình đẳng.[9]

Các giải thích liên quan đến công lý với mối quan hệ qua lại với xã hội được trung gian bởi sự khác biệt trong truyền thống văn hóa, một số trong đó nhấn mạnh trách nhiệm cá nhân đối với xã hội và những người khác về sự cân bằng giữa tiếp cận quyền lực và sử dụng có trách nhiệm.[10] Do đó, công bằng xã hội được viện dẫn ngày hôm nay trong khi diễn giải lại các nhân vật lịch sử như Bartolomé de las Casas, trong các cuộc tranh luận triết học về sự khác biệt giữa con người, trong nỗ lực vì bình đẳng giới, chủng tộc và xã hội, để ủng hộ công lý cho người di cư, tù nhân, môi trường và người khuyết tật về thể chất và phát triển.[11][12][13]

Trong khi khái niệm công bằng xã hội có thể được bắt nguồn từ thần học của Augustinô thành Hippo và triết học của Thomas Paine, thuật ngữ "công bằng xã hội" đã được sử dụng chính thức vào những năm 1780. Một linh mục dòng Tên tên là Luigi Taparelli thường được ghi công trong việc đặt ra thuật ngữ này và nó đã lan rộng trong cuộc cách mạng năm 1848 với tác phẩm của Antonio Rosmini-Serbati.[2][14][15] Tuy nhiên, nghiên cứu gần đây đã chứng minh rằng việc sử dụng cách diện đạt "công bằng xã hội" đã có từ trước đó [thậm chí trước thế kỷ 19].[16] Ví dụ, ở Anglo-America, thuật ngữ này xuất hiện trên The Federalist Papers, số 7: "Chúng tôi đã quan sát thấy ý định trả thù bị kích thích ở Connecticut do hậu quả của sự định nghĩa của Pháp luật Rhode Island và chúng tôi suy luận hợp lý rằng, trong những trường hợp tương tự, trong những trường hợp khác, một cuộc chiến tranh, không phải trên giấy tờ, mà là bạo lực thực sự, sẽ trừng phạt những vi phạm tàn bạo như vậy về nghĩa vụ đạo đức và công bằng xã hội. "

  • Công lý khí hậu
  • Bình đẳng xã hội
  • CBXH Association

  1. ^ Aristotle, The Politics [ca 350 BC]
  2. ^ a b Clark, Mary T. [2015]. "Augustine on Justice," a Chapter in Augustine and Social Justice. Lexington Books. tr. 3–10. ISBN 978-1-4985-0918-3.
  3. ^ Banai, Ayelet; Ronzoni, Miriam; Schemmel, Christian [2011]. Social Justice, Global Dynamics: Theoretical and Empirical Perspectives. Florence: Taylor and Francis. ISBN 978-0-203-81929-6.
  4. ^ Kitching, G. N. [2001]. Seeking Social Justice Through Globalization Escaping a Nationalist Perspective. University Park, Pa: Pennsylvania State University Press. tr. 3–10. ISBN 978-0-271-02377-9.
  5. ^ Hillman, Arye L. [2008]. “Globalization and Social Justice”. The Singapore Economic Review. 53 [2]: 173–189. doi:10.1142/s0217590808002896.
  6. ^ Agartan, Kaan [2014]. “Globalization and the Question of Social Justice”. Sociology Compass. 8 [6]: 903–915. doi:10.1111/soc4.12162.
  7. ^ El Khoury, Ann [2015]. Globalization Development and Social Justice: A propositional political approach. Florence: Taylor and Francis. tr. 1–20. ISBN 978-1-317-50480-1.
  8. ^ Lawrence, Cecile; Natalie Churn [2012]. Movements in Time Revolution, Social Justice, and Times of Change. Newcastle upon Tyne, UK: Cambridge Scholars Pub. tr. xi–xv. ISBN 978-1-4438-4552-6. Đã bỏ qua tham số không rõ |last-author-amp= [gợi ý |name-list-style=] [trợ giúp]
  9. ^ John Rawls, A Theory of Justice [1971] 4, "the principles of social justice: they provide a way of assigning rights and duties in the basic institutions of society and they define the appropriate distribution of benefits and burdens of social co-operation."
  10. ^ Aiqing Zhang; Feifei Xia; Chengwei Li [2007]. “The Antecedents Of Help Giving In Chinese Culture: Attribution, Judgment Of Responsibility, Expectation Change And The Reaction Of Affect”. Social Behavior and Personality. 35 [1]: 135–142. doi:10.2224/sbp.2007.35.1.135.
  11. ^ Smith, Justin E. H. [2015]. Nature, Human Nature, and Human Difference: Race in Early Modern Philosophy. Princeton University Press. tr. 17. ISBN 978-1-4008-6631-1.
  12. ^ Trương, Thanh-Đạm [2013]. Migration, Gender and Social Justice: Perspectives on Human Insecurity. Springer. tr. 3–26. ISBN 978-3-642-28012-2.
  13. ^ Teklu, Abebe Abay [2010]. “We Cannot Clap with One Hand: Global Socio–Political Differences in Social Support for People with Visual Impairment”. International Journal of Ethiopian Studies. 5 [1]: 93–105.
  14. ^ Paine, Thomas. Agrarian Justice.
  15. ^ J. Zajda, S. Majhanovich, V. Rust, Education and Social Justice, 2006, ISBN 1-4020-4721-5
  16. ^ Pérez-Garzón, Carlos Andrés [ngày 14 tháng 1 năm 2018]. “Unveiling the Meaning of Social Justice in Colombia”. Mexican Law Review [bằng tiếng Anh]. 10 [2]: 27–66. ISSN 2448-5306. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 3 năm 2018. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2018.

Lấy từ “//vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Công_bằng_xã_hội&oldid=68468325”

Công bằng [tiếng Anh: Equity] theo khái quát chung có thể hiểu là như sau: mọi người có quyền và lợi ích ngang nhau trong cùng một hoàn cảnh, một khía cạnh nào đó.

Hình minh họa [Nguồn: img.vietnamfinance.vn]

Khái niệm

Công bằng trong tiếng Anh có một số cách gọi như equity, fairness hay justness.

Công bằng theo khái quát chung có thể hiểu là như sau: mọi người có quyền và lợi ích ngang nhau trong cùng một hoàn cảnh, một khía cạnh nào đó.

So sánh giữa công bằng ngang và công bằng dọc

Công bằng ngang là sự đối xử như nhau với những người như nhau.

Công bằng dọc là sự đối xử khác nhau đối với những người khác nhau.

Ví dụ trong việc sử dụng dịch vụ y tế:


Chia sẻ lợi íchChia sẻ chi phíVí dụ
Công bằng ngangTình trạng bệnh tật như nhau thì được điều trị như nhauKhả năng chi trả như nhau thì đóng góp như nhauHai người A và B đều cùng vào viện vì mắc bệnh ung thư giai đoạn 1 thì sẽ được điều trị phác đồ dành cho người bị ung thư giai đoạn 1 như nhau và chịu chi phí y tế như nhau là 1 triệu đô la.
Công bằng dọcTình trạng bệnh tật khác nhau thì được điều trị khác nhau
Khả năng chi trả khác nhau thì đóng góp khác nhau
Hai người A và B đều cùng vào viện vì mắc bệnh ung thư nhưng A ở giai đoạn 1, B ở giai đoạn cuối thì sẽ được điều trị phác đồ dành cho người bị ung thư khác nhau và chịu chi phí y tế khác nhau: A là 1 triệu đô la còn B khác số tiền trên.

Ví dụ trong kinh tế:

Tình trạng kinh tế ban đầu như nhau thì được đối xử như nhau [không phân biệt giới tính, màu da hay tôn giáo].

Tình trạng kinh tế khác nhau thì đóng góp khác nhau [thuế thu nhập lũy tiến].

Ví dụ
Công bằng ngang
Hai người A và B làm cùng ngành, cùng thâm niên, đều có mức thu nhập là 10 triệu VND/tháng thì sẽ chịu mức thuế thu nhập cá nhân là như nhau.
Công bằng dọc
Hai người A và B làm cùng ngành, cùng thâm niên, nhưng A có mức thu nhập là 10 triệu VND/tháng, B có mức thu nhập là 20 triệu VND/tháng thì sẽ chịu mức thuế thu nhập cá nhân là khác nhau.

Các hình thức thể hiện sự công bằng trong xã hội:

- Trả công hoặc hưởng thụ trực tiếp theo số lượng và chất lượng cống hiến

- Tạo khả năng tiếp cận bình đẳng các cơ hội và các nguồn lực phát triển

- Tạo khả năng tiếp cận và mức độ hưởng thụ bình đăng những phúc lợi công cộng - dịch vụ xã hội cơ bản.

Khả năng áp dụng công bằng ngang và công bằng dọc

Công bằng ngang thường được thực thi bởi thị trường, còn công bằng dọc phải cần đến sự can thiệp của chính phủ. Vì vậy, rất khó để xác định điều kiện "như nhau" hay "khác nhau" khi áp dụng.

Ví dụ, hai cá nhân X và Y đều có thu nhập hàng năm là 100 triệu đồng. X sống độc thân còn Y có 3 con nhỏ, vợ thất nghiệp và người mẹ già đau ốm. Vậy ta nên hiểu tình trạng kinh tế cá nhân của hai người này là như nhau hay khác nhau?

Tóm lại, vấn đề trung tâm của tính công bằng trong phân phối chính là:

+ Trao cho các thành viên trong xã hội lợi ích thu được từ hoạt động sản xuất

+ Phân chia những chi phí liên quan

[Tài liệu tham khảo: Tài liệu Cơ sở phân tích chính sách, TS. Vũ Sỹ Cường, Học viện Tài chính]

T.H

Video liên quan

Chủ Đề