Chửi văn hóa để dành khi nào cần thì dùng năm 2024

(TG) - Chửi, từ xưa đến nay vẫn là... chửi. Đó là hiện tượng "thốt ra những lời thô tục, cay độc để xúc phạm, làm nhục người khác" (Từ điển tiếng Việt, Trung tâm Từ điển học, NXB Đà Nẵng, 2020).

Chửi văn hóa để dành khi nào cần thì dùng năm 2024

Ảnh minh họa

Rõ ràng, chửi là một hành động ngôn từ không bình thường. Mọi nhà ngôn ngữ đều xếp chửi vào nhóm những ngôn từ "phản chuẩn", "kém văn hoá". Nhưng thử hỏi, có ai trên đời này lại không bao giờ thốt ra lời chửi rủa? Nguyễn Thị Tuyết Ngân, trong bài "Đặc trưng ngôn ngữ - văn hoá trong các lối chửi của người Việt" (Việt Nam: Những vấn đề Ngôn ngữ và Văn hoá, Hội Ngôn ngữ học Việt Nam, 1993) có nói: "Chửi là hiện tượng mà, có lẽ, dân tộc nào cũng có và có từ rất lâu đời. Trong một số loại hình văn hoá dân gian (truyện cổ tích, thành ngữ) đã thấy có những yếu tố của hiện tượng này". Trần Thị Hoàng Yến (trong luận án tiến sĩ với đề tài Đặc điểm cấu trúc, ngữ nghĩa của hành động chửi qua lời thoại nhân vật trong truyện ngắn Việt Nam, bảo vệ tại Trường Đại học Vinh, 2014) cũng cho rằng: "Trên thực tế, hành động chửi vẫn tồn tại và phát triển trong lời nói ở những giai tầng xã hội khác nhau, cả những người có trình độ văn hoá thấp đến những người có trình độ văn hoá cao, cả nam lẫn nữ, cả người cao tuổi lẫn người ít tuổi".

Theo Nguyễn Thị Tuyết Ngân (1993), "Chửi là một hiện tượng văn hoá ngôn từ phản chuẩn, bày tỏ một cách chủ động phản ứng bất bình nhằm làm giảm căng thẳng tinh thần của người chửi và hạ uy tín người bị chửi".

Như vậy, chửi xuất phát từ một nhu cầu tự thân của người chửi. Ai đó cảm thấy bất bình trước hiện thực, nhất là khi quá bức xúc khi chính mình bị xúc phạm hay bị tổn thương mất mát về vật chất (mất gà, mất chó, mất của... chẳng hạn) thì sẽ tìm cách "xả cơn giận" bằng việc chửi. Tất nhiên, không phải cứ "quá bức xúc, quá bực bội" đều thốt ra câu chửi. Và cũng không phải mọi lời chửi đều giống nhau.

Tiếng Việt có khá nhiều từ ngữ phản ánh sự đa dạng, phong phú và sinh động của hành động chửi: chửi bới, chửi bới móc, chửi doạ, chửi đổng, chửi mắng, chửi rủa, chửi thề, chửi trách. Nhưng chửi gì thì chửi, mục đích của người chửi là dùng lời lẽ thô tục để làm nhục, làm mất thể diện người khác. Điều này sẽ dẫn đến nguy cơ xung đột vì người bị chửi có thể phản ứng lại. Cũng có thể họ chửi lại. Cũng có thể sẽ xảy ra bạo lực (đánh nhau, thậm chí dẫn đến hậu quả nghiêm trọng, như gây thương tích, chết người).

Người chửi thường dùng những lời lẽ xấu xa, cay độc nhất để miệt thị làm mất mặt đối tượng. Ngôn từ đưa ra, theo Nguyễn Thị Tuyết Ngân, chia thành 4 nhóm lớn: 1) Những từ thuần Việt chỉ các bộ phận sinh dục nam và nữ (riêng những từ Hán Việt tương ứng không có chức năng này); 2) Những từ chỉ tên những súc vật có đặc tính xấu: chó, lợn, bò, khỉ (khỉ đột, tiều/tườu, nỡm, bú dù), dê (dê cụ), rắn, rết, giòi bọ...; 3) Những từ chỉ một thứ "giả người", chưa đủ tiêu chuẩn người: bất nhân, giả nhân giả nghĩa, ngợm, mãnh, ranh, ma, quái, quỷ, yêu tinh...; 4) Những từ chỉ người với sắc thái đánh giá âm tính, vi phạm chuẩn mực xã hội (a. về nghề nghiệp: mỏ, cu li, ba gác, xích lô...; b. về sinh lí: chột, què, gù, tuyệt tự,...; c. về trí tuệ: ngu, ngốc, dốt, điên, khùng, hâm...; d. về tín ngưỡng: vô đạo, phản chúa...; e. về đạo lí: đểu cáng, độc ác, ác ôn...; g. về pháp luật: phản động, lừa đảo, ăn cắp...). Ngoài ra, "trong tiếng Việt còn có nhóm từ chửi đặc biệt, đó là lớp các tên riêng liên quan đến tục chửi "tên cái": tên bố mẹ, ông bà, v.v. (cho đến các từ thay thế như tam đại, tứ đại)". Tức là tất cả những gì có thể làm ảnh hưởng tới tư cách và nhân cách với người bị chửi, với mục đích hạ uy tín "ngay và luôn", tới mức cao nhất với người bị chửi.

Như vậy, qua từ ngữ chửi, cách chửi, lối chửi, người ta đã cố tình vi phạm các quy cách chuẩn mực trong giao tiếp thường gặp, bỏ qua mọi yếu tố nghi thức lịch sự tối thiểu. Bình thường là "xưng khiêm hô tôn" (xưng khiêm nhường, gọi tôn kính) nhưng khi "xắn quần, tốc váy" lên để chửi thì sẽ là "xưng tôn hô khiêm" (xưng thì tự đề cao mình, nhưng gọi lại hạ thấp người khác). Họ sẵn sàng xưng là tao, bố mày, ông nội mày... và gọi đối tượng bằng những cái tên thấp hèn như mày, đồ chó, thằng ngu, thằng mặt mẹt, thằng mặt l. (và sau đó, có thể sẽ cho "cái quân khốn nạn" đó ăn đủ mọi thứ cặn bã trên đời này).

Đó là lối chửi đời thường. Trong văn học, người ta cũng đưa hành vi chửi vào các văn bản mang tính nghệ thuật (Nguyễn Khuyến từng viết: Khốn nạn thân ông/ Đéo mẹ cha nó; Tố Hữu cũng viết: Mả bố nhà nó/ Nịnh Tây hết thời...). Tuy nhiên, trong thơ văn nói chung, người ta sử dụng một cách hạn chế và mức độ cũng nhẹ hơn nhiều.

TTO - Theo bạn đọc Lê Đức Bảo, muốn nạn nói tục chửi thề không trở thành thói quen, thì: "Nơi nào nảy sinh ra những câu văng tục chửi thề thì sẽ phải hạn chế trước tiên".

Chửi văn hóa để dành khi nào cần thì dùng năm 2024

Thậm chí, những chủ tài khoản Facebook nào cố ý sử dụng những tiếng lóng có nội dung không lành mạnh, bỏ qua lời cảnh báo trước đó thì có thể bị khóa hoặc hủy tài khoản.

Nhằm góp thêm một góc nhìn, chuyên mục Bạn đọc làm báo xin giới thiệu ý kiến này

"Quả thật, để tìm ra một chuẩn mực chung khi sử dụng ngôn từ trên mạng xã hội là điều rất khó. Bởi vì quy luật cơ bản của ngôn ngữ là chuyển động trong lời nói giao tiếp và không ngừng phát sinh ra những từ ngữ mới.

Nhưng từ ngữ mới phải đáp ứng nhiều điều kiện để trở thành một từ hoàn chỉnh, xuất hiện chính thức trong từ điển.

Do đó, chúng ta phải đặt ra những điều kiện khắt khe cho người dùng mạng xã hội (thường trong độ tuổi 7-30 tuổi) về những điều khoản trao đổi thông tin phải sử dụng ngôn ngữ chính thống.

Các bạn trẻ cần phải hiểu rằng, tiếng Việt được sử dụng hằng ngày không chỉ là ngôn ngữ đơn thuần. Mà nó còn được coi là "tài sản tinh thần" của dân tộc ta, nếu không biết giữ gìn ngay từ hôm nay thì sự méo mó, biến dạng của tiếng Việt trong tương lai gần là điều khó tránh khỏi"

LÊ ĐỨC BẢO

Loại bỏ nói tục, chửi thề ngay trong học đường

Tôi rất tán thành với quan điểm của nhà nghiên cứu văn học Lại Nguyên Ân, không thể xóa nói tục, chửi thề ra khỏi tư tưởng của giới trẻ một cách ngay lập tức. Mà chỉ đẩy lùi, thu hẹp và hạn chế nói tục, chửi thề tại một số không gian công cộng, trước tiên hãy bắt đầu từ môi trường học đường.

Vì đây phải là môi trường của sự chuẩn mực, cung cấp kiến thức và bồi dưỡng nhân cách cho mỗi người học sinh.

Bản thân là một giáo viên dạy văn, tôi rất "dị ứng" với những câu chữ, cách hành văn thiếu chuẩn mực của học sinh. Đặc biệt là sử dụng những ngôn từ ảnh hưởng đến "cái hay, cái đẹp" của tiếng Việt.

Nếu phát hiện bài kiểm tra, bài viết nào có lỗi viết tắt theo lối dung tục hay dùng tiếng lóng không mang dụng ý nghệ thuật thì bài đó sẽ được chấm dưới điểm trung bình và giáo viên sẽ viết đầy đủ các lỗi trong mục lời phê để học sinh tự rút kinh nghiệm.

Để khi này các em phải hình thành một ý thức: văn nói khác văn viết. Khi nói có thể xuề xòa, dễ dãi nhưng khi viết phải chuẩn mực và đáp ứng nhu cầu thưởng thức cái đẹp của người chấm, đó là chữ viết rõ ràng và sạch sẽ.

Ngay cả bản thân người lớn chúng ta cũng cần phải làm gương trước con trẻ, không phải vì "lời nói gió bay" mà có thể văng tục tùy tiện. Nếu như nhỡ thốt ra những lời lẽ không hay thì có thể nhận lỗi và hứa trước các con sẽ không nói ra những lời này nữa.

Cần phải có sự chung tay của gia đình, nhà trường và sự quản lý chặt chẽ của các trang mạng xã hội thì mới có thể hạn chế được phần nào hiện tượng "xấu xí" này. Chứ một khi nó đã trở thành thói quen thì sẽ rất khó bỏ.

Làm sao hạn chế được việc nói tục chửi thề? Bạn có đồng ý với tác giả Lê Đức Bảo: thói quen này rất khó bỏ và muốn đừng nói tục, chửi thề phải loại bỏ tật xấu này ngay trong học đường? Hãy gửi ý kiến của mình quan phần bình luận dưới bài viết hoặc gửi về email: [email protected].