100 thần tượng video người lớn hàng đầu mọi thời đại năm 2022

"KPOP" đổi hướng tới đây. Đối với các định nghĩa khác, xem KPOP (định hướng).

Show

Bài này viết về dòng nhạc pop tại Hàn Quốc hay còn gọi là Nam Triều Tiên. Đối với bài về nhạc pop tại Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên hay Bắc Triều Tiên, xin xem DPRK-pop.

K-pop
Nguồn gốc từ loại nhạc

  • Âm nhạc Triều Tiên
  • experimental
  • pop
  • phúc âm
  • latinh
  • R&B
  • hip hop
  • jazz
  • dân gian đương đại
  • cổ điển
  • đồng quê
  • rock
  • reggae
  • EDM

Nguồn gốc văn hóaThập niên 1940 tại Hàn Quốc
Nhạc cụ điển hình

  • Giọng hát
  • drum machine
  • trống điện
  • guitar bass
  • acoustic guitar
  • synthesizer
  • keyboard
  • sampler
  • sequencer
  • digital audio workstation
  • percussion
  • groovebox

Sân khấu địa phương

  • Seoul
  • Incheon
  • Busan
  • Jeju

K-pop (tiếng Hàn: 케이팝; Romaja: keipap), viết tắt của cụm từ tiếng Anh Korean popular music tức nhạc pop tiếng Hàn hay nhạc pop Hàn Quốc, là một thể loại âm nhạc bắt nguồn từ Hàn Quốc như một phần của văn hóa Hàn Quốc.[1] Nó bị ảnh hưởng bởi các phong cách và thể loại từ khắp nơi trên thế giới, chẳng hạn như pop, experimental, rock, jazz, phúc âm, hip hop, R&B, reggae, EDM, dân gian, đồng quê và cổ điển dựa trên nguồn gốc âm nhạc truyền thống Hàn Quốc.[2] Hình thức hiện đại hơn của thể loại này xuất hiện với sự hình thành của một trong những nhóm nhạc K-pop đời đầu, nhóm nhạc nam Seo Taiji and Boys, vào năm 1992. Việc họ thử nghiệm các phong cách và thể loại âm nhạc khác nhau và tích hợp các yếu tố âm nhạc nước ngoài đã giúp định hình lại và hiện đại hóa nền âm nhạc đương đại của Hàn Quốc.[3]

Văn hóa "thần tượng" K-pop hiện đại bắt đầu từ những năm 1990, khi K-pop phát triển thành một nền văn hóa phụ thu hút rất nhiều cộng đồng người hâm mộ của thanh thiếu niên và thanh niên.[4][5] Sau một thời gian sa sút trong giai đoạn đầu của K-pop, từ năm 2003, TVXQ và BoA đã bắt đầu một thế hệ thần tượng K-pop mới, phá vỡ thể loại âm nhạc này vào thị trường láng giềng Nhật Bản và tiếp tục phổ biến K-pop ra quốc tế ngày nay.[6][7] Với sự ra đời của các dịch vụ mạng xã hội trực tuyến và các chương trình truyền hình Hàn Quốc, sự lan rộng hiện nay của K-pop và giải trí Hàn Quốc, được gọi là Làn sóng Hàn Quốc, không chỉ được nhìn thấy ở Đông Á và Đông Nam Á, mà còn ở Pakistan, Bangladesh, Ấn Độ, Mỹ Latinh, Bắc Phi, Nam Phi và Đông Phi, Trung Đông và khắp thế giới phương Tây, thu hút được khán giả quốc tế.

Thuật ngữ "K-pop" trở nên phổ biến vào những năm 2000. Trước đây, nhạc pop của Hàn Quốc được gọi là gayo (가요),[8][9] còn ở Việt Nam quen gọi là nhạc Hàn. Trong khi "K-pop" là một thuật ngữ chung cho âm nhạc phổ biến ở Hàn Quốc, nó thường được sử dụng với nghĩa hẹp hơn cho thể loại được mô tả ở đây. Trong năm 2018, K-pop đã có sự tăng trưởng đáng kể và trở thành một "người chơi quyền lực", đánh dấu mức tăng trưởng doanh thu 17,9%. Tính đến năm 2019, K-pop được xếp ở vị trí số 6 trong số 10 thị trường âm nhạc hàng đầu trên toàn thế giới theo "Global Music Report 2019" của Liên đoàn Công nghiệp Ghi âm Quốc tế, với BTS và Blackpink được coi là nghệ sĩ dẫn đầu thị trường.[10] Vào năm 2020, K-pop đã trải qua một năm kỷ lục khi tăng trưởng 44,8% và khẳng định vị thế là thị trường lớn phát triển nhanh nhất trong năm.[11]

Đặc điểm[sửa | sửa mã nguồn]

Nội dung nghe nhìn[sửa | sửa mã nguồn]

Mặc dù K-pop thường dùng để chỉ nhạc pop của Hàn Quốc, nhưng một số người coi đây là một thể loại tổng hợp thể hiện nhiều yếu tố âm nhạc và hình ảnh.[12][nguồn không đáng tin?] Viện Nghe nhìn Quốc gia Pháp (Institut national de l'audiovisuel) định nghĩa K-pop là "sự kết hợp của âm nhạc tổng hợp, các điệu nhảy sắc nét và những bộ trang phục thời trang, đầy màu sắc".[13] Các bài hát thường bao gồm một hoặc hỗn hợp thể loại pop, rock, hip hop, R&B và nhạc điện tử.

Đào tạo nghệ sĩ có hệ thống[sửa | sửa mã nguồn]

Các công ty quản lý Hàn Quốc đưa ra những hợp đồng ràng buộc với các nghệ sĩ tiềm năng, đôi khi ở độ tuổi còn trẻ. Các thực tập sinh sống cùng nhau trong một môi trường quy định và dành nhiều giờ mỗi ngày để học hát, nhảy, nói ngoại ngữ và các kỹ năng khác để chuẩn bị cho sự ra mắt của họ. Hệ thống đào tạo kiểu "robot" này thường bị các hãng truyền thông phương Tây chỉ trích.[14] Vào năm 2012, The Wall Street Journal báo cáo rằng chi phí đào tạo một thần tượng Hàn Quốc bởi SM Entertainment được ước tính trung bình khoảng 3 triệu USD.[15]

Thể loại kết hợp và giá trị xuyên quốc gia[sửa | sửa mã nguồn]

100 thần tượng video người lớn hàng đầu mọi thời đại năm 2022
Lượt tìm kiếm K-pop trong giai đoạn 2008–2012 theo Google Trends.

K-pop là một sản phẩm văn hóa có "giá trị, bản sắc và ý nghĩa vượt ra ngoài giá trị thương mại nghiêm ngặt của chúng."[16] Nó được đặc trưng bởi sự pha trộn giữa âm thanh hiện đại của phương Tây và ảnh hưởng của người Mỹ gốc Phi (bao gồm âm thanh từ hip-hop, R&B, jazz, black pop, soul, funk, techno, disco, house và afrobeats) với khía cạnh biểu diễn của Hàn Quốc (bao gồm các bước nhảy đồng bộ, thay đổi đội hình và cái gọi là "điểm nhấn vũ đạo" bao gồm các chuyển động chính nối tiếp và lặp đi lặp lại). Người ta nhận xét rằng có một "tầm nhìn hiện đại hóa" vốn có trong văn hóa đại chúng Hàn Quốc.[17] Đối với một số người, các giá trị xuyên quốc gia của K-pop là nguyên nhân dẫn đến thành công của nó. Một nhà bình luận tại Đại học California, San Diego đã nói rằng "văn hóa đại chúng Hàn Quốc đương đại được xây dựng dựa trên... dòng chảy xuyên quốc gia... diễn ra xuyên suốt, xa hơn và bên ngoài ranh giới quốc gia và thể chế."[18] Một số ví dụ về các giá trị xuyên quốc gia vốn có trong K-pop có thể thu hút những người từ các nguồn gốc dân tộc, quốc gia và tôn giáo khác nhau bao gồm sự cống hiến cho chất lượng đầu ra và trình bày thần tượng, cũng như đạo đức làm việc và thái độ xã hội lịch sự của họ, có được nhờ thời gian đào tạo.[19]

Tiếp thị[sửa | sửa mã nguồn]

Nhiều công ty đã giới thiệu các nhóm nhạc thần tượng mới với khán giả thông qua một "debut showcase", bao gồm tiếp thị trực tuyến và quảng bá trên truyền hình thay vì phát thanh.[20] Các nhóm được đặt tên và "concept", cùng với một câu chuyện tiếp thị. Những khái niệm này là loại chủ đề hình ảnh và âm nhạc mà các nhóm nhạc thần tượng sử dụng khi ra mắt hoặc trở lại.[21] Các khái niệm có thể thay đổi giữa các lần ra mắt và người hâm mộ thường phân biệt giữa khái niệm nhóm nhạc nam và nhóm nhạc nữ. Các khái niệm cũng có thể được chia thành khái niệm chung và khái niệm chủ đề, chẳng hạn như dễ thương hoặc tưởng tượng. Các nhóm nhạc thần tượng mới thường sẽ ra mắt với concept nổi tiếng trên thị trường để đảm bảo một màn ra mắt thành công. Đôi khi các đơn vị nhỏ hoặc nhóm nhỏ được hình thành giữa các thành viên hiện có. Hai nhóm nhỏ ví dụ là Super Junior-K.R.Y., bao gồm các thành viên Kyuhyun, Ryeowook và Yesung của Super Junior, và Super Junior-M, sau này trở thành một trong những nhóm nhỏ K-pop bán chạy nhất ở Trung Quốc.[22]

Tiếp thị trực tuyến bao gồm các video âm nhạc được đăng lên YouTube để tiếp cận khán giả trên toàn thế giới.[20] Trước video thực tế, nhóm đã phát hành ảnh teaser và trailer. Các chu kỳ khuyến mại của các đĩa đơn tiếp theo được gọi là comeback ngay cả khi nhạc sĩ hoặc nhóm được đề cập không bị gián đoạn.[23]

Vũ đạo[sửa | sửa mã nguồn]

Điệu nhảy cho "Gangsta", một bài nhảy điện tử của Noir, bao gồm điểm nhấn vũ đạo.[24]

Vũ đạo là một phần không thể thiếu của K-pop. Khi kết hợp nhiều ca sĩ, các ca sĩ thường chuyển đổi vị trí của họ trong khi hát và nhảy bằng cách thực hiện các chuyển động nhanh chóng đồng bộ, một chiến lược được gọi là "thay đổi đội hình" (tiếng Triều Tiên: 자리바꿈, chuyển tự Jaribaggum).[25] Vũ đạo K-pop (tiếng Triều Tiên: 안무, chuyển tự Anmu) thường bao gồm cái gọi là "điểm nhấn vũ đạo" (tiếng Triều Tiên: 포인트 안무), đề cập đến một điệu nhảy được tạo thành từ các chuyển động nối tiếp và lặp đi lặp lại trong vũ đạo phù hợp với đặc điểm của lời bài hát.[26][27] "Sorry Sorry" của Super Junior và "Abracadabra" của Brown Eyed Girls là những ví dụ về những bài hát có "điểm nhấn" vũ đạo đáng chú ý. Để dàn dựng một điệu nhảy cho một bài hát, biên đạo phải tính đến nhịp độ.[28] Theo Ellen Kim, một vũ công kiêm biên đạo múa ở Los Angeles, khả năng thực hiện các bước nhảy tương tự của một người hâm mộ cũng phải được xem xét. Do đó, các biên đạo múa K-pop phải đơn giản hóa các động tác.[28]

100 thần tượng video người lớn hàng đầu mọi thời đại năm 2022
24K biểu diễn vũ đạo trong phòng tập.

Việc đào tạo và chuẩn bị cần thiết để các thần tượng K-pop thành công trong ngành và vũ đạo thành công là rất khó khăn. Các trung tâm đào tạo như Def Dance Skool ở Seoul phát triển kỹ năng nhảy của thanh thiếu niên để giúp họ trở thành thần tượng.[29] Huấn luyện thể chất là một trong những trọng tâm lớn nhất tại trường, vì phần lớn thời gian biểu của học sinh dựa trên khiêu vũ và tập thể dục.[29] Các công ty giải trí có tính chọn lọc cao, vì vậy rất ít người nổi tiếng. Học sinh tại trường phải dành cả cuộc đời của mình cho việc thuần thục vũ đạo để chuẩn bị cho những hoạt động sôi nổi do các nhóm nhạc K-pop biểu diễn. Điều này, tất nhiên, có nghĩa là khóa đào tạo phải tiếp tục nếu họ được ký kết. Các công ty có các trung tâm đào tạo lớn hơn nhiều cho những người được chọn.[29]

Một cuộc phỏng vấn với biên đạo múa K-pop Rino Nakasone cho thấy cái nhìn sâu sắc về quá trình tạo ra các thói quen. Theo Nakasone, trọng tâm của cô ấy là tạo ra các bài nhảy phù hợp với các vũ công nhưng cũng bổ sung cho âm nhạc.[30] Ý tưởng của cô được gửi đến công ty giải trí dưới dạng bản ghi video do các vũ công chuyên nghiệp thực hiện.[30] Nakasone đề cập rằng công ty và bản thân các nghệ sĩ K-pop đã đóng góp ý kiến ​​về vũ đạo của bài hát.[30] Biên đạo múa May J. Lee đưa ra một góc nhìn khác, nói rằng vũ đạo của cô ấy thường bắt đầu bằng việc thể hiện cảm xúc hoặc ý nghĩa của lời bài hát.[31] Điều gì bắt đầu khi những chuyển động nhỏ biến thành một điệu nhảy hoàn chỉnh để có thể lột tả tốt hơn thông điệp của bài hát.[31]

Thời trang[sửa | sửa mã nguồn]

Sự xuất hiện của Seo Taiji and Boys vào năm 1992 đã mở đường cho sự phát triển của các nhóm nhạc K-pop đương đại.[32] Nhóm đã cách mạng hóa nền âm nhạc Hàn Quốc bằng cách kết hợp các quy ước nhạc rap và hip hop của Mỹ vào âm nhạc của họ.[33] Việc áp dụng phong cách phương Tây này đã mở rộng sang thời trang của nhóm nhạc nam: các thành viên áp dụng gu thẩm mỹ hip hop.[34] Seo Taiji và trang phục của các thành viên trong ban nhạc cho chu kỳ quảng bá của "Nan Arayo" (난 알아요, I Know) bao gồm thời trang dạo phố sôi động như áo phông và áo nỉ quá khổ, áo gió, quần yếm mặc một dây, quần yếm xắn lên một ống quần và áo thi đấu của đội thể thao Mỹ.[cần dẫn nguồn] Phụ kiện bao gồm mũ bóng chày đeo ngược, mũ xô và do-rags.[cần dẫn nguồn]

Như K-pop "được sinh ra từ các xu hướng hậu Seo Taiji",[34] nhiều nghệ sĩ theo sau Seo Taiji and Boys đã áp dụng cùng một phong cách thời trang. Deux và DJ DOC cũng có thể được nhìn thấy mặc quần áo thời trang hip hop theo xu hướng như quần baggy đáy xệ, đồ thể thao và quấn khăn trong các buổi biểu diễn của họ.[cần dẫn nguồn] Với việc âm nhạc đại chúng của Hàn Quốc trở thành phương tiện truyền thông chiếm ưu thế trong giới trẻ, các nhóm nhạc thần tượng tuổi teen được sản xuất bắt đầu ra mắt vào giữa và cuối thập niên 1990,[32] mặc trang phục phối hợp,[35] điều đó phản ánh xu hướng thời trang thịnh hành của giới trẻ vào thời điểm đó. Thời trang hip hop, được coi là phong cách phổ biến nhất vào cuối thập niên 90,[36] còn lại, với các nhóm nhạc thần tượng H.O.T. và Sechs Kies mặc phong cách cho các bài hát đầu tay của họ. Việc sử dụng phụ kiện nâng tầm phong cách của thần tượng từ thời trang hàng ngày đến trang phục biểu diễn, như kính trượt tuyết (đeo quanh đầu hoặc cổ), tai nghe đeo quanh cổ và găng tay quá khổ đeo để làm nổi bật các động tác vũ đạo đã được sử dụng rộng rãi.[cần dẫn nguồn] Bản hit "Candy" năm 1996 của H.O.T. thể hiện mức độ phối hợp có tính đến trang phục của thần tượng, vì mỗi thành viên đều mặc một màu được chỉ định và trang bị phụ kiện bằng sơn mặt, găng tay quá khổ mờ, kính che mặt, mũ xô, bịt tai và thú nhồi bông đã qua sử dụng, ba lô và túi xách làm đạo cụ.

100 thần tượng video người lớn hàng đầu mọi thời đại năm 2022
Các thành viên của Baby Vox biểu diễn vào năm 2004.

Trong khi trang phục của các nhóm nhạc thần tượng nam được thiết kế với cách phối màu, chất liệu vải và phong cách tương tự nhau thì trang phục của mỗi thành viên vẫn giữ được cá tính riêng.[37] Mặt khác, các nhóm nhạc nữ của thập niên 90 mặc trang phục đồng nhất, thường được tạo kiểu giống hệt nhau.[37] Trang phục của các nữ thần tượng trong thời gian đầu quảng bá thường tập trung vào việc khắc họa hình ảnh ngây thơ, trẻ trung.[38] Lần ra mắt đầu tiên của S.E.S. vào năm 1997, "I'm Your Girl", và album thứ hai của Baby Vox năm 1998, "Ya Ya Ya", có các cô gái mặc trang phục màu trắng, "To My Boyfriend" của Fin.KL thể hiện thần tượng trong trang phục màu hồng trang phục nữ sinh, và "One" và "End" của Chakra trình bày trang phục theo phong cách Ấn Độ giáo và châu Phi. Để khắc họa hình ảnh tự nhiên và có phần ma mị, các phụ kiện chỉ giới hạn ở những chiếc nơ lớn, đồ trang trí trên tóc và dây buộc tóc. Với sự trưởng thành của các nhóm nhạc nữ và sự loại bỏ của bubblegum pop vào cuối thập niên 1990, các nhóm nhạc nữ tập trung vào việc chạy theo xu hướng thời trang bấy giờ, trong đó có nhiều bộ trang phục hở hang. Các hoạt động quảng bá mới nhất của các nhóm nhạc nữ Baby Vox and Jewelry thể hiện các xu hướng đang hot này của quần dài, váy ngắn siêu nhỏ, áo crop top, áo cánh nông dân, hàng may mặc trong suốt và áo cánh ở phần trên của thân áo.[cần dẫn nguồn]

Khi K-pop trở thành sự kết hợp hiện đại giữa văn hóa phương Tây và châu Á bắt đầu từ cuối thập niên2000,[39] xu hướng thời trang trong K-pop cũng phản ánh sự đa dạng và khác biệt. Các xu hướng thời trang từ cuối thập niên 2000 đến đầu thập niên 2010 phần lớn có thể được phân loại theo các mục sau:[40]

  • Đường phố: tập trung vào tính cá nhân; có màu sắc tươi sáng, kiểu dáng kết hợp và kết hợp, hình in đồ họa và các nhãn hiệu thể thao như Adidas và Reebok.
  • Retro: nhằm mục đích gợi lại "hoài niệm" từ những năm 1960-1980; có họa tiết dấu chấm và hoa văn chi tiết. Các mặt hàng quần áo phổ biến bao gồm áo khoác denim, quần ống rộng, quần ống rộng, băng đô, khăn quàng cổ và kính râm.
  • Gợi cảm: làm nổi bật sự nữ tính và nam tính; có trang phục hở hang làm bằng sa tanh, ren, lông thú và da. Các mặt hàng quần áo phổ biến bao gồm váy mini, áo nịt ngực, tất lưới, giày cao gót, áo vest cộc tay và áo sơ mi xuyên thấu.
  • Đen & Trắng: nhấn mạnh sự hiện đại và sang trọng, tượng trưng cho sự sang trọng và lôi cuốn, chủ yếu được áp dụng cho trang phục trang trọng.
  • Tương lai: thường mặc với các thể loại nhạc điện tử và hip hop; có các mặt hàng màu nổi bật, các chi tiết kim loại và bản in; thúc đẩy một triển vọng tương lai.

100 thần tượng video người lớn hàng đầu mọi thời đại năm 2022

100 thần tượng video người lớn hàng đầu mọi thời đại năm 2022

Một cảnh quay của 2PM — một ví dụ của phong cách gợi cảm.

100 thần tượng video người lớn hàng đầu mọi thời đại năm 2022

MBLAQ biểu diễn "Y" — một ví dụ của phong cách đen & trắng.

K-pop có ảnh hưởng đáng kể đến thời trang ở châu Á, nơi bắt đầu xu hướng của các thần tượng và được khán giả trẻ theo đuổi.[41] Một số thần tượng đã trở thành biểu tượng thời trang, chẳng hạn như G-Dragon,[42] và CL, người từng nhiều lần làm việc với nhà thiết kế thời trang Jeremy Scott, được gọi là "nàng thơ" của anh.[43][44]

Theo giáo sư Ingyu Oh, "K-pop nhấn mạnh vẻ ngoài gầy, cao và nữ tính với biểu cảm khuôn mặt tuổi vị thành niên hoặc đôi khi rất dễ thương, bất kể họ là ca sĩ nam hay nữ."[45]

Lịch sử[sửa | sửa mã nguồn]

Thập niên 1980: Kỷ nguyên nhạc ballad[sửa | sửa mã nguồn]

Thập niên 1980 chứng kiến ​​sự nổi lên của các ca sĩ ballad sau khi album You’re Too Far Away to Get Close to (가까이 하기엔 너무 먼 당신, Gakkai Hagien Neomu Meon Dangsin) năm 1985 của Lee Gwang-jo, đã bán được hơn 300,000 bản. Các ca sĩ ballad nổi tiếng khác bao gồm Lee Moon-se (이문세) và Byun Jin-sub (변진섭), có biệt danh là "Hoàng tử của những bản ballad". Một trong những nhà soạn nhạc ballad được tìm kiếm nhiều nhất trong thời đại là Lee Young-hoon (이영훈), những bài hát của họ đã được biên soạn thành một vở nhạc kịch hiện đại vào năm 2011 với tên Gwanghwamun Yeonga (광화문 연가, Gwanghwamun's Song).[46]

Asia Music Forum được ra mắt vào năm 1980, với đại diện của năm quốc gia châu Á khác nhau tranh tài trong sự kiện này. Ca sĩ Hàn Quốc Cho Yong-pil đã giành được vị trí đầu tiên và tiếp tục có một sự nghiệp thành công, biểu diễn ở Hồng Kông và Nhật Bản. Album đầu tiên Chang bakkui yeoja (창 밖의 여자, Woman outside the window) của ông đã thành công và giúp ông trở thành ca sĩ Hàn Quốc đầu tiên biểu diễn trên sân khấu tại Carnegie Hall ở New York. Các sản phẩm âm nhạc của Cho Yong-pil bao gồm rock, dance, trot và folk-pop.[46] Mặc dù có trải nghiệm sớm với nhạc rock với tư cách là một tay guitar điện tử trong một ban nhạc rock, sự nổi tiếng ban đầu của Cho Yong-pil đến từ những bài hát nhạc trot của ông được yêu thích ở cả Hàn Quốc và Nhật Bản. Ví dụ, vào năm 1976, bài hát nhạc trot của ông, "Please Return to Pusan ​​Port" là một bản hit lớn. Bất chấp thất bại tạm thời do dính líu đến một vụ cần sa vào năm 1977, ông đã cố gắng trở lại với bài hát "The Woman Outside the Window" và đạt doanh thu kỷ lục 1 triệu bản vào năm 1980. Vào năm 1988, ông đã biểu diễn "Seoul Seoul Seoul" bằng ba thứ tiếng (tiếng Hàn, tiếng Anh và tiếng Nhật) để chào mừng Thế vận hội Mùa hè 1988.[47]

Thập niên 1990: Sự phát triển của nhạc K-pop hiện đại[sửa | sửa mã nguồn]

100 thần tượng video người lớn hàng đầu mọi thời đại năm 2022
DJ DOC, một trong những bộ ba hip hop nổi tiếng của thập niên1990.[48]

Trong thập niên 1990, các nghệ sĩ nhạc pop Hàn Quốc đã kết hợp một phần nhạc pop châu Âu và phần lớn các dòng nhạc đại chúng Hoa Kỳ như hip hop, rock, jazz và nhạc dance điện tử vào trong tác phẩm của mình.[49] Vào năm 1992, sự nổi lên của nhóm nhạc Seo Taijiwa aideul đã đánh dấu một thời khắc mang tính cách mạng trong lịch sử K-pop. Bộ ba đã ra mắt trên chương trình tài năng của MBC với bài hát "Nan Arayo" (난 알아요, I Know) và bị ban giám khảo đánh giá thấp nhất;[50] tuy nhiên, bài hát và album cùng tên trở nên thành công đến mức mở đường cho các bài hát khác ở cùng dạng thức. Thành công của bài hát được cho là nhờ vào nhịp điệu lấy cảm hứng từ dòng nhạc new jack swing và phần điệp khúc dễ nhớ, dễ thuộc cũng như phần lời mới mẻ động chạm đến những vấn đề nhức nhối trong xã hội Hàn Quốc. Theo sau sự thành công của họ là một làn sóng nghệ sĩ hip hop và R&B thành công như Yoo Seung-jun, Jinusean, Solid, Deux, 1TYM và Drunken Tiger.[50]

Vào năm 1995, nhà sản xuất âm nhạc người Hàn Quốc Lee Soo-man, người được đào tạo ở Hoa Kỳ và tiếp xúc với các xu hướng âm nhạc Hoa Kỳ, đã thành lập công ty giải trí SM Entertainment. Cựu thành viên của Seo Taiji & Boys, Yang Hyun-suk đã thành lập YG Entertainment vào năm 1996 và Park Jin-young đã thành lập JYP Entertainment vào năm 1997.

Sự nổi tiếng của Seo Taiji & Boys trong giới thanh thiếu niên đã chuyển trọng tâm của ngành công nghiệp âm nhạc Hàn Quốc sang nhạc pop lấy thanh thiếu niên làm trung tâm. Các ban nhạc thần tượng gồm các chàng trai hoặc cô gái trẻ được thành lập để phục vụ cho lượng khán giả đang ngày càng tăng ở lứa tuổi thanh thiếu niên.[50] H.O.T. là một trong những nhóm nhạc nam thần tượng đầu tiên, ra mắt vào năm 1996 sau quá trình đào tạo nghiêm ngặt không chỉ bao gồm kỹ năng ca hát và vũ đạo mà còn cả nghi thức, thái độ, ngôn ngữ và khả năng đối phó với giới truyền thông.[47] Bài hát "Candy" do H.O.T. thể hiện đã trình bày một dạng nhạc pop nhẹ nhàng và nhẹ nhàng hơn với những giai điệu lạc quan và vui tươi kèm theo những bước nhảy đầy năng lượng – một công thức được nhiều nhóm nhạc thần tượng tiếp theo áp dụng. Nhóm đã thành công rực rỡ và các fan đã sao chép kiểu tóc và thời trang của nhóm. Các mặt hàng liên kết với nhóm từ kẹo đến nước hoa cũng được bán. Tiếp nối thành công của họ là các nhóm nhạc thần tượng nam và nữ trẻ như Sechs Kies, S.E.S., Fin.K.L, NRG, Baby Vox, Diva, Shinhwa và g.o.d, những nhóm cũng trở nên phổ biến trong thế hệ trẻ.[47][51]

Vào cuối thập niên 1990, các công ty quản lý tài năng bắt đầu quảng bá các ngôi sao K-pop bằng cách triển khai mô hình kinh doanh thần tượng được sử dụng trong J-pop,[52] nơi các tài năng được lựa chọn và đào tạo để thu hút khán giả toàn cầu thông qua các bài học chính thức hoặc thông qua các chương trình cư trú.[53][54][55] Họ được đào tạo thông qua một quá trình sâu rộng và chuyên sâu bao gồm rèn luyện thể chất và ngôn ngữ (một chương trình đôi khi được gọi là lạm dụng) và họ cũng được lựa chọn về chiều cao, trung bình cao hơn nhiều so với các đồng nghiệp Nhật Bản của họ. Về ngoại hình, "K-pop nhấn mạnh vẻ ngoài gầy, cao và nữ tính với biểu cảm khuôn mặt trẻ trung hoặc đôi khi rất dễ thương, bất kể họ là ca sĩ nam hay nữ", theo giáo sư xã hội học Ingyu Oh.[54] Theo thời gian, các nghệ sĩ người Mỹ gốc Hàn đã trở nên thành công nhờ khả năng ngôn ngữ trôi chảy của họ.[56] Những nỗ lực này làm tăng tính thị trường của K-pop đồng thời tăng cường quyền lực mềm của Hàn Quốc, vốn đã trở thành một phần quan trọng trong chính sách chính thức.[57]

Thập niên 1990 đã chứng kiến ​​một phong trào phản động chống lại văn hóa đại chúng chính thống với sự gia tăng của các câu lạc bộ âm nhạc ngầm bất hợp pháp và ban nhạc punk rock chẳng hạn như Crying Nut.[50] Cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997 đã thúc đẩy các nghệ sĩ Hàn Quốc tìm kiếm thị trường mới: H.O.T. phát hành một album tiếng Quan Thoại,[50] và Diva phát hành một album tiếng Anh ở Đài Loan.[53]

Thế kỷ 21: Sự trỗi dậy của làn sóng Hallyu[sửa | sửa mã nguồn]

Sự phổ biến ngày càng tăng của K-pop tạo nên một phần của Hallyu, hoặc Làn sóng Hàn Quốc: sự phổ biến của văn hóa Hàn Quốc ở các quốc gia khác.[58] K-pop ngày càng xuất hiện nhiều trên các bảng xếp hạng phương Tây như Billboard.[59][60] Sự phát triển của mạng xã hội trực tuyến đã là một công cụ quan trọng cho ngành công nghiệp âm nhạc Hàn Quốc trong việc tiếp cận nhiều khán giả hơn.[61] Như một phần của Làn sóng Hàn Quốc, K-pop đã được chính phủ Hàn Quốc coi là một công cụ để quảng bá quyền lực mềm của Hàn Quốc ra nước ngoài, đặc biệt là đối với giới trẻ nước ngoài.[62][63] Vào tháng 8 năm 2014, tạp chí tin tức nổi bật The Economist của Anh gọi văn hóa đại chúng Hàn Quốc là "Người dẫn đầu xu hướng hàng đầu châu Á".[64]

100 thần tượng video người lớn hàng đầu mọi thời đại năm 2022
Girls' Generation tại SM Town Live NY vào năm 2011.

Vào đầu thế kỷ 21, thị trường K-pop đã xuống dốc và các nhóm nhạc thần tượng K-pop ban đầu thành công trong thập niên 1990 đang suy giảm. H.O.T. tan rã vào năm 2001, trong khi các nhóm nhạc khác như Sechs Kies, S.E.S., Fin.K.L, Shinhwa và g.o.d trở nên ngừng hoạt động vào năm 2005. Các nghệ sĩ solo như BoA và Rain phát triển thành công. Tuy nhiên, thành công của nhóm nhạc nam TVXQ sau khi ra mắt vào năm 2003 đánh dấu sự trỗi dậy của các nhóm nhạc thần tượng trong làng giải trí Hàn Quốc và sự phát triển của K-pop như một phần của Hallyu. Sự ra đời của K-pop thế hệ thứ hai được nối tiếp với sự ra mắt thành công của SS501 (2005), Super Junior (2005), Big Bang (2006), Wonder Girls (2007), Girls' Generation (2007), Kara (2007), Shinee (2008), 2NE1 (2009), 4Minute (2009), T-ara (2009), f(x) (2009) và After School (2009).

Vào đầu thế kỷ 21, các thần tượng K-pop bắt đầu nhận được thành công ở những nơi khác ở châu Á: vào năm 2002, đĩa đơn "Coincidence" của Baby Vox đã trở nên phổ biến ở nhiều nước châu Á sau khi nó được phát hành và quảng bá trong World Cup ở Hàn Quốc. BoA trở thành ca sĩ K-pop đầu tiên đạt vị trí số 1 trên bảng xếp hạng âm nhạc Oricon của Nhật Bản,[65] và ngay sau đó, Rain đã có một buổi biểu diễn cháy vé trước 40,000 người hâm mộ tại Bắc Kinh.[66] Vào năm 2003, Baby Vox đứng đầu bảng xếp hạng âm nhạc Trung Quốc với đĩa đơn tiếng Trung "I'm Still Loving You" từ album thứ ba Devotion, là nhóm nhạc thần tượng đầu tiên làm được điều này, tạo ra một lượng fan khổng lồ ở Trung Quốc. Họ cũng đã lọt vào các bảng xếp hạng âm nhạc khác nhau ở Thái Lan. TVXQ đánh dấu sự trỗi dậy của các nhóm nhạc nam K-pop tại Nhật Bản. Vào năm 2008, đĩa đơn "Purple Line" của họ đã đưa TVXQ trở thành nhóm nhạc nam nước ngoài đầu tiên và nghệ sĩ Hàn Quốc thứ hai sau BoA đứng đầu bảng xếp hạng âm nhạc Oricon.

Kể từ giữa thập niên 2000, một phần lớn thị trường âm nhạc Đông Á đã bị thống trị bởi K-pop.[67] Vào năm 2008, xuất khẩu văn hóa của Hàn Quốc (bao gồm cả phim truyền hình và trò chơi máy tính) đã tăng lên 2 tỷ USD, duy trì tốc độ tăng trưởng hàng năm trên 10%.[68] Vào năm đó, Nhật Bản chiếm gần 68% tổng doanh thu xuất khẩu K-pop, trước Trung Quốc (11,2%) và Hoa Kỳ (2,1%).[69] Việc bán vé cho các buổi hòa nhạc được chứng minh là một công việc kinh doanh béo bở; Tohoshinki Live Tour của TVXQ tại Nhật Bản đã bán được hơn 850,000 vé với chi phí trung bình là 109 USD mỗi vé, tạo ra tổng doanh thu 92,6 triệu USD.[70]

Ở những nơi khác trên thế giới, thể loại này đã nhanh chóng phát triển thành công,[71] đặc biệt là sau khi video âm nhạc "Gangnam Style" của Psy trở thành video YouTube đầu tiên đạt 1 tỷ lượt xem, đạt được mức độ phủ sóng rộng rãi trên các phương tiện truyền thông chính thống.[72][73] Tính đến tháng 12 năm 2020, video đã có 3,9 tỷ lượt xem.[74] Một số nỗ lực thất bại đã được thực hiện bởi các công ty giải trí để thâm nhập vào thị trường nói tiếng Anh, bao gồm BoA, Wonder Girls, Girls' Generation và CL.[75][76][77] BTS đã giành được giải thưởng Nghệ sĩ mạng xã hội hàng đầu tại lễ trao giải Billboard Music Awards năm 2017, khiến họ trở thành nhóm nhạc K-pop đầu tiên giành chiến thắng giải BBMA.[78] Sân khấu biểu diễn bài hát "DNA" của họ tại American Music Awards, buổi biểu diễn AMA đầu tiên của một nhóm nhạc K-pop, cũng dẫn đến việc bài hát đạt vị trí số 67 trên Billboard Hot 100.[79] Vào năm sau, BTS trở thành nhóm nhạc K-pop đầu tiên đạt vị trí số 1 trên Billboard 200 với Love Yourself: Tear.[80] Map of the Soul: Persona của BTS sau đó trở thành album bán chạy nhất tại Hàn Quốc, với hơn 3,2 triệu bản tiêu thụ trong vòng chưa đầy 1 tháng.[81] Vào ngày 15 tháng 5 năm 2019, BTS cũng đã khởi động "Summer Concert Series" của Good Morning America với tư cách là người mở màn tại Central Park ở Manhattan.[82] Vào đêm ngày 31 tháng 12 năm 2019, BTS đã biểu diễn tại Quảng trường Thời đại của thành phố New York cho đêm giao thừa năm 2020 trong chương trình Dick Clark's New Year's Rockin' Eve, trước 1 triệu khán giả và hơn 1 tỷ khán giả xem truyền hình.[83]

Văn hoá[sửa | sửa mã nguồn]

Các nghệ sĩ K-pop thường được gọi là thần tượng hoặc nhóm nhạc thần tượng.[84] Các nhóm nhạc thường có một nhóm trưởng, người này thường là thành viên lớn tuổi nhất hoặc có kinh nghiệm lâu nhất và là người phát biểu thay cho nhóm. Thành viên trẻ nhất trong nhóm được gọi là maknae (막내).[85] Việc sử dụng phổ biến thuật ngữ này ở Nhật Bản bị ảnh hưởng bởi nhóm nhạc nam SS501 khi họ mở rộng hoạt động của mình trong nước vào năm 2007. Bản dịch tiếng Nhật của nó, man'ne (マンネ) thường được dùng để đặt tên cho thành viên nhỏ tuổi nhất của nhóm Kim Hyung-jun để phân biệt anh với trưởng nhóm bằng tên và cách viết tương tự, Kim Hyun-joong.[86]

Sức hút và cộng đồng người hâm mộ[sửa | sửa mã nguồn]

100 thần tượng video người lớn hàng đầu mọi thời đại năm 2022
Người hâm mộ (VIP) của Big Bang cầm gậy ánh sáng hình vương miện trong buổi hòa nhạc: đây là biểu tượng của câu lạc bộ người hâm mộ.

Không phải tất cả người hâm mộ K-pop đều là phụ nữ trẻ;[87] vào năm 2018, tạp chí Metro đã phỏng vấn những người hâm mộ K-pop nam ở các quốc tịch khác nhau, họ đã nói về việc theo dõi các nhóm nhạc pop nam và trở thành một phần trong cộng đồng người hâm mộ của họ đã giúp họ hiểu bản thân và khái niệm nam tính hơn như thế nào.[88]

Nhiều người hâm mộ đi du lịch nước ngoài để xem thần tượng của họ trong chuyến lưu diễn, và khách du lịch thường đến Hàn Quốc từ Nhật Bản và Trung Quốc để xem các buổi hòa nhạc K-pop.[89] Một nhóm du lịch K-pop đến từ Nhật Bản với hơn 7,000 người hâm mộ đã bay đến Seoul để gặp gỡ nhóm nhạc nam JYJ vào năm 2012,[90] và trong buổi biểu diễn của JYJ tại Barcelona vào năm 2011, người hâm mộ từ nhiều nơi trên thế giới đã cắm trại qua đêm để được vào cửa.[91] Một cuộc khảo sát năm 2011 do Sở Văn hóa và Thông tin Hàn Quốc thực hiện đã báo cáo rằng có hơn 3 triệu thành viên tích cực của các câu lạc bộ người hâm mộ Hallyu.[92]

Một bài báo của The Wall Street Journal chỉ ra rằng sức mạnh tồn tại trong tương lai của K-pop sẽ được định hình bởi người hâm mộ, những người có các hoạt động trực tuyến đã phát triển thành "doanh nghiệp vi mô".[93] Các nhóm nhạc K-pop thường có các câu lạc bộ người hâm mộ dành riêng với tên tập thể và đôi khi là một màu sắc riêng,[94][95] mà họ sẽ phát hành hàng hóa. Ví dụ, người hâm mộ của TVXQ được gọi là Cassiopeia, và màu sắc chính thức của họ là màu đỏ ngọc trai. Một số nhóm nổi tiếng hơn đã cá nhân hóa gậy ánh sáng để sử dụng tại các buổi hòa nhạc; ví dụ: người hâm mộ của Big Bang cầm gậy ánh sáng hình vương miện màu vàng.[96]

100 thần tượng video người lớn hàng đầu mọi thời đại năm 2022
Vòng hoa gạo cho nhóm nhạc nam Hàn Quốc Exo.

Các câu lạc bộ người hâm mộ đôi khi tham gia các sự kiện từ thiện để ủng hộ thần tượng của họ, mua những vòng hoa gạo để thể hiện sự ủng hộ. Những bao gạo được quyên góp cho những người khó khăn.[97] Theo Time, cho một trong những buổi biểu diễn của Big Bang, 12,7 tấn gạo đã được quyên góp từ 50 câu lạc bộ người hâm mộ trên khắp thế giới. Có những doanh nghiệp ở Hàn Quốc chuyên vận chuyển gạo từ nông dân đến địa điểm.[98] Một cách khác mà các câu lạc bộ người hâm mộ thể hiện sự tận tâm của họ là gửi bữa trưa cho thần tượng trong lịch trình của họ và có những công ty cung cấp dịch vụ ăn uống ở Hàn Quốc dành riêng cho mục đích này.[99]

Một tính năng độc đáo của fandom K-pop là "fan chant". Khi một nhóm nhạc thần tượng phát hành một bài hát mới, những câu hô, thường bao gồm tên của các thành viên trong nhóm, được thực hiện bởi khán giả của buổi hòa nhạc trực tiếp trong những phần nhạc của bài hát.[100]

Sự ám ảnh[sửa | sửa mã nguồn]

Một số thần tượng và nhóm nhạc thần tượng đã phải đối mặt với vấn đề từ những người hâm mộ quá khích, những người thích hành vi rình rập hoặc xâm phạm. Những người hâm mộ này được gọi là sasaeng, từ tiếng Hàn có nghĩa là "cuộc sống riêng tư", ám chỉ xu hướng xâm phạm quyền riêng tư của thần tượng và thành viên của các nhóm nhạc thần tượng. Đã có những lời kể về những hành vi quá khích của người hâm mộ khi cố gắng thu hút sự chú ý của thần tượng.[101] Các quan chức Hàn Quốc công nhận đây là một mối quan tâm duy nhất nhưng nghiêm túc.[102]

Một số thần tượng đã phản ứng giận dữ đối với sasaeng fan, vì họ đã nhận được hành vi quá khích; bao gồm các thành viên của JYJ, thành viên Kim Hee-chul của Super Junior và Jang Keun-suk.[101][103][104]

Để đối phó với vấn đề này, một luật mới được thông qua vào tháng 2 năm 2016 ở Hàn Quốc cho thấy hình phạt cho hành vi rình rập tăng lên khoảng 17,000 USD và cũng có thể là 2 năm tù.[105]

Truyền thông xã hội[sửa | sửa mã nguồn]

Các trang web truyền thông xã hội như YouTube, Twitter và Facebook cho phép các nghệ sĩ K-pop tiếp cận khán giả toàn cầu và tương tác dễ dàng với người hâm mộ của họ.[106] Khi doanh thu thị trường âm nhạc trực tuyến toàn cầu tăng 19% từ năm 2009 đến năm 2014 với phương tiện truyền thông xã hội, người tiêu dùng âm nhạc trên khắp thế giới có nhiều khả năng tiếp xúc với K-pop hơn.[107] Các nhóm nhạc thần tượng K-pop được hưởng lợi từ các phương tiện truyền thông xã hội dựa trên video như YouTube vì các yếu tố hình ảnh như vũ đạo và thời trang là những yếu tố thiết yếu trong hoạt động của họ. Số lượng tìm kiếm "K-pop" trên YouTube tăng 33 lần từ năm 2004 đến năm 2014. Thông qua quảng cáo trên mạng xã hội, các công ty giải trí Hàn Quốc đã thu hẹp khoảng cách văn hóa để K-pop có thể thâm nhập thị trường toàn cầu và được người tiêu dùng nước ngoài công nhận. Xuất khẩu của K-pop tăng đáng kể từ 13,9 triệu USD lên 204 triệu USD từ năm 2007 đến 2011.[107] Mạng xã hội cũng thay đổi cách tiêu dùng nhạc K-pop. Trước kỷ nguyên kỹ thuật số, mọi người sẽ mua và tiêu thụ các sản phẩm âm nhạc trên cơ sở cá nhân. Người tiêu dùng hiện nay tích cực tham gia chia sẻ các sản phẩm âm nhạc và quảng cáo các nghệ sĩ họ yêu thích, đây là một lợi thế cho K-pop.

YouTube[sửa | sửa mã nguồn]

100 thần tượng video người lớn hàng đầu mọi thời đại năm 2022
Psy, có video âm nhạc cho "Gangnam Style" vào tháng 12 năm 2012 đã trở thành video đầu tiên đạt hơn 1 tỷ lượt xem trên YouTube.[108]

Kể từ khi ngành công nghiệp K-pop bắt đầu lan rộng ra ngoài Hàn Quốc, các nghệ sĩ K-pop đã lập nhiều kỷ lục đáng chú ý trên YouTube. Trong tổng số 2,28 tỷ lượt xem YouTube K-pop trên toàn thế giới vào năm 2011, 240 triệu đến từ Hoa Kỳ, cao hơn gấp đôi so với con số của năm 2010 (94 triệu).[cần dẫn nguồn] Vào tháng 12 năm 2011, K-pop trở thành thể loại âm nhạc dành riêng cho từng quốc gia đầu tiên có trang chủ trên YouTube.[106] Vào tháng 12 năm 2012, video âm nhạc của Psy cho "Gangnam Style" đã trở thành video YouTube đầu tiên đạt được 1 tỷ lượt xem.[109] Vào năm 2016, video âm nhạc cho "TT" của Twice đã trở thành video đầu tiên của một nữ ca sĩ Hàn Quốc đạt hơn 400 triệu lượt xem trên YouTube.[110] Vào ngày 21 tháng 1 năm 2019, video âm nhạc của nhóm nhạc nữ Blackpink cho "Ddu-Du-Ddu-Du" đã trở thành video âm nhạc của nhóm nhạc K-pop có lượt xem cao nhất trên YouTube.[111] Vào ngày 12 tháng 4 năm 2019, video âm nhạc của BTS cho "Boy with Luv" đã lập kỷ lục cho video âm nhạc trực tuyến được xem nhiều nhất trong 24 giờ đầu tiên, thu về hơn 74 triệu lượt xem.[112]

Twitter[sửa | sửa mã nguồn]

Twitter cũng là một nền tảng truyền thông xã hội quan trọng để các ngôi sao K-pop có được kết nối và quảng bá.[113] Bài hát lan truyền "Gangnam Style" đã trở nên phổ biến nhờ những đề cập của những người dùng Twitter nổi bật.[113] Bang Si-hyuk, nhà sản xuất của BTS, cho rằng sự phát triển nhanh chóng của cộng đồng người hâm mộ là nhờ vào các phương tiện truyền thông xã hội như Twitter.[114] Vào ngày 13 tháng 11 năm 2017, BTS đã trở thành nghệ sĩ Hàn Quốc đầu tiên đạt 10 triệu người theo dõi trên Twitter.[115][116] Vào năm 2017, BTS là nghệ sĩ được tweet về nhiều nhất cả ở Hoa Kỳ và trên toàn cầu. Các nhóm nhạc K-pop khác, chẳng hạn như Seventeen và Monsta X, cũng xuất hiện trong top 10 toàn cầu. Exo, một nhóm nhạc nam Hàn Quốc, là người nổi tiếng gia nhập Twitter vào năm 2017 được theo dõi nhiều nhất.[117] Tại lễ trao giải Billboard Music Awards năm 2017, 2018 và 2019, BTS đã giành được giải thưởng Nghệ sĩ mạng xã hội hàng đầu dựa trên sự bình chọn của người hâm mộ trên Twitter.[118][119][120] Theo Sin Chang Seob, CEO của Twitter Hàn Quốc, việc sử dụng Twitter của các nghệ sĩ K-pop đã làm tăng mức độ phổ biến của Twitter đối với người dân Hàn Quốc.[121]

Facebook[sửa | sửa mã nguồn]

Nhiều công ty giải trí Hàn Quốc sử dụng các nền tảng truyền thông xã hội, đặc biệt là Facebook, để quảng bá và phát động các buổi thử giọng toàn cầu của họ.[106] Các nhóm nhạc K-pop sử dụng các trang Facebook để quảng bá âm nhạc và các nội dung khác của họ tới số lượng lớn người hâm mộ.[122] Người hâm mộ K-pop sử dụng Facebook để bày tỏ sự tận tâm của họ, giao tiếp với các thành viên khác của cộng đồng K-pop và tiêu thụ nội dung K-pop.

Nhạc Hàn lời Việt[sửa | sửa mã nguồn]

Những năm 1980 - 2000[sửa | sửa mã nguồn]

Làn sóng Hàn Quốc lan tỏa ra khắp châu Á từ đầu thế kỷ 21, bắt đầu với những bộ phim truyền hình tâm lý tình cảm dành cho các bà nội trợ trung niên, đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến nền giải trí Việt Nam.[124] Nhiều ca sĩ V-pop lúc bấy giờ đã hát lại hoặc phối lại nhạc Hàn bằng tiếng Việt, trong đó có cả những ca khúc nhạc phim đình đám:[125]

STT Tên bài hát gốc (romaja) Tên tiếng Anh Nghệ sĩ thể hiện Năm phát hành Tên bài hát phiên bản Việt Nam
1 사랑 (Sarang) Love Song Jang Dong Gun 1998 Bài Ca Tình Yêu - Lam Trường
2 Don't Go Baby Ahn Jae-wook 1998 Don't Go Baby - Bằng Kiều
3 Run To You DJ Doc 2000 Khóc Cho Yêu Thương - Thanh Thảo
4 사랑해 (Saranghae) I Love You Jewelry 2002 Em Thích Anh - H.A.T
5 처음부터 지금까지 (Cheoeumbuteo Jigeumkkaji) (nhạc phim Bản tình ca mùa đông) From the Beginning Till Now Park Yong-ha 2002 Bản Tình Ca Mùa Đông - Tuấn Hưng
6 달아달아 (Dara Dara) Run Away Lee Jung Hyun 2002 Bí Ẩn Vầng Trăng - Ngô Thanh Vân
7 Honey Park Jin-young 1998 Đừng Lừa Dối - Lam Trường
8 No.1 BoA 2002 Tình Yêu Mãi Xanh - Nhóm Mây Trắng
9 The Best Kim Yoo-jin (Eugene) 2003 Bến Bờ Xanh[126] - Nhóm The Bells
10 10 Minutes Lee Hyori 2003 Baby Xin Anh Đừng Quay Gót - Bảo Thy
11 Y (Please Tell Me Why) Free Style 2004 Please Tell Me Why - Bảo Thy, Vương Khang
12 보고 싶다 (Bogo Shipta) (nhạc phim Nấc thang lên thiên đường) I Miss You Kim Bum Soo 2004 Nấc Thang Lên Thiên Đường - Bằng Kiều
13 Never Say Goodbye (nhạc phim Cô em họ bất đắc dĩ) Park So-bin, Mario, Song Bo-ram, Go Eun-ju 2005 Never Say Goodbye - Thanh Thảo, Lil' Knight
14 끝사랑 (Kkeut Sarang) Last Love Kim Bum Soo 2005 Tình Cuối - Khánh Du
15 너 (Nuh) You Lee Jung Hyun 2000 Khúc Xuân Tình - Bảo Hân
16 다소 (Daso) MayBee 2006 Em Vẫn Tin - Hồ Lệ Thu
17 Always Turbo 1997
  • Chén Tình Buồn - Anh Tú, Debbie Pope
  • Tình Đầu Khó Quên - Minh Tuyết
  • Tình Cay Đắng - Johnny Dũng
  • Tưởng Đã Phôi Pha - Jimmii Nguyễn
  • Dấu Yêu Xa Rồi - Hạ Vy, Vina Uyển My
  • Mơ Trong Giấc Mộng - D&D
  • Yêu Anh Đến Thế - Nguyễn Đức & Tú Linh
18 영원히 (Yeong Wonhi) (nhạc phim Ước mơ vươn tới một ngôi sao) Forever Ahn Jae-wook 1997
  • Mãi Mãi - Lam Trường
  • Mãi Yêu Em - Bằng Kiều
19 너를 사랑하고도 (Neoleul Salanghagodo) Even If I Love You Jeon Yoo-na 1991
  • Từ Khi Có Nhau - La Sương Sương
  • Phút Ban Đầu - Lưu Bích
20 나 같은건 없는 건가요 (Na Gateungeon Eopsneun Geongayo) Don't Go Away Chu Ga-yeoul 2002
  • Chỉ Là Giấc Mơ Qua - Lưu Bích
  • Khúc Vĩ Cầm Xưa - Don Hồ
21 희나리 (Heenari) Koo Chang-mo 1985 Xa Em Kỷ Niệm - Nini
22 주어진 시간 끝에서 (Jueojin Sigan Kkeuteseo) Yurisangja 1997 Chốn Xưa - Anh Tú
23 토요일은밤이좋아 (Toyoireunbamijoa) Like A Night On Saturday Kim Jong-chan 1988 Con Tim Yêu Đời - Don Hồ
24 왜불러 (Wae Bulleo) Why Do You Call Diva 1998
  • Đường Chiều Rộn Vui - Hạ Vy
  • Đừng Phá Vỡ Ân Tình - Minh Tuyết, Johnny Dũng
  • Tiếng Chuông Đêm - Phương Thanh
  • Breaking The Rule - Don Hồ
25 너를 사랑해 (Noreul Saranghae) I Love You Han Dong-joon 1993 Người Tình Ơi Đừng Xa - Minh Tuyết

Từ 2008 - nay[sửa | sửa mã nguồn]

Từ quãng năm 2008 trở đi với những bản hit K-pop như "Nobody" (Wonder Girls), "Haru Haru" (Big Bang) hay "Mirotic" (TVXQ),[127] và đặc biệt là từ khi bộ phim truyền hình thần tượng "Boys Over Flowers" lên sóng vào năm 2009 đã tạo nên cơn sốt hâm mộ cuồng nhiệt trên toàn châu Á, giúp cho làn sóng Hàn Quốc hồi sinh theo hướng trẻ trung hóa, năng động hóa. Cũng từ năm 2009 là sự bùng nổ của dòng nhạc K-pop và sự ra đời của hàng loạt nhóm nhạc thần tượng Hàn Quốc mới.[128] Nhiều ca khúc đình đám đã được hát lại hay phối lại bằng tiếng Việt như:

STT Tên bài hát gốc (romaja) Tên tiếng Anh Nghệ sĩ thể hiện Năm phát hành Tên bài hát phiên bản Việt Nam
1 Missing You F.T. Island 2009 Anh Nhớ Em - Thái Triệu Luân
2 Sorry, Sorry Super Junior 2009 Cơ Hội Yêu - Kio Band
3 내 머리가 나빠서 (Nae Meoliga Nappaseo) - Nhạc phim Boys Over Flowers Because I'm Stupid SS501 2009
  • Vì tôi là chàng ngốc - Minh Quân
  • Chàng Khờ Đáng Yêu - Khánh Phương
  • Mất Em (2009) - Noo Phước Thịnh
4 Stand By Me - Nhạc phim Boys Over Flowers Shinee 2009 Gần Bên Anh - Noo Phước Thịnh
5 Nobody Wonder Girls 2009
  • Nobody - nhóm Mây Trắng
  • Không Yêu Lần Nữa - Vĩnh Thuyên Kim
  • Rắc Rối Tình Yêu - Vũ Hà
6 So Hot So Hot Wonder Girls 2009 Khóc Khi Người Đi - nhóm Mây Trắng
7 바래 (Ba Rae) I Hope FT Island 2010 Nguyện Ước - Khánh Phương
8 Fiction Beast 2011
  • Thả Gió - Lil'S
  • Thả Gió - Như Hexi
9 라라라 (La La La) La La La Suki (숙희) 2012 Ngày Hạnh Phúc - Bằng Cường
10 죽을만큼 아파서 (Jukeulmangeum Appaseo) Sick Enough To Die MC Mong feat. Mellow 2012
  • Điều Buồn Tênh - Quang Vinh
  • Vệt Nắng - Lân Nhã
  • Buồn Không Thể Buông - Phí Phương Anh, RIN9, MiiNa
11 배드 걸스 (Baedu geolseu) Bad Girls Lee Hyori 2013 Leave Me Alone - Bảo Anh, Đông Nhi
12 Give Love AKMU 2014 Màu Mắt Em - Jack
13 환청 (Hwan cheong) (Nhạc phim Kill Me, Heal Me) Auditory Hallucination Jang Jae-in ft Na Show 2011 Trách Ai Bây Giờ? - Đông Nhi
14 Aha Kara 2010 Hey Boy - Khởi My
15 Western Sky Lee Seung Chul 2012 Khoảng Trời Không Có Em - Tăng Phúc

Danh sách nghệ sĩ K-pop[sửa | sửa mã nguồn]

Xem thêm[sửa | sửa mã nguồn]

  • K-pop toàn cầu
  • Thần tượng Hàn Quốc
    • Thần tượng K-pop
  • Làn sóng Hàn Quốc
  • Phim truyền hình Hàn Quốc
  • Âm nhạc Hàn Quốc
  • Nhạc nhẹ Bắc Triều Tiên
  • Công nghiệp âm nhạc Đông Á

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Hartong, Jan Laurens (2006). Musical terms worldwide: a companion for the musical explorer. Semar Publishers. tr. 15. ISBN 978-88-7778-090-4. Truy cập ngày 5 tháng 12 năm 2011. Since the 1990s, popular genres like rap, rock and techno house have been incorporated into Korean popular music, setting the trend for the present generation of K-pop, which often emulates American models.
  2. ^ Laurie, Timothy (2016), “Toward a Gendered Aesthetics of K-Pop”, Global Glam and Popular Music: Style and Spectacle from the 1970s to the 2000s: 214–231
  3. ^ Cho, Chung-un (ngày 23 tháng 3 năm 2012). “K-pop still feels impact of Seo Taiji & Boys”. The Korea Herald. Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2016.
  4. ^ “The Root of K-Pop: The Influences of Today's Biggest Acts”. Billboard. Truy cập ngày 16 tháng 7 năm 2017.
  5. ^ “South Korea's pop-cultural exports: Hallyu, yeah!”. The Economist. ngày 25 tháng 1 năm 2010. Truy cập ngày 23 tháng 3 năm 2019.
  6. ^ JungBong., Choi (2014). K-pop - The International Rise of the Korean Music Industry. Maliangkay, Roald. Hoboken: Taylor and Francis. tr. 66–80. ISBN 9781317681809. OCLC 890981690.
  7. ^ Song, Cheol-min (2016). K-pop Beyond Asia. Korea: 길잡이미디어. tr. 37–46. ISBN 9788973755981.
  8. ^ “케이팝”. terms.naver.com.
  9. ^ “정보길잡이 상세보기 | 국립중앙도서관”. www.nl.go.kr. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 6 năm 2017. Truy cập ngày 28 tháng 9 năm 2021.
  10. ^ Kelley, Caitlin (ngày 3 tháng 4 năm 2019). “K-Pop Is More Global Than Ever, Helping South Korea's Music Market Grow Into A 'Power Player'”. Forbes. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2020.
  11. ^ “2021 State of the Industry” (PDF). International Federation of the Phonographic Industry. ngày 23 tháng 3 năm 2021. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 25 tháng 3 năm 2021. Truy cập ngày 23 tháng 3 năm 2021.
  12. ^ “K-pop Music: For the Eyes or For the Ears?”. Seoulbeats. ngày 1 tháng 10 năm 2011. Truy cập ngày 27 tháng 3 năm 2012.
  13. ^ Rousee-Marquet, Jennifer (ngày 29 tháng 11 năm 2012). “K-pop: the story of the well-oiled industry of standardized catchy tunes”. Institut national de l'audiovisuel. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 11 năm 2013. Truy cập ngày 25 tháng 1 năm 2013. K-pop is a fusion of synthesized music, sharp dance routines and fashionable and colorful outfits.
  14. ^ “NYT Draws Attention to K-Pop Idol-Making Factories”. Chosun Ilbo. Truy cập ngày 28 tháng 12 năm 2012.
  15. ^ Yang, Jeff. “Can Girls' Generation Break Through in America?”. The Wall Street Journal. Truy cập ngày 25 tháng 1 năm 2013. The management firms pay for everything; leading talent house S.M. Entertainment has pegged the cost of rearing a single idol at around $3 million, which for Girls' Generation would be multiplied by nine.
  16. ^ Choi, JungBong and Roald Maliangkay (2015). K-pop – The International Rise of the Korean Music Industry. New York: Routledge. ISBN 9781138775961.
  17. ^ Doboo Shim (2005). “Hybridity and the rise of Korean popular culture in Asia”. National University of Singapore. 28: 25–44. CiteSeerX 10.1.1.489.921. doi:10.1177/0163443706059278. S2CID 204327176.
  18. ^ Eun-Young Jung (2009). “Transnational Korea: A Critical Assessment of the Korean Wave in Asia and the United States” (PDF). Southeast Review of Asian Studies. University of California, San Diego. 31: 69–80. CiteSeerX 10.1.1.458.9491. ISSN 1083-074X. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 13 tháng 4 năm 2014. Truy cập ngày 13 tháng 4 năm 2014.
  19. ^ Lyan, Irina. “Hallyu across the Desert: K-pop Fandom in Israel and Palestine”. Cross-Currents: East Asian History and Culture Review. Truy cập ngày 19 tháng 1 năm 2015.
  20. ^ a b Chace, Zoe (ngày 12 tháng 10 năm 2012). “Gangnam Style: Three Reasons K-Pop Is Taking Over The World”. NPR. Truy cập ngày 26 tháng 12 năm 2012.
  21. ^ “12 Concepts and Styles in K-Pop”. The Odyssey Online (bằng tiếng Anh). ngày 8 tháng 2 năm 2016. Truy cập ngày 15 tháng 11 năm 2018.
  22. ^ Kallen, Stuart A. (2014). K-Pop: Korea's Musical Explosion. Twenty-First Century Books. tr. 37–38. ISBN 9781467720427.
  23. ^ Ramstad, Evan. “Korea Counts Down Not Just To New Year, But to New Girls' Album”. The Wall Street Journal. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 6 năm 2013. Truy cập ngày 5 tháng 1 năm 2013. K-pop news sites for the past couple of weeks have seemed to have some new video or bit of Girls-related gossip to chew over once or twice a day. There's been a "drama" teaser and a "dance" teaser (that's the one above) and countdown videos from each of the group's nine members... One of the unique things about album releases by K-pop artists is that they are routinely called 'comebacks' even when there's been no evidence that the musician or group went away or, in the conventional sports usage of the term, experienced a setback or loss.
  24. ^ 정, 준화 (ngày 9 tháng 4 năm 2018). “[SC현장] "롤모델은 방탄소년단"...느와르, 벌써 '핫' 한 9인조 (종합)”. 스포츠조선 (bằng tiếng Hàn). Truy cập ngày 9 tháng 3 năm 2019.
  25. ^ “유튜브 센세이션, 그루브네이션(Groove Nation)과 인터뷰”. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 12 năm 2017. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2017.
  26. ^ “K-pop's second wave”. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2017.
  27. ^ “K-Pop success for easy choreography”. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2017.
  28. ^ a b “K-Pop takes America: how South Korea's music machine is conquering the world”. The Verge. ngày 18 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2017.
  29. ^ a b c “Inside the Intense Training Centers Where Young Girls Compete to Be K-Pop Stars”. Broadly (bằng tiếng Anh). ngày 5 tháng 10 năm 2016. Truy cập ngày 15 tháng 10 năm 2018.
  30. ^ a b c “Behind the Scenes in K-pop: Interview with SM Choreographer Rino Nakasone - Beyond Hallyu”. Beyond Hallyu (bằng tiếng Anh). ngày 26 tháng 4 năm 2013. Truy cập ngày 15 tháng 10 năm 2018.
  31. ^ a b Herald, The Korea (ngày 30 tháng 1 năm 2018). “[Video] Exploring the art of K-pop dance”. Truy cập ngày 17 tháng 10 năm 2018.
  32. ^ a b Jin, Dal Yong (ngày 20 tháng 4 năm 2017). Critical Discourse of K-pop within Globalization (bằng tiếng Anh). 1. University of Illinois Press. doi:10.5406/illinois/9780252039973.003.0006. ISBN 9780252098147.
  33. ^ Lie, John (2012). “What Is the K in K-pop? South Korean Popular Music, the Culture Industry, and National Identity”. Korea Observer. 43: 339–63.
  34. ^ a b John, Lie (ngày 24 tháng 11 năm 2014). K-pop: popular music, cultural amnesia, and economic innovation in South Korea. Oakland, California. ISBN 9780520958944. OCLC 893686334.
  35. ^ Herald, The Korea (ngày 18 tháng 10 năm 2017). “[Herald Interview] Girls' Generation's stylist caps K-pop fashion industry over years” (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 7 tháng 5 năm 2018.
  36. ^ “1990s Fashion: Styles, Trends, History & Pictures”. www.retrowaste.com (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 7 tháng 5 năm 2018.
  37. ^ a b KWAK, NOJIN; RYU, YOUNGJU (2015). Lee, Sangjoon; Nornes, Abé Mark (biên tập). Hallyu 2.0: The Korean Wave in the Age of Social Media. University of Michigan Press. doi:10.3998/mpub.7651262. ISBN 9780472072521. JSTOR 10.3998/mpub.7651262.
  38. ^ Shim, Doobo (2006). “Hybridity and the Rise of Korean Popular Culture in Asia”. Media, Culture & Society. 28: 29. doi:10.1177/0163443706059278. S2CID 204327176.
  39. ^ Jin, DAL Yong (2016). “Critical Discourse of K-pop within Globalization”. Trong JIN, DAL YONG (biên tập). New Korean Wave. Transnational Cultural Power in the Age of Social Media. University of Illinois Press. tr. 111–130. doi:10.5406/illinois/9780252039973.001.0001. ISBN 9780252039973. JSTOR 10.5406/j.ctt18j8wkv.9.
  40. ^ Kim, Yun (Spring 2012). “K-pop 스타의 패션에 관한 연구” (PDF). Journal of the Korean Society of Fashion Design. 12 (2): 17–37.
  41. ^ “K-pop's slick productions win fans across Asia”. Inquirer. ngày 21 tháng 9 năm 2011. Truy cập ngày 2 tháng 4 năm 2012.
  42. ^ “G-Dragon Voted Best-Dressed Celebrity of the Year”. The Chosun Ilbo. ngày 25 tháng 12 năm 2012. Truy cập ngày 2 tháng 3 năm 2017.
  43. ^ PAPERMAG (ngày 26 tháng 8 năm 2015). “Jeremy Scott and CL On Moschino, Pop Culture and the Power Of Girls”. PAPERMAG. Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2016.
  44. ^ “Bow Down To The Ultimate Besties Jeremy Scott And CL In 'Paper' Mag”. MTV News. Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2016.
  45. ^ Oh, Ingyu. “The Globalization of K-pop: Korea's Place in the Global Music Industry”: 402. Truy cập ngày 15 tháng 1 năm 2020.
  46. ^ a b K-Pop: A New Force in Pop Music, pp. 60–61
  47. ^ a b c Lỗi chú thích: Thẻ sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên :11
  48. ^ “DJ DOC”. KBS World. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2012.
  49. ^ Hartong, Jan Laurens (2006). Musical terms worldwide: a companion for the musical explorer. Semar Publishers. tr. 15. ISBN 978-88-7778-090-4. Since the 1990s, popular genres like rap, rock and techno house have been incorporated into Korean popular music... which often emulates American models.
  50. ^ a b c d e K-Pop: A New Force in Pop Music, pp. 63–66
  51. ^ MacIntyre, Donald (ngày 29 tháng 7 năm 2002). “Flying Too High?”. Time. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 7 năm 2002. Truy cập ngày 3 tháng 7 năm 2012.
  52. ^ Gingold, Naomi (ngày 8 tháng 1 năm 2019). “Why The Blueprint For K-Pop Actually Came From Japan”. National Public Radio. Truy cập ngày 22 tháng 3 năm 2020.
  53. ^ a b Shim, Doobo. “Hybridity and the rise of Korean popular culture in Asia”. Media, Culture & Society: 29.
  54. ^ a b Oh, Ingyu (2013). “The Globalization of K-pop: Korea's Place in the Global Music Industry”. Korea Observer. 44 (3): 389–409.
  55. ^ “Critical Interpretation of Hybrid K-Pop: The Global-Local Paradigm of English Mixing in Lyrics”. Popular Music & Society. 37: 120.
  56. ^ “Critical Interpretation of Hybrid K-Pop: The Global-Local Paradigm of English Mixing in Lyrics”. Popular Music & Society. 37: 119.
  57. ^ Walsh, John. Korean Wave. tr. 20–21.
  58. ^ Ryoo, Woongjae (2009). “Globalization, or the logic of cultural hybridization: The case of the Korean wave”. Asian Journal of Communication. 19 (2): 139. doi:10.1080/01292980902826427. S2CID 144161463.
  59. ^ “Breaking & Entering: The Wonder Girls”. Billboard. Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2016.
  60. ^ “K-Pop Hot 100: BIGBANG Is Unstoppable”. Billboard. Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2016.
  61. ^ Oliver, Christopher. “South Korea's K-pop takes off in the west”. Financial Times. Truy cập ngày 11 tháng 10 năm 2012.
  62. ^ Constant, Linda (ngày 23 tháng 9 năm 2012). “K-Pop Soft Power for the SK Government”. Huffington Post.
  63. ^ “South Korea pushes its pop culture abroad”. BBC. ngày 8 tháng 11 năm 2011. Truy cập ngày 7 tháng 9 năm 2012.
  64. ^ South Korea’s soft power: Soap, sparkle and pop The Economist (ngày 9 tháng 8 năm 2014). Truy cập ngày 12 tháng 8 năm 2014.
  65. ^ “The first video on MTV K: BoA "My Name"”. MTV K. ngày 26 tháng 6 năm 2006. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 7 năm 2006. Truy cập ngày 29 tháng 9 năm 2008.
  66. ^ K-Pop: A New Force in Pop Music, pp. 67–71
  67. ^ “K-pop: the story of the well-oiled industry of standardized catchy tunes”. INA Global. Truy cập ngày 2 tháng 5 năm 2013.
  68. ^ “South Korea's K-pop craze lures fans and makes profits”. BBC. ngày 26 tháng 4 năm 2011. Truy cập ngày 2 tháng 5 năm 2013. According to South Korea's Trade and Investment Agency, income from cultural exports like pop music and TV shows has been rising by about 10% a year. In 2008, it was worth almost $2bn.
  69. ^ “K-pop: the story of the well-oiled industry of standardized catchy tunes”. INA Global. Truy cập ngày 2 tháng 5 năm 2013. It accounts for most of K-pop albums’ overseas sales. As of 2008, Japan accounted for 68 percent of Korea’s total music industry exports in 2008, while the Chinese and U.S. markets accounted for only 11.2 percent and 2.1 percent, respectively.
  70. ^ “TVXQ rakes in over $92 million in overseas concert revenues”. Allkpop. Truy cập ngày 3 tháng 5 năm 2013.
  71. ^ “How Korean culture stormed the world”. South China Morning Post (bằng tiếng Anh).
  72. ^ “Gangnam Style hits one billion views on YouTube”. BBC News. ngày 21 tháng 12 năm 2012. Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2016.
  73. ^ “Gangnam Style statue built in South Korea's Seoul”. BBC News. ngày 6 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2016.
  74. ^ officialpsy (ngày 15 tháng 7 năm 2012), PSY - GANGNAM STYLE(강남스타일) M/V, truy cập ngày 20 tháng 12 năm 2020
  75. ^ CHOE SANG-HUN; MARK RUSSELL (ngày 4 tháng 3 năm 2012). “Bringing K-Pop to the West”. The New York Times. Truy cập ngày 12 tháng 9 năm 2012.
  76. ^ “K-Pop Idols And The Formidable American Debut - KultScene”. KultScene (bằng tiếng Anh). ngày 22 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2016.
  77. ^ Benjamin, Jeff (ngày 6 tháng 3 năm 2015). “Will a K-Pop Girl Group Take Over the U.S. Soon (Or Ever)?”. Billboard. Truy cập ngày 20 tháng 7 năm 2018.
  78. ^ Liu, Marian. “K-pop band BTS beats US stars to win Billboard Music Award”. CNN. Truy cập ngày 13 tháng 9 năm 2017.
  79. ^ Gore, Sydney. “Watch BTS make their official U.S. television debut at the American Music Awards”. The FADER (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 10 tháng 3 năm 2018.
  80. ^ “On the Charts: BTS Become First K-Pop Act to Reach Number One”. Rolling Stone. ngày 27 tháng 5 năm 2018.
  81. ^ 방탄소년단, 가온차트 음반·다운로드 1위 '2관왕' [BTS, Gaon Music Chart No. 1] (bằng tiếng Hàn). Naver. ngày 9 tháng 5 năm 2019. Truy cập ngày 15 tháng 5 năm 2019.
  82. ^ 'Good Morning America' 2019 Summer Concert Series lineup: BTS, Chance the Rapper, Pitbull, Ellie Goulding and more”. ngày 4 tháng 5 năm 2019. Truy cập ngày 4 tháng 5 năm 2019.
  83. ^ [1] Accessed ngày 1 tháng 1 năm 2020.
  84. ^ “A Korean Idol's Life: Sweat and Sleepless Nights”. Korean JoongAng Daily. ngày 18 tháng 2 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 1 năm 2013. Truy cập ngày 2 tháng 2 năm 2012.
  85. ^ “K-pop dictionary: maknae”. MTV Korea. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 8 năm 2011. Truy cập ngày 30 tháng 1 năm 2012.
  86. ^ "ソロでの活躍がめざましい各グループのマンネたち" Lưu trữ 2017-06-29 tại Wayback MachineHwaiting! Hallyu News & Magazine. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2013
  87. ^ Herald, The Korea (ngày 13 tháng 6 năm 2011). “K-pop drives hallyu craze: survey” (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2017.
  88. ^ “The rise of the K-Pop fanboy: Why more men are challenging ideals of masculinity to stan male idols”. Metro. ngày 1 tháng 8 năm 2018. Truy cập ngày 30 tháng 1 năm 2020.
  89. ^ Mahr, Krista (ngày 7 tháng 3 năm 2012). “K-Pop: How South Korea's Great Export Is Rocking the World”. Time. Truy cập ngày 17 tháng 9 năm 2012.
  90. ^ “Latest K-Pop Invasion: The Fans”. The Wall Street Journal. ngày 15 tháng 6 năm 2012. Truy cập ngày 19 tháng 12 năm 2012.
  91. ^ “JYJ First K-Pop Band to Perform Solo in Europe”. The Chosun Ilbo. ngày 13 tháng 10 năm 2011. Truy cập ngày 19 tháng 12 năm 2012.
  92. ^ Mukasa, Edwina (ngày 15 tháng 12 năm 2011). “Bored by Cowell pop? Try K-pop”. The Guardian. London. Truy cập ngày 25 tháng 1 năm 2013. The result, according to a survey conducted by the Korean Culture and Information Service, is that there are an estimated 460,000 Korean-wave fans across Europe, concentrated in Britain and France, with 182 Hallyu fan clubs worldwide boasting a total of 3.3m members.
  93. ^ Ramstad, Evan. “Behind K-pop's Pop: The Work of Fans”. The Wall Street Journal. Truy cập ngày 26 tháng 1 năm 2013. Others handle things like publishing lyrics, translations of lyrics or spreading news about K-pop groups and stars. To get a feel for this micro-business, we asked the operators of a K-pop lyrics translation site called pop!gasa.com to provide a glimpse of their role in the Korean Wave. Our takeaway: it’s as competitive as any business.
  94. ^ “What's Your Name?: A Compendium of K-pop Fandoms”. seoulbeats (bằng tiếng Anh). ngày 19 tháng 5 năm 2014. Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2016.
  95. ^ “Official Fan Clubs and Fan Colors”. Kpop Lists. Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2016.
  96. ^ 아이돌 팬 '응원 풍선 색깔찾기 전쟁' (bằng tiếng Hàn). Hani.co.kr. ngày 13 tháng 6 năm 2011. Truy cập ngày 25 tháng 6 năm 2012.
  97. ^ 'Rice wreaths' indicate that K-Pop fandoms are becoming more mature”. Allkpop. ngày 16 tháng 8 năm 2011. Truy cập ngày 30 tháng 1 năm 2012.
  98. ^ Mahr, Krista (ngày 7 tháng 3 năm 2012). “South Korea's Greatest Export: How K-pop's Rocking the World”. Time. Truy cập ngày 13 tháng 9 năm 2012.
  99. ^ “Video: Treating Your Idol to Lunch Is the True Test of Fandom”. The Wall Street Journal. ngày 24 tháng 2 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 8 năm 2019. Truy cập ngày 19 tháng 12 năm 2012.
  100. ^ “K-Pop Culture Glossary”. Soompi. 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 1 năm 2013. Truy cập ngày 31 tháng 1 năm 2012.
  101. ^ a b 'Sasaeng Stalkers' (Part 1): K-pop fans turn to blood, poison for attention”. Yahoo! Singapore. ngày 2 tháng 8 năm 2012. Truy cập ngày 19 tháng 12 năm 2012.
  102. ^ “When an autograph isn't enough”. Korea JoongAnd Daily. ngày 13 tháng 4 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 1 năm 2013. Truy cập ngày 19 tháng 12 năm 2012.
  103. ^ “JYJ apologises over rough treatment of obsessive "sasaeng" fans”. Channel NewsAsia. ngày 9 tháng 3 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 3 năm 2012. Truy cập ngày 19 tháng 12 năm 2012.
  104. ^ “JYJ's Sasaeng fan at the center of the recorded audio clip speaks up”. Allkpop. ngày 10 tháng 3 năm 2012. Truy cập ngày 15 tháng 3 năm 2012.
  105. ^ “Stalkers to face harsher punishment”. koreatimes. ngày 28 tháng 1 năm 2016. Truy cập ngày 21 tháng 4 năm 2016.
  106. ^ a b c Ahn, JoongHo; Oh, Sehwan; Kim, Hyunjung (ngày 1 tháng 7 năm 2013). Korean pop takes off! Social media strategy of Korean entertainment industry. tr. 774–777. doi:10.1109/ICSSSM.2013.6602528. ISBN 9781467344340. S2CID 24783136.
  107. ^ a b Cha, Hyunhee. “A Study on K-POP Strategy: Focused on Digital Music Environment and Social Media”. International Information Institute. 17: 911–917.
  108. ^ Anthony Wing Kosner (ngày 21 tháng 12 năm 2012). “Out Of This World! Gangnam Style Hits One Billion Views And Now Even NASA's In PSY's Orbit”. Forbes. Truy cập ngày 21 tháng 12 năm 2012.
  109. ^ Park, Bun-soon (2015). “12. Riding the Wave: Korea's Economic Growth and Asia in the Modern Development Era”. Asia Inside Out: Connected Places. Harvard University Press. tr. 366. ISBN 9780674967687.
  110. ^ 심선아 (ngày 17 tháng 9 năm 2018). “TWICE's 'TT' music video tops record 400 mln YouTube views”. Yonhap News Agency (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 7 tháng 11 năm 2018.
  111. ^ “BLACKPINK's 'Ddu-Du Ddu-Du' Becomes Most-Viewed Music Video From a K-Pop Group on YouTube”. Billboard.
  112. ^ Kelley, Caitlin. “BTS's 'Boy With Luv' Smashes YouTube's Record For Most Views In 24 Hours”. Forbes (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 14 tháng 6 năm 2019.
  113. ^ a b Choi, Seong Cheol; Meza, Xanat Vargas; Park, Han Woo (21 tháng 2 năm 2014). “South Korean Culture Goes Latin America: Social network analysis of Kpop Tweets in Mexico”. International Journal of Contents. 10 (1): 36–42. doi:10.5392/IJoC.2014.10.1.036. ISSN 2072-1439 – qua KoreaScience.
  114. ^ Han, Eun-hwa (7 tháng 1 năm 2018). “BTS 만든 방시혁 대표 "말 없이 어깨 기댈 수 있는 영웅 필요"”. 중앙일보 (bằng tiếng Hàn). Truy cập ngày 5 tháng 5 năm 2021.
  115. ^ Ming, Cheang (29 tháng 12 năm 2017). “How K-pop made a breakthrough in the US in 2017”. CNBC. Truy cập ngày 14 tháng 10 năm 2018.
  116. ^ “BTS Hits 10 Million Followers on Twitter, Earning Their Third Emoji on Twitter”. Billboard. Truy cập ngày 14 tháng 10 năm 2018.
  117. ^ Aniftos, Rania (5 tháng 12 năm 2017). “BTS Is the Most Tweeted-About Artist of 2017, Plus More Twitter Year-End Data”. Billboard. Truy cập ngày 10 tháng 10 năm 2018.
  118. ^ “BTS Thanks Fans For Top Social Artist Win at Billboard Music Awards 2017: Watch”. Billboard. Truy cập ngày 14 tháng 10 năm 2018.
  119. ^ “BTS Wins Top Social Artist Award at the 2018 Billboard Music Awards”. Billboard. Truy cập ngày 14 tháng 10 năm 2018.
  120. ^ “BTS_official on Twitter”. Twitter (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 14 tháng 10 năm 2018.
  121. ^ Jo, Jae-hee (3 tháng 5 năm 2018). “[Tech & BIZ] "스타 인터뷰 생중계하자 전 세계 팬 몰려들어… K팝 덕에 트위터 부활"”. biz.chosun.com (bằng tiếng Hàn). Truy cập ngày 5 tháng 5 năm 2021.
  122. ^
  123. ^ Hạnh Hạnh (ngày 9 tháng 2 năm 2019). “Tại sao dòng phim Melodrama Hàn càng ngày càng nhàm?”. Báo Đất Việt. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 10 năm 2021. Truy cập ngày 15 tháng 3 năm 2020. Những năm 2000, Melodrama (phim tâm lý tình cảm) là thể loại chiếm thế thượng phong trên màn ảnh Hàn. Đâu đâu người ta cũng thấy những chuyện tình buồn đẫm nước mắt với những tình tiết quen thuộc như cặp đôi bị chia rẽ bởi khác biệt gia cảnh hay một căn bệnh quái ác nào đó cướp đi mạng sống của người yêu. (...) Đã có rất nhiều huyền thoại Melodrama, điển hình như Trái tim mùa thu, Nấc thang lên thiên đường, Giày thủy tinh…
  124. ^ Lan Phương (ngày 20 tháng 4 năm 2017). “Học hỏi Kpop và nhạc Hoa, ca sĩ Việt liên tục bị nghi đạo nhạc”. Zing.vn. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2018.
  125. ^ theo Đất Mũi (ngày 6 tháng 7 năm 2004). “The Bells - tiếng chuông lại tiếp tục ngân vang”. VnExpress Giải Trí. Truy cập ngày 12 tháng 8 năm 2018.
  126. ^ JJ - Tuấn Maxx, theo Tri Thức Trẻ (ngày 21 tháng 8 năm 2018). “Nhìn lại năm 2008, thời điểm được coi là khởi đầu cho thời đại hoàng kim của Kpop”. Báo sống mới. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 8 năm 2018. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2018.
  127. ^ Hương Ly (ngày 24 tháng 2 năm 2019). “Kpop sau 10 năm: SNSD chỉ còn danh xưng, Big Bang tạm rời đỉnh cao”. Zing.vn. Truy cập ngày 8 tháng 3 năm 2019. Năm 2009 được xem là thời hoàng kim của Kpop với sự cạnh tranh của hàng loạt nhóm nhạc tài năng, từ đó ra đời những bản hit đi cùng năm tháng.

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]

100 thần tượng video người lớn hàng đầu mọi thời đại năm 2022
Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về K-pop.
  • Hartong, Jan Laurens (2006). Musical Terms Worldwide: A Companion for the Musical Explorer. Semar Publishers. ISBN 978-88-7778-090-4.
  • Holden, Todd Joseph Miles; Scrase, Timothy J. (2006). Medi@sia: Global Media/tion In and Out of Context. Taylor & Francis. ISBN 978-0-415-37155-1.
  • Jung, Sun (2011). Korean Masculinities and Transcultural Consumption: Yonsama, Rain, Oldboy, K-Pop Idols. Hong Kong University Press. ISBN 978-988-8028-66-5.
  • Kim, Myung Oak; Jaffe, Sam (2010). The New Korea: An Inside Look at South Korea's Economic Rise. AMACOM Div American Mgmt Assn. ISBN 978-0-8144-1489-7.
  • K-Pop: A New Force in Pop Music (PDF) . Korean Culture and Information Service; Ministry of Culture, Sports and Tourism. 2011. ISBN 978-89-7375-166-2.

  • Kinh doanh kinh doanh
  • Cuộc sống cuộc sống
  • Tin tức tin tức
  • Đánh giá đánh giá từ

Thần tượng tuổi teen mơ mộng nhất trong năm bạn sinh ra

David Cassidy của "Gia đình Partridge." Walt Disney tivi/Getty Images Walt Disney Television/Getty Images

  • Thanh thiếu niên của thập niên 50 được coi là "thế hệ may mắn nhất". Họ có thu nhập của riêng mình và thời gian rảnh - một combo đã tạo ra hồ sơ mua hàng và đi xem phim thời gian qua yêu thích của họ.
  • Và kể từ đó, đã có những thần tượng tuổi teen, được gọi là những ngôi sao được bán trên thị trường dành riêng cho thanh thiếu niên (tức là, các cô gái tuổi teen).
  • Trong những năm 50, một trong những thần tượng tuổi teen đầu tiên là James Dean, ngôi sao của "Rebel không có nguyên nhân".
  • Ghé thăm trang chủ của Insider để biết thêm câu chuyện.

Tải một cái gì đó đang tải.

Cảm ơn bạn đã đăng ký!

Truy cập các chủ đề yêu thích của bạn trong một nguồn cấp dữ liệu được cá nhân hóa trong khi bạn đang di chuyển.

Tải một cái gì đó đang tải.

Cảm ơn bạn đã đăng ký!

Truy cập các chủ đề yêu thích của bạn trong một nguồn cấp dữ liệu được cá nhân hóa trong khi bạn đang di chuyển.

Chừng nào còn có thanh thiếu niên, đã có những thần tượng tuổi teen, mặc dù thuật ngữ này thực sự bắt đầu đạt được sức hút trong thập niên 50 với những ngôi sao như Elvis. Và kể từ đó, có vẻ như thanh thiếu niên xức dầu cho các thần tượng khác nhau gần như mỗi năm.

Frank Sinatra được cho là thần tượng tuổi teen lớn đầu tiên trở lại vào những năm 40, nhưng cơn sốt thực sự đã khởi đầu vào những năm 50 do sức mạnh tuyệt đối của ngành công nghiệp tạp chí tuổi teen, sự hiện diện gia tăng của TV trong cuộc sống hàng ngày của mọi người và thanh thiếu niên nhận ra họ Có thời gian và tiền bạc để cống hiến hết mình để hỗ trợ các biểu tượng văn hóa nhạc pop yêu thích của họ.

Từ Jacksonmania đến Beatlemania đến Bieber Fever, fandoms tuổi teen rất dữ dội. Tiếp tục cuộn để xem bạn có thể nhớ tất cả 66 biểu tượng tuổi teen không.

1944: Frank Sinatra

Ca sĩ nhạc pop Frank Sinatra tạo dáng cho một bức chân dung, vào khoảng năm 1944. Michael Ochs Archives/Getty Images Michael Ochs Archives/Getty Images

Sinatra là ngôi sao nhạc pop lớn đầu tiên, chứ đừng nói đến cảm giác tuổi teen. Nhưng người hâm mộ của anh, được gọi là Bobby-Soxers, thường là thanh thiếu niên (và chủ yếu là các cô gái). Năm 1944, cơn sốt Sinatra ở mức cao nhất mọi thời đại. & Nbsp; 29 tuổi đã chuẩn bị bắt đầu mùa thứ ba tại Nhà hát Paramount ở NYC.

Đó là Ngày Columbus, tất cả những người Bobby đã ra khỏi trường, và 30.000 cô gái đã đổ về Quảng trường Thời đại để thấy đôi mắt xanh của ol. Biên tập viên Cộng hòa mới Bruce Bliven gọi nó là "một hiện tượng cuồng loạn hàng loạt chỉ được nhìn thấy hai hoặc ba lần trong một thế kỷ", theo The Guardian. Ngày này sẽ được gọi là cuộc bạo loạn trong ngày Columbus.The New Republic editor Bruce Bliven called it "a phenomenon of mass hysteria that is only seen two or three times in a century," according to the Guardian. This day would be called the Columbus Day riot.

1955: James Dean

Nam diễn viên James Dean đặt ra cho một công khai của Warner Bros cho bộ phim "Rebel không có nguyên nhân" vào năm 1955 tại Los Angeles, California. Michael Ochs Archives/Getty Images Michael Ochs Archives/Getty Images

Dean là thần tượng tuổi teen nguyên mẫu, và thực sự là người đầu tiên của anh ấy. Mọi diễn viên đến sau anh ta cố gắng nghiền ngẫm, hút thuốc lá và nói chung là Rebel, luôn được so sánh với Dean. Ngay cả Taylor Swift cũng nhắc đến anh ấy trong bài hát "Phong cách" của cô ấy 60 năm sau khi anh ấy qua đời.

Dean xuất hiện trong hai bộ phim vào năm 1955: "East of Eden" và "Rebel không có nguyên nhân", đã củng cố vị trí của anh ấy trong trái tim của thanh thiếu niên ở khắp mọi nơi. Anh ta vừa nhận được & nbsp; nó & nbsp; - không hiểu cha mẹ của bạn, không hiểu chính mình - theo cách mà không ai có trước đây.

Dean qua đời vào tháng 9 năm 1955 khi mới 24 tuổi, để lại một cái bóng mà hàng chục diễn viên giận dữ đã cố gắng xuất hiện từ đó.

1956: Elvis Presley

Elvis Presley chỉ vào một chiếc máy ảnh phim được tổ chức bởi một người hâm mộ trong khi anh ấy hát trên sân khấu tại Nhà hát Olympia ở Miami, Florida, ngày 4 tháng 8 năm 1956. Bộ sưu tập hình ảnh của Don Wright/The Life Via Getty Images Via Getty Images Don Wright/The LIFE Images Collection via Getty Images via Getty Images

Elvis Presley, còn được gọi là nhà vua, đã thay đổi cảnh quan của fandom tuổi teen mãi mãi khi anh xuất hiện trên sân khấu lắc hông theo cách khiến các cô gái trở nên điên cuồng, và khiến cha mẹ lặn xuống từ xa để thay đổi kênh.

Presley 21 tuổi vào năm 1956 và vừa phát hành album đầu tiên. Nó chứa cổ điển trên cổ điển, bao gồm "Giày da lộn màu xanh" và "Blue Moon".

Theo thời gian, Presley trở thành nghệ sĩ âm nhạc bán chạy thứ ba mọi thời đại, chỉ sau Garth Brooks và The Beatles.

1957: Pat Boone

Ca sĩ Pat Boone ký chữ ký của mình về các chương trình buổi hòa nhạc. Thời gian Life Pictures/Pix Inc./The Cuộc sống Bộ sưu tập hình ảnh qua Getty Images Time Life Pictures/Pix Inc./The LIFE Picture Collection via Getty Images

Pat Boone có thể làm tất cả. Năm 1957, khi anh mới 23 tuổi, anh bắt đầu tổ chức "The Pat Boone-Chevy Hour", một chương trình gồm 30 phút mà anh tổ chức và trong thời gian đó anh hát.

Boone là nghệ sĩ bán chạy thứ hai của cả thập kỷ, chỉ đứng sau Elvis. Anh ấy đã bán được hơn 45 triệu album và thu được 38 bản hit top.

1958: Tab Hunter

Diễn viên người Mỹ Tab Hunter vào khoảng năm 1958. Ảnh lưu trữ/hình ảnh Getty Archive Photos/Getty Images

Hunter đã yêu quý thanh thiếu niên trên khắp Hoa Kỳ khi anh đóng vai chính trong bộ phim âm nhạc "Damn Yankees" vào năm 1958. Bề ngoài tóc vàng, sạch sẽ của người đàn ông 27 tuổi khiến anh một tiếng thở phào nhẹ nhõm cho các bậc cha mẹ đang cố gắng ngăn chặn Trẻ em bắt chước Swivels của Elvis hoặc thái độ chắc chắn của James Dean.

Cùng năm đó, anh đã phát hành đơn & NBSP; "Trái tim ghen tuông" đạt đến 100 Hot 100.

1959: Frankie Avalon

Nam diễn viên và ca sĩ Frankie Avalon tạo dáng cho một bức chân dung vào năm 1959 tại Los Angeles, California. Richard C. Miller/Donaldson Collection/Getty Images Richard C. Miller/Donaldson Collection/Getty Images

Avalon đã phát hành bốn bài hát hàng đầu vào năm 1959: "Venus", số 1 "tại sao", số 7 "Chỉ cần hỏi bạn trái tim" và số 8 "Bobby Sox to Stockings". Lúc đó ông mới 19 tuổi.

Avalon đã có thể chọc vào tình trạng biểu tượng tuổi teen của mình vài thập kỷ sau đó trong "Greas", trong đó anh ấy đóng vai một thiên thần tuổi teen hát "Bệnh bỏ học trường làm đẹp".

1960: Fabian Forte

Fabian Forte, khoảng năm 1960. Ảnh lưu trữ/hình ảnh Getty Archive Photos/Getty Images

Thành công của Forte đến vào một thời điểm hoàn hảo - anh vẫn là một thiếu niên trong khi những ngôi sao lớn tuổi như Elvis đang được soạn thảo. Anh ta đã sử dụng khoảng trống trên thị trường để trở thành một biểu tượng tuổi teen theo cách riêng của mình, phát hành các bản hit như "Tiger", "Tôi là một người đàn ông" và "Turn Me Loose".

1961: Annette Funicello

Annette Funicello trong Giải thưởng Học viện 1961. Bettmann / Người đóng góp qua Getty Images Bettmann / Contributor via Getty Images

Funicello là nữ thần tượng tuổi teen thực sự lớn đầu tiên. Các vai diễn mang tính biểu tượng nhất của cô là trong các bộ phim "Bữa tiệc trên bãi biển" cùng với những người bạn teen Idol Frankie Avalon, bắt đầu phát sóng vào năm 1963. Nhưng ngay cả trước đó, Funicello cũng nổi tiếng.

Cô đã ở trong "Câu lạc bộ chuột Mickey" trong nhiều năm, nhận được hàng ngàn thư người hâm mộ mỗi tháng. Đến năm 1961, cô gái 19 tuổi đã phát hành nhiều album và xuất hiện trong loạt phim Disney như "Zorro" và "The Magical World of Disney".

1962: Luke Halpin

Luke Halpin. Phim yêu thích/hình ảnh Getty Film Favorites/Getty Images

Halpin đã 15 tuổi khi ông được chọn vào "Flipper" cổ điển năm 1963. Anh ấy đã ở trong một số dự án trước đây nhưng "Flipper" chắc chắn là bước ngoặt lớn của anh ấy. Nó đã sinh ra một chương trình truyền hình được phát sóng từ năm 1964 đến năm 1967, và phần tiếp theo được phát hành năm 1964, cả hai với sự tham gia của Halpin cùng với người phụ nữ cá heo đáng tin cậy.

1963: The Beach Boys

Mike Love, Brian Wilson, Carl Wilson, Dennis Wilson và David Marks của The Beach Boys hát tại một khán đài âm nhạc vào khoảng năm 1963. Lưu trữ Michael Ochs/Getty Images Michael Ochs Archives/Getty Images

Năm 1963 là một trong những năm cuối cùng, Beach Boys là một nhóm nhạc pop thuần túy. Album thứ hai của họ, "Surfin 'U.S.A.", đã được phát hành vào năm đó và bao gồm bài hát cùng tên đã trở thành một trong những chữ ký của họ.

Âm nhạc bãi biển, California của họ được thanh thiếu niên yêu thích nhưng bị các nhà phê bình rock (như nhiều thần tượng tuổi teen yêu thích). & NBSP;

1964: The Beatles

Paul McCartney, Ringo Starr, John Lennon và George Harrison của The Beatles vào ngày 10 tháng 1 năm 1964. Terry Disney/Express/Getty Images Terry Disney/Express/Getty Images

Những gì khác có thể được nói về The Beatles? Toàn bộ một bộ phim dựa trên thế giới trở thành một nơi hoàn toàn khác mà không có họ và âm nhạc của họ xuất hiện trong tháng này, "Hôm qua".

The Beatles đã đi từ sự cuồng loạn truyền cảm hứng giữa các cô gái tuổi teen, Beatlemania, để trở thành một trong những, nếu không phải là ban nhạc vĩ đại nhất mọi thời đại.

Năm 1964, nhóm lần đầu tiên vượt qua ao và xuất hiện trên "The Ed Sullivan Show". Hiệu suất của họ đã được theo dõi bởi 73 triệu người. Khi họ hạ cánh tại sân bay ở NYC, 3.000 thanh thiếu niên đang đợi ở đó la hét.

"Nhìn thấy hàng ngàn trẻ em ở đó để gặp chúng tôi khiến chúng tôi nhận ra chúng tôi đã ở đó phổ biến như thế nào", Harrison sau đó nói.Seeing thousands of kids there to meet us made us realize just how popular we were there," Harrison later said.

Theo các con số, The Beatles là nghệ sĩ âm nhạc bán chạy nhất mọi thời đại và đã bán được 178 triệu bản vào năm 2017, hơn 50 năm sau khi họ ra mắt tại Mỹ.

1965: Sally Field

Bức chân dung Headshot Studio của nam diễn viên người Mỹ Sally Field vào khoảng năm 1965. Lưu trữ Hulton/Getty Images Hulton Archive/Getty Images

Field là một nữ diễn viên rất được kính trọng ngày hôm nay nhưng vào năm 1965, cô được biết đến chủ yếu là Gidget, từ bộ phim sitcom cùng tên, được công chiếu năm đó.

Cánh đồng 19 tuổi chơi Gidget, một thiếu niên điên rồ sống ở Nam California, chỉ trong một mùa, nhưng nhân vật của cô đã nói chuyện với các cô gái tuổi teen ở khắp mọi nơi, ngay cả trong nhiều thập kỷ sau khi chương trình lên sóng.

1966: Paul Petersen

Paul Petersen tại Giải thưởng Học viện năm 1966. Max B. Miller/Fotos International/Getty Images Max B. Miller/Fotos International/Getty Images

Petersen lần đầu tiên vươn lên ngôi sao trong những năm 50 chính "The Donna Reed Show" mà anh đóng vai con trai tuổi teen Jeff Stone. Chương trình đã kết thúc cuộc chạy tám năm vào năm 1966 khi Peterson 21 tuổi.

Trong khi tham gia chương trình, anh trở thành một mối đe dọa kép - cụ thể là, anh cũng bắt đầu một sự nghiệp ca hát thành công khiêm tốn.

1967: Davy Jones

Davy Jones trong trường quay chương trình truyền hình "The Monkees" vào khoảng năm 1967 tại Los Angeles, California. Michael Ochs Archives/Getty Images Michael Ochs Archives/Getty Images

Jones là ca sĩ chính của ban nhạc The Monkees và đóng vai chính trong một chương trình ăn khách cùng tên. Chương trình được công chiếu vào năm 1966 và chỉ một năm sau đó, Jones đã chiếm được trái tim và tâm trí của thanh thiếu niên trên khắp thế giới.

The Monkees đã phát hành một trong ba đĩa đơn số 1 của họ vào năm 1967, "Daydream Believer".

"Nếu bạn nói chuyện với bất kỳ cô gái nào thích Monkees, thì luôn luôn, [Jones] là người yêu thích của cô ấy", phóng viên Phil Gallo & NBSP; nói với CNN. "Đó là ca sĩ chính. Đó là người dễ thương. Người có tính cách tốt."

Và vào năm 2008, nhiều thập kỷ sau khi Monkees đến và biến mất, Yahoo Music tên Jones là thần tượng tuổi teen số một của mọi thời đại.

1968: Jay North

Jay North khoảng năm 1968. Hình ảnh Getty Getty Images

North được biết đến nhiều nhất với vai trò là Dennis, mối đe dọa trong bộ phim sitcom cùng tên, nhưng vào năm 1968, anh 17 tuổi và bắt đầu phát triển thành tình trạng thần tượng tuổi teen của mình. & NBSP;

Năm đó, anh đóng vai chính trong loạt phim phiêu lưu "Maya" trong vai một người Mỹ tìm kiếm người cha mất tích của mình trong rừng rậm.

Trong khi thời gian là một thần tượng tuổi teen là ngắn gọn, North đã sử dụng nền tảng của mình cho tốt. Ông gia nhập tổ chức một sự cân nhắc nhỏ, một tổ chức phi lợi nhuận nhằm "cung cấp hướng dẫn và hỗ trợ cho các nghệ sĩ trẻ, quá khứ, hiện tại và tương lai".provide guidance and support for young performers, past, present and future."

1969: Ron Howard

Ron Howard vào năm 1969. Truyền hình Walt Disney qua Getty Images Walt Disney Television via Getty Images

Sau khi lớn lên trước mắt người xem về "The Andy Griffith Show", không có một đứa trẻ nào còn sống không muốn trở thành Opie, và bằng cách mở rộng, Howard. Chương trình kết thúc vào năm 1968 khi Howard lên 14. Năm tới vào năm 69, Howard xuất hiện trong hai trong số các chương trình truyền hình lớn nhất vào thời điểm đó, "Gunsmoke" và "Daniel Boone".

Khi "Ngày hạnh phúc" được công chiếu năm năm sau đó vào năm 1974, nhiều người đã rất vui mừng khi có Howard quay lại màn hình của họ một lần nữa.

1970: Jackson 5

R & B Quintet The Jackson 5 đặt ra cho một bức chân dung tổ chức các bản sao kỷ niệm của "Album thứ ba" của họ để đánh dấu một cột mốc bán hàng vào năm 1970. Từ trái, Jermaine Jackson, Tito Jackson, Michael Jackson, Marlon Jackson và Jackie Jackson. Michael Ochs Archives/Getty Images Michael Ochs Archives/Getty Images

Jackson 5 là một nhóm đột phá theo nhiều cách hơn một. Họ là một trong những hành động crossover đen đầu tiên trong thập niên 70, khi âm nhạc vẫn được phân tách nổi tiếng, và trở thành nhóm đầu tiên có bốn đĩa đơn đầu tiên của họ đạt đến đỉnh của Hot 100.

Đĩa đơn đầu tiên của họ, "I Want You Back", được phát hành vào tháng 1 năm 1970, và những gì tiếp theo đã được mô tả là "Jacksonmania". Vào tháng 10 năm đó, họ đã biểu diễn cho một khu vườn Madison Square đã bán hết.

1971: Donny Osmond

Donny Osmond của Osmonds năm 1971. Gary Null/NBC/NBCU Photo Bank thông qua Getty Images Gary Null/NBC/NBCU Photo Bank via Getty Images

Chỉ vài năm trước khi em gái của anh ấy đến hiện trường, Donny Osmond đã đưa thế giới vào cơn bão. Cầu thủ 14 tuổi đã phát hành hai album đầu tiên của mình vào năm 1971: "Album Donny Osmond" và "To You With Love, Donny". Cả hai đều được chứng nhận vàng và đạt 12 và 13 tương ứng.

"Nếu tôi không đánh nó lớn như một thần tượng tuổi teen, và tôi sẽ mới tự mình trở thành một diễn viên sân khấu hay một nghệ sĩ giải trí âm nhạc, nó sẽ khác rất nhiều. Nhưng tôi có lẽ sẽ không có khán giả mà tôi có ngày hôm nay, "Ông nói với tờ Washington Post năm 2014.Had I not hit it so big as a teen idol, and I would have just established myself as a theater actor or a musical entertainer, it would have been a lot different. But I probably wouldn't have the audience I have today," he told The Washington Post in 2014.

1972: David Cassidy

David Cassidy vào ngày 5 tháng 5 năm 1972. Truyền hình Walt Disney qua Getty Images Walt Disney Television via Getty Images

Cassidy là ngôi sao đột phá của "The Partridge Family", một bộ phim sitcom âm nhạc về một gia đình đang cố gắng làm cho nó trở nên lớn. Cassidy và người mẹ trên màn hình của anh ấy (và Stepmom ngoài đời thực), Shirley Jones, là những người duy nhất thực sự hát-phần còn lại của các diễn viên sped.

Mùa thứ hai kết thúc vào năm 1972, khi Cassidy 22. Anh ở khắp mọi nơi. Như một hồ sơ Rolling Stone năm 1972 đã giải thích: "David Cassidy đã quét cơn bão vào cuộc sống trước tuổi dậy thì của hàng triệu cô gái Mỹ. Rời khỏi: sáu triệu rưỡi album và người độc thân; 44 chương trình truyền hình; ; David Cassidy Bubble Gum; David Cassidy tô màu và bút David Cassidy; không đề cập đến vài triệu tạp chí tuổi teen, nhãn dán tường, hạt yêu, áp phích và album ảnh. "David Cassidy has swept hurricane-like into the pre-pubescent lives of millions of American girls. Leaving: six and a half million long-playing albums and singles; 44 television programs; David Cassidy lunch boxes; David Cassidy bubble gum; David Cassidy coloring books and David Cassidy pens; not to mention several millions of teen magazines, wall stickers, love beads, posters and photo albums."

1973: Marie Osmond

Marie Osmond trong thập niên 70. Chris Walter/Wireimage qua Getty Images Chris Walter/WireImage via Getty Images

Không giống như anh em của cô, con gái Osmond còn nhiều đất nước hơn Pop, nhưng cô vẫn là một thần tượng tuổi teen chân thành.

Vào năm 1973, cô đã phát hành đĩa đơn solo đầu tiên của mình, & NBSP; "Hoa hồng giấy", đứng đầu cả bảng xếp hạng quốc gia Hoa Kỳ và bảng xếp hạng đương đại dành cho người lớn. Nó đạt vị trí thứ 5 trên Hot 100. Cùng năm đó, cô đã phát hành album đầu tay của mình, cũng có tựa đề "Paper Roses", đạt vị trí thứ 1 trên bảng xếp hạng quốc gia. Osmond chỉ mới 13 tuổi.

1974: Christopher Knight

Christopher Knight đóng vai Peter, con trai giữa trên "The Brady Bunch" của Mạng lưới truyền hình ABC. Bettmann / Người đóng góp qua Getty Images Bettmann / Contributor via Getty Images

Knight được biết đến nhiều nhất với vai trò là Peter, con trai giữa trong "The Brady Bunch". Mọi người đều phải lòng ít nhất một trong những Bradys, cho dù đó là Cindy, Jan, Marcia, Bobby, Peter hay Greg.

Nhưng vào năm 1974, Knight là người mơ mộng nhất trong nhóm. Mùa cuối cùng của chương trình kết thúc vào tháng 3 năm đó khi anh 17 tuổi.

1975: Anh em nhà Hudson

Brett Hudson, Mark Hudson và Bill Hudson trong cuộc họp báo của Hudson Brothers vào ngày 11 tháng 11 năm 1975. Bobby Bank/Wireimage qua Getty Images Bobby Bank/WireImage via Getty Images

Anh em nhà Hudson đã nổi lên khi họ xuất hiện trên "The Sonny & Cher Show" và đến năm 1975, anh em đã neo chương trình tạp kỹ của riêng họ, có tựa đề "The Hudson Brothers Show", và đã chuyển sang chương trình của một buổi sáng Chủ nhật, "The Hudson Brothers Razzle Dazzle Show."

Cùng năm đó, hai trong số bốn bài hát của họ đạt được Hot 100 đã được phát hành: "Rendezvous" và "Lonely Schoch năm".

Tài năng âm nhạc của họ bị lừa xuống Hudson Kids - năm 1975, Bill đã gặp Goldie Hawn và hai người kết hôn vào năm sau. Vào thời điểm đó, Hawn có thai với con gái của họ, không ai khác ngoài Kate Hudson.

1977: Andy Gibb

Ca sĩ và nhạc sĩ gốc Anh Andy Gibb biểu diễn trên sân khấu. Michael Putland/Getty Images Michael Putland/Getty Images

Gibb sinh ra ở Anh đã phát hành album đầu tay vào năm 1977, "Rivers Rivers". Nó đã chứng minh với thế giới rằng anh ta không chỉ là em trai của Bee Gees mà là một tài năng âm nhạc được tính toán.

Anh ấy đã có bài hát số 1 đầu tiên vào năm đó, "Tôi chỉ muốn là tất cả của bạn." Lúc đó ông mới 19 tuổi.

Đáng buồn thay, Gibb đã chết chỉ vài năm sau đó vào năm 1988 ở tuổi 30.

1978: John Travolta

John Travolta tại bữa tiệc "Greas" tại Paramount Studios năm 1978. Brad Elterman/Filmmagic thông qua Getty Images Brad Elterman/FilmMagic via Getty Images

Năm 1978, "Greas" được công chiếu. Cần chúng ta nói nhiều hơn?

Trong thực tế, chúng ta có thể. Một năm trước khi Travolta thể hiện sự hấp dẫn giới tính của những năm 50 trong số những người béo T-Bird Danny Zuko trong "Greas", anh đóng vai chính trong "Saturday Night Fever", một bộ phim được ghi nhận với việc phổ biến nhạc sàn nhảy trên khắp thế giới.

Nhưng trở lại với "Greas", có lẽ là vở nhạc kịch có ảnh hưởng nhất mọi thời đại-nó đã biến Travolta, sau đó 24 tuổi, và bạn diễn Olivia Newton John của anh ấy thành A-Listers trong thời gian còn lại.

1979: Shaun Cassidy

Cảm giác hát thần tượng tuổi teen và con trai của nữ diễn viên Shirley Jones, Shaun Cassidy, tạo dáng trong bức ảnh năm 1979 này. Hình ảnh George Rose/Getty George Rose/Getty Images

Năm 1979 là năm cuối cùng của chương trình Cassidy & NBSP; "The Hardy Boys", cũng như năm album trực tiếp của anh ấy, "Đó là Rock 'N' Roll Live", được phát hành.

Đó cũng là năm cuối cùng trước khi Cassidy 21 tuổi, đến từ một gia đình nổi tiếng, sẽ cố gắng và thực hiện sự thay đổi từ Teenybopper sang nhạc sĩ/diễn viên trưởng thành, đã làm việc đến mức độ thành công khác nhau.

1980: Mark Hamill

Mark Hamill ở Paris vào ngày 1 tháng 6 năm 1980. Alain Dejean/Sygma qua Getty Images Alain Dejean/Sygma via Getty Images

Ba năm sau khi "Chiến tranh giữa các vì sao" đầu tiên được phát hành vào năm 1977, dự đoán đã ở mức cao nhất mọi thời đại-có thể chỉ bị đánh bại bởi dự đoán cho "The Force Awakens" vào năm 2016.

Và ở trung tâm của tất cả là Hamill, 29 tuổi, người đóng vai anh hùng trung tâm của câu chuyện, Luke Skywalker. "The Empire Strikes Back" thường được biết đến như là bộ phim hay nhất trong nhượng quyền thương mại, và nó chỉ đưa Hamill đến mức cao hơn của ngôi sao cao hơn.

1982: Michael Jackson

Michael Jackson nắm giữ tám giải thưởng khi anh đặt ra tại lễ trao giải Grammy ở Los Angeles. Hình ảnh Doug Pizac/AP Doug Pizac/AP Images

Jackson là ngôi sao nhí hiếm hoi tự mình thoát ra, và thậm chí còn trở nên nổi tiếng hơn so với ban nhạc trước của anh ấy-một kỳ tích khó thực hiện khi ban nhạc của anh ấy là Jackson 5 thành công lớn.

Nhưng, tất nhiên, anh ấy đã làm. Jackson là vua của Pop trong nhiều thập kỷ nay, ngay cả khi di sản của ông được kiểm tra lại hơn bao giờ hết.

Không thể bỏ qua những đóng góp của anh ấy cho nhạc pop, đặc biệt là vào năm 1982 khi "Thriller" được phát hành và ca sĩ chỉ mới 24 tuổi. Album là album bán chạy thứ hai mọi thời đại, và đã bán được 33 triệu bản kể từ khi ra mắt.

1984: Madonna

Ca sĩ và nữ diễn viên người Mỹ Madonna tại Giải thưởng âm nhạc video MTV hàng năm đầu tiên năm 1984. David McGough/DMI/The Life Picture Collection thông qua Getty Images David Mcgough/DMI/The LIFE Picture Collection via Getty Images

Madonna, Nữ hoàng của Pop, đã thổi bay tâm trí tập thể của mọi người khi người đàn ông 24 tuổi này xuất hiện tại Giải thưởng âm nhạc video MTV năm 1984-người đầu tiên-và lăn lộn trên sân khấu trong một chiếc váy cưới hát "Like A Virgin". Đó là một cái gì đó sẽ sống mãi mãi trong văn hóa nhạc pop.

Chắc chắn, cô ấy đã có những album hay hơn "Like A Virgin" (tùy thuộc vào người bạn hỏi), như "Like Like a Prayer" hoặc "Ray of Light" của năm 1989, nhưng không có Madonna như chúng ta biết mà không có album này, bài hát, và hiệu suất.

1985: Molly Ringwald

Nữ diễn viên người Mỹ Molly Ringwald trong vai Claire Standish trong "The Breakfast Club", đạo diễn bởi John Hughes, 1985. Bộ sưu tập màn hình bạc/Hình ảnh Getty Silver Screen Collection/Getty Images

Nếu có một Mount Rushmore dành riêng cho các ngôi sao phim tuổi teen vĩ đại nhất mọi thời đại, Ringwald chắc chắn sẽ có mặt trên đó. Năm 1985, cô đang ở giữa một cuộc chạy ba năm, trong đó cô đã tham gia vào "Mười sáu ngọn nến", "Câu lạc bộ bữa sáng" và "Pretty in Pink" vào năm 1984, 1985 và 1986, tương ứng.

Tất cả ba bộ phim là kinh điển và đúng như vậy. Cụ thể là "Câu lạc bộ bữa sáng" của năm 1985, trong đó Ringwald 17 tuổi đóng vai Claire, cô gái nổi tiếng với một đội bóng bí mật. Bộ phim đã sống như một điểm tham chiếu dễ dàng - các chương trình như "Dawson's Creek", "Riverdale" và "Victorious" đều đã cố gắng của riêng họ.

1986: River Phoenix

Diễn viên River Phoenix Films "Running On trống". Ron Galella, Ltd./Ron Galella Collection thông qua Getty Images Ron Galella, Ltd./Ron Galella Collection via Getty Images

Vai diễn đáng chú ý đầu tiên của Phoenix là trong bộ phim "Stand của tôi" năm 1986 ". Anh ta gần như ngay lập tức bắn vào vị trí thần tượng tuổi teen, cũng như chứng minh anh ta là một diễn viên tài năng thực sự. The Washington Post gọi Phoenix là "Trung tâm trọng lực" của bộ phim.

Cô gái 16 tuổi theo dõi "Stand By Me", một câu chuyện về tuổi tác dựa trên một tiểu thuyết của King King, với "Bờ biển Muỗi", trong đó anh đóng vai con trai của các đối thủ nặng ký của Hollywood Harrison Ford và Helen Mirren.

Ngôi sao tuổi teen của Phoenix khác với các đồng nghiệp của anh ấy - anh ấy đã nói và quan tâm đến trái đất và môi trường hơn bất cứ điều gì khác. Anh ta thường được gọi là James Dean của thế hệ.

Nhưng tiềm năng của anh ta đã bị cắt ngắn. Phoenix qua đời vào Halloween 1993 & NBSP; ở tuổi 23.

1987: Corey Haim

Corey Haim tại Trò chơi bóng chày All-Star Hollywood vào ngày 29 tháng 8 năm 1987. Ron Galella, Ltd./Ron Galella Collection thông qua Getty Images Ron Galella, Ltd./Ron Galella Collection via Getty Images

Vai diễn đột phá của Haim là trong bộ phim "Lucas" năm 1986, nhưng điều khiến anh đến sự chú ý của các cô gái tuổi teen ở khắp mọi nơi là vai diễn của anh trong tác phẩm kinh điển năm 1987 "The Lost Boys" khi anh mới 15 tuổi. Nó đưa anh tiếp xúc với Corey Feldman , và cả hai sẽ được mệnh danh là "The Coreys" - mặc dù Haim là người say mê truyền thống hơn trong khi Feldman là người giải thoát truyện tranh. & NBSP;

Đáng thương thay, Haim qua đời vào tháng 3 năm 2010 do viêm phổi. Anh ấy 38 tuổi.

1988: Johnny Depp

Johnny Depp tại Nosotros Lợi ích được thực hiện vào ngày 13 tháng 5 năm 1988. Barry King/Wireimage qua Getty Images Barry King/WireImage via Getty Images

Bốn năm trước, Depp đã có vai trò lớn đầu tiên trong "Nightmare on Elm Street", trong đó anh ấy đã làm rung chuyển một crop top rất nổi tiếng. Nhưng điều thực sự khiến anh ấy cảm thấy thích thú với thanh thiếu niên là vai diễn của anh ấy là học sinh viên của anh ấy là Tom Hanson trong "21 Jump Street", bắt đầu phát sóng vào năm 1987, khi anh ấy 24 tuổi.

Nhưng Depp là một thần tượng tuổi teen không thể xảy ra-chỉ cần lấy nó từ đại lý báo chí của mình trả lời yêu cầu phỏng vấn với Rolling Stone vào năm 1988. "Tôi hy vọng điều này sẽ không phải là về con bò teen Idol đó ----. 'Re thực sự phát ốm vì điều đó ---, "anh nói.

1989: Debbie Gibson

Ca sĩ Debbie Gibson vào ngày 1 tháng 1 năm 1989. Bộ sưu tập hình ảnh Kevin Winter/DMI/The Life thông qua Getty Images Kevin Winter/DMI/The LIFE Picture Collection via Getty Images

Gibson, người 19 tuổi vào năm 1989, đã phát hành album kết hợp đôi "Electric Youth" năm đó. Nó trở thành album biểu đồ cao nhất của cô, ở trên bảng xếp hạng trong năm tuần. Album cũng sinh ra đĩa đơn số 1 thứ hai của cô, "Lost In Your Eyes".

Nhưng điều thực sự khiến Gibson khác biệt với các đồng nghiệp là khả năng sáng tác của cô. Cô đã viết từng bài hát trong hai album đầu tiên của mình, và một mình sản xuất sáu bài về "Electric Youth". Năm 1989, cô đã chia sẻ giải thưởng ASCAP cho nhạc sĩ của năm với một ca sĩ tên Bruce Springsteen - có lẽ bạn đã nghe nói về anh.

1990: Những đứa trẻ mới trên khối

Các thành viên của những đứa trẻ mới trong khối: Donnie Wahlberg, Jordan Knight, Jonathan Knight, Daniel Wood và Joey McIntyre. Kevin Winter/DMI/The Life Picture Collection thông qua Getty Images/Getty Images Kevin Winter/DMI/The LIFE Picture Collection via Getty Images/Getty Images

Những đứa trẻ mới trên khối, hoặc NKOTB, được thành lập vào những năm 80 nhưng năm 1990 là khi chúng thực sự đạt được bước tiến của ban nhạc nam. "Từng bước" đã được phát hành vào tháng Năm năm đó và trở thành hit lớn nhất của nhóm. Nó đã dành ba tuần trên đỉnh 100 nóng.

Billboard thậm chí đã xếp nó là bài hát nhạc nam vĩ đại thứ tám của mọi thời đại.

1991: Alyssa Milano

Alyssa Milano vào đầu những năm 90. Bộ sưu tập hình ảnh cuộc sống/hình ảnh Getty The LIFE Picture Collection/Getty Images

Milano lớn lên trên màn hình trước khi chúng tôi tham gia chương trình "Ai là ông chủ", được phát sóng từ năm 1984 đến năm 1992. Cô đóng vai Samantha, cô con gái 12 tuổi của nhân vật Tony Danza. Chương trình kết thúc khi Milano 20 tuổi.

Năm 1991, Milano 19 tuổi và quyết định là một nữ hoàng tuổi teen. Cô đã phát hành một album nhạc pop.

Năm sau, sau khi chương trình kết thúc, cô ấy đã đảm nhận một số vai diễn trưởng thành như trong R đánh giá "nơi mà ngày đưa bạn", trong đó cô ấy đóng vai một cô gái điếm tuổi teen.

1992: Mark Wahlberg

Người mẫu người Mỹ, rapper và diễn viên Mark Wahlberg, còn gọi là Marky Mark, tạo dáng trong đồ lót của mình. Hình ảnh Tim Roney/Getty Tim Roney/Getty Images

Trước khi anh ấy là Mark Wahlberg, diễn viên nghiêm túc, anh ấy là Mark Mark của Marky Mark và Funky Bunch. Wahlberg là một chàng trai nổi tiếng với vóc dáng thực sự của mình và là người khởi tạo bẫy khát: quảng cáo đồ lót Calvin Klein ra mắt năm 1992.

1994: TLC

T-Boz, Lisa "Left Eye" Lopes và Chili of TLC tại Giải thưởng Âm nhạc Mỹ thường niên lần thứ 21 vào ngày 7 tháng 2 năm 1994. Bộ sưu tập Jim Smeal/Ron Galella thông qua Getty Images Jim Smeal/Ron Galella Collection via Getty Images

Album thứ hai của TLC "Crazysexycool" ra mắt vào năm 1994 - và nó vẫn còn trên Billboard 200 trong hai năm tới. Cuối cùng, nó đã được chứng nhận Diamond, biến TLC thành nhóm nữ đầu tiên đạt được cột mốc đó.

Danh sách theo dõi bao gồm "Creep" và bài hát đặc trưng của họ "Thác nước". Bài hát được đề cử cho hai giải Grammy và giành được bốn VMA trong số 10 đề cử, bao gồm cả video được thèm muốn của năm. & NBSP;

1995: Alicia Silverstone

Alicia Silverstone giữ túi mua sắm trong một cảnh trong bộ phim "Cluless" vào năm 1995. Hình ảnh Paramount/Getty Images Paramount Pictures/Getty Images

"Cluless" vẫn là một trong những bộ phim tuổi teen mang tính biểu tượng nhất mọi thời đại, nổi bật có thể xem lại và có thể tin được với thanh thiếu niên của bất kỳ thế hệ nào. Và tại trung tâm của tất cả các dòng trích dẫn và trang phục đẹp là Cher, được chơi hoàn hảo bởi Alicia Silverstone 19 tuổi.

Chọn ai khác cho năm 1995? Như thể.

1996: Aaliyah

Ca sĩ R & B người Mỹ Aaliyah tạo dáng cho một bức ảnh ở hậu trường tại Madison Square Garden. Catherine McGann/Getty Images Catherine McGann/Getty Images

Cảm giác tuổi teen Aaliyah đã phát hành album thứ hai của mình vào năm 1996, "One in a Million". Cô mới 17 tuổi. Cuối cùng nó đạt vị trí số 2 trên bảng xếp hạng R & B của Hoa Kỳ và 18 trên Hot 200.

Album cũng đáng chú ý là đưa các nhà sản xuất và nhà văn chính của mình, Timbaland và Missy Elliot, vào tầm ngắm. Cả hai đã trở thành những ngôi sao nhạc pop theo quyền riêng của họ trong những năm tiếp theo.

Đáng thương thay, Aaliyah đã chết chỉ năm năm sau & nbsp; ở tuổi 22 trong một vụ tai nạn máy bay.

1997: Backstreet Boys

Ca sĩ Kevin Richardson, Brian Littrell, Howie Dorough, Nick Carter và AJ McLean của nhóm nhạc Backstreet Boys. Mirek Towski/DMI/The Life Picture Collection thông qua Getty Images/Getty Images Mirek Towski/DMI/The LIFE Picture Collection via Getty Images/Getty Images

Album "Backstreet Boys" năm 1997 là album đầu tay của nhóm tại Hoa Kỳ. Một trong những câu hỏi lớn nhất được đặt ra cho các cô gái tuổi teen vào cuối những năm 90 là Team Backstreet hay Team *NSYNC?

"Backstreet Boys" làm cho một trường hợp khá vững chắc cho Team Backstreet. Bốn bài hát đầu tiên của album là tất cả các vụ nổ, từ "We Weed It Goin 'trên" đến "Thoát chơi trò chơi (với trái tim tôi)" đến "miễn là bạn yêu tôi" đến "Tất cả những gì tôi phải đưa ra". Tất cả các tác phẩm kinh điển ...

1998: Leonardo DiCaprio

Diễn viên Leonardo DiCaprio tham dự Giải thưởng Quả cầu vàng thường niên lần thứ 55 vào ngày 18 tháng 1 năm 1998. Ron Galella, Ltd./Ron Galella Collection thông qua Getty Images Ron Galella, Ltd./Ron Galella Collection via Getty Images

Bất cứ ai còn sống vào năm 1998 đều biết rằng người nổi tiếng nhất ở Hollywood ở mọi lứa tuổi, chứ đừng nói đến thanh thiếu niên, là DiCaprio 24 tuổi. Mới ra khỏi bản phát hành "Titanic" tháng 12 năm 1997, hiện là bộ phim có doanh thu cao thứ ba & NBSP; Ever, sự nổi tiếng của DiCaprio đã tăng vọt.

2000: *NSYNC

*NSYNC tại Giải thưởng âm nhạc video 2000 MTV trực tiếp từ Radio City Music Hall. Frank Micelotta/ImageDirect thông qua Getty Images Frank Micelotta/ImageDirect via Getty Images

Lance Bass, JC Chasez, Joey Fatone, Chris Kirkpatrick, và không ai khác ngoài Justin Timberlake đã tạo nên một trong những ban nhạc nam vĩ đại cuối cùng của những năm đầu thập niên 2000 - bạn có thể biết họ là *nsync.

Trong ba album của ban nhạc, "No String đính kèm" của năm 2000 sẽ đi xuống là vĩ đại nhất của họ. Nó đã đi bạch kim - 11 lần. Có tới 2,4 triệu bản đã được bán trong tuần đầu tiên, một kỷ lục họ sẽ giữ trong 15 năm & nbsp; cho đến "25." của Adele's ""

Thật khó để nói quá nhiều *nsync lớn như thế nào ở đỉnh cao của họ. Có một lý do mỗi khi ngày 30 tháng 4 diễn ra, Internet chứa đầy các memes "Đó sẽ là tháng 5". Bài hát là một điểm tiếp xúc văn hóa. Không có vấn đề gì nếu bạn quá già để thích chúng hay thậm chí không được sinh ra khi bài hát xuất hiện, chỉ cần đọc lời bài hát khiến bạn nghe thấy giọng nói của Justin Timberlake trong đầu bạn.

2002: Christina Aguilera

Christina Aguilera biểu diễn bài hát "Beautiful" của mình tại The Big năm 2002. M. Caulfield/Wireimage qua Getty Images M. Caulfield/WireImage via Getty Images

Aguilera là Alum "Câu lạc bộ chuột Mickey" cuối cùng để đạt được tình trạng nữ hoàng tuổi teen - trên thực tế, vào năm 2002, cô đã đạt được vị thế của Nữ hoàng ở tuổi 22. Album năm 2002 của cô, "Stripped", các bản hit nổi bật như "Đẹp", "Fighter" và Đĩa đơn chính "Dirrty."

2003: Hilary Duff

Hilary Duff trong Giải thưởng Phim MTV 2003. SGranitz/Wireimage qua Getty Images SGranitz/WireImage via Getty Images

Duff đang ở giữa một cuộc chạy đua đáng kinh ngạc vào năm 2003. Chỉ riêng trong năm đó, cô đã xuất hiện trong "The Lizzie McGuire Movie", "Đặc vụ Cody Banks" và "rẻ hơn hàng tá" - tất cả các bộ phim rất quan trọng đối với những đứa trẻ 2000. Và cô ấy mới 16 tuổi.

Cùng năm đó, cô cũng đã phát hành album thứ hai của mình, "Metamorphosis", đạt vị trí số 1 trên bảng xếp hạng Billboard 200. Nó chứa các tác phẩm kinh điển như "Tại sao không," Tương lai "Laguna Beach" Bài hát chủ đề "Come Clean" và "My Super Sweet Sixteen" Theme Song "Sweet Sixteen".

2004: Jesse McCartney

Jesse McCartney tại Universal Ampitheatre ở Universal City, California. Albert L. Ortega/Wireimage qua Getty Images Albert L. Ortega/WireImage via Getty Images

Album đầu tay của McCartney được phát hành năm 2004, mang tên "Đẹp Soul". Cả album và bài hát cùng tên đều cực kỳ thành công. Bài hát đạt vị trí thứ 16 trên Hot 100 trong khi album được chứng nhận bạch kim và đạt đỉnh ở vị trí thứ 15.

McCartney đã giành được nhiều giải thưởng tại Giải thưởng Teen Choice năm 2005, bao gồm cả nam nghệ sĩ lựa chọn.Choice Male Artist.

Bắt đầu từ năm 2004, McCartney, 17 tuổi, cũng bắt đầu tham gia vào xà phòng tuổi teen "Summerland", và xuất hiện trong một tập của "What I Thích về bạn".

2005: Lindsay Lohan

Nữ diễn viên Lindsay Lohan đến Giải thưởng VH1 Big In '05 được tổ chức vào ngày 3 tháng 12 năm 2005. Mark Mainz/Getty Images Mark Mainz/Getty Images

Năm 2005 là năm cuối cùng sự nghiệp diễn xuất của Lohan không bị lu mờ bởi những trò hề ngoài màn hình của cô (như các vụ bắt giữ và bị bắt trong trại cai nghiện). Năm đó, cô đóng vai chính trong "Herbie: hoàn toàn được tải", và đã xuất hiện trong "Mean Girls", "Lời thú tội của một nữ hoàng phim truyền hình tuổi teen" và "Thứ Sáu kỳ dị", trong hai năm trước.

Cô cũng đã phát hành hai album duy nhất của mình, cho đến nay, vào năm 2004 và 2005: "Nói" và "Một chút cá nhân (RAW)."

2006: Zac Efron

Zac Efron vào ngày 11 tháng 5 năm 2006. Robin Platzer/Filmmagic qua Getty Images Robin Platzer/FilmMagic via Getty Images

Vào ngày 20 tháng 1 năm 2006, thanh thiếu niên, thanh thiếu niên và thanh thiếu niên ở khắp mọi nơi đã được giới thiệu với người đàn ông mơ ước của họ, Troy Bolton, do Zac Efron & NBSP, 17 tuổi, trong "nhạc kịch trung học".

Sự nổi tiếng của Efron tăng vọt qua đêm. Nhạc phim đạt đến vị trí hàng đầu trên Hot 100, nó đã sinh ra thêm hai phần tiếp theo (bao gồm một bộ phim được phát hành tại rạp, lần đầu tiên cho Disney Channel) một chuyến lưu diễn, và trở thành bộ phim truyền hình bán chạy nhất mọi thời đại.

Và tại trung tâm của tất cả là Efron, người đã dễ dàng trở thành người thành công nhất từ ​​nhượng quyền thương mại.

2007: Miley Cyrus

Nữ diễn viên Miley Cyrus đặt ra trong phòng báo chí trong Giải thưởng Teen Choice năm 2007 được tổ chức vào ngày 26 tháng 8 năm 2007. Frazer Harrison/Getty Images Frazer Harrison/Getty Images

Năm 2007, Cyrus đã 15 tuổi và một năm trong chương trình Disney Channel của cô "Hannah Montana". Cô cũng đã phát hành album thứ hai của mình với tên Hannah và album đầu tay của cô là chính mình, "Hannah Montana 2: Gặp Miley." Nó ra mắt ở vị trí số 1.

Vào tháng 10 năm đó, vé cho chuyến lưu diễn đầu tiên của cô đã được bán. Nhu cầu về vé là quá sức.

"Những người đã ở trong doanh nghiệp này trong một thời gian dài đang theo dõi những gì đang xảy ra và họ nói rằng không có nhu cầu về mức độ hoặc cường độ này kể từ Beatles hoặc Elvis", phó chủ tịch của Ticketmaster nói.

2008: The Jonas Brothers

The Jonas Brothers đến thăm trụ sở chính của nhiều người vào ngày 3 tháng 7 năm 2008. George Pimentel/WireImage via Getty Images

Anh em Nick, Joe và Kevin đang ở giữa một sự trở lại - nhưng hãy đi dạo trên làn đường bộ nhớ xuống 11 năm trước, khi Jonas Mania đang ở một cơn sốt.

Năm 2008, ban nhạc đã tận hưởng một thành công gần như không hợp nhất. Bộ phim gốc của Disney Channel (DCOM) "Camp Rock" được công chiếu và được xem bởi 8,9 triệu người xem, khiến nó trở thành DCOM được xem nhiều thứ hai mọi thời đại. Sau đó, nó đã bị hạ cấp xuống thứ ba bởi "Wizards of Waverly Place: The Movie" năm 2009.

Cũng được phát hành vào năm 2008? Album thứ ba của họ, "A Longer Longer", chứa các tác phẩm kinh điển của Jobros mọi thời đại như "Khi bạn nhìn vào mắt tôi" và "Burnin 'Up".

Năm giới thiệu với một cái gật đầu Grammy cho nghệ sĩ mới xuất sắc nhất vào tháng 12.

2009: Taylor Swift

Taylor Swift biểu diễn tại Madison Square Garden vào ngày 27 tháng 8 năm 2009, tại thành phố New York. Theo Wargo/Wireimage cho New York Post Theo Wargo/WireImage for New York Post

Chỉ 10 năm trước, Swift 19 tuổi và gần đây đã phát hành album thứ hai của mình, "Fearless". Nó đã tiếp tục trở thành album bán chạy nhất năm 2009, với đĩa đơn Monster Hit "You Association With Me".

Cũng củng cố tình trạng nữ hoàng tuổi teen của mình? Sự thất bại lớn của VMAS năm 2009, trong đó Kanye West chạy trên sân khấu để tuyên bố rằng, xin lỗi, Beyoncé đã có video âm nhạc tuyệt vời nhất mọi thời đại. Toàn bộ thế giới đứng về phía Swift, ngay cả Tổng thống Obama.

2010: Justin Bieber

Khách mời âm nhạc Justin Bieber trong một cuộc phỏng vấn vào ngày 1 tháng 4 năm 2010, trên "The Tonight Show với Jay Leno." Stacie McChesney/NBCU Photo Bank Stacie McChesney/NBCU Photo Bank

Biebs vẫn là một ca sĩ cực kỳ nổi tiếng, nhưng anh ấy đã xoay quanh một hình ảnh người lớn hơn. Nhưng Bieber thời 2010 có lẽ là hình ảnh thu nhỏ của Teen Idol-chỉ cần nhìn vào mái tóc xù xì đó. & NBSP;

Bieber Fever đạt mức cao nhất mọi thời đại khi anh phát hành album đầu tay "My World 2.0" vào năm 2010, với đĩa đơn "Baby". Bài hát được phát hành vào tháng 1 và được chứng minh là không thể vượt qua trong phần còn lại của năm.

Năm 2011, bộ phim tài liệu "Justin Bieber: Never Say Never" đã được phát hành. Bộ phim mô tả những ngày dẫn đến buổi hòa nhạc Landmark 2010 của Bieber tại Madison Square Garden, đã bán hết trong 22 phút khi anh mới 16 tuổi.

2011: Demi Lovato

Ca sĩ Demi Lovato biểu diễn trên sân khấu trong Giải thưởng VH1 DO Something 2011 vào ngày 14 tháng 8 năm 2011. Kevin Mazur/Wireimage qua Getty Images Kevin Mazur/WireImage via Getty Images

Năm 2011, Lovato sắp ra mắt hai bộ phim truyền hình thành công ("Camp Rock" và phần tiếp theo của nó), một bộ phim sitcom ("Sonny with a Chance"), & NBSP; và đã phát hành bài hát biểu đồ cao nhất của cô ấy vào thời điểm đó, "Skyscraper." Nhưng cô ấy đã phân biệt bản thân với các ngôi sao nhạc pop khác vào thời điểm đó bằng cách cởi mở về sức khỏe tinh thần của cô ấy và sau đó, đấu tranh với chứng nghiện.

Người đàn ông 19 tuổi sau đó đã dẫn đường cho một loại thần tượng tuổi teen mới.

2012: One Direction

Harry Styles of One Direction thực hiện trên "Today" của NBC tại Rockefeller Plaza vào ngày 13 tháng 11 năm 2012. Al Pereira/Wireimage qua Getty Images Al Pereira/WireImage via Getty Images

One Direction đã lấp đầy lỗ hổng hình anh em Jonas trong thị trường ban nhạc nam khi chúng được hình thành trên "The X Factor" vào năm 2010. Họ đã mất vài năm để vượt qua ao cho Mỹ, nhưng khi họ làm vậy, đó là một người Anh Cuộc xâm lược của tỷ lệ sử thi.

Harry Styles, Liam Payne, Niall Horan, Louis Tomlinson và tại thời điểm Zayn Malik, trở thành năm trong số những ngôi sao lớn nhất thế giới. Album đầu tay của họ "Up All Night" đã được phát hành tại Mỹ vào tháng 3 năm 2012. Nó ra mắt ở vị trí số 1, mà ba album tiếp theo của họ cũng sẽ tiếp tục làm. Album thứ hai của họ, "Take Me Home", cũng được phát hành vào năm 2012.

2013: Ariana Grande

Khách mời âm nhạc Ariana Grande biểu diễn "Giáng sinh cuối cùng" vào thứ Năm ngày 28 tháng 11 năm 2013 vào "Đêm muộn với Jimmy Fallon". Lloyd Bishop/NBC/NBCU Photo Bank thông qua Getty Images Lloyd Bishop/NBC/NBCU Photo Bank via Getty Images

Vào năm 2019, Grande là một trong những người nổi tiếng nhất hành tinh, nhưng vào năm 2013, cô đã ở chế độ thần tượng tuổi teen toàn diện. Spin-off của cô trên Nickelodeon "Sam & Cat" được công chiếu vào tháng 8 năm đó. Người đàn ông 20 tuổi này cũng đã bỏ album đầu tiên của mình, "Yours thật", một tháng sau đó vào tháng Chín.

"Yours thực sự" đã sinh ra đĩa đơn đầu tiên của Grande, "The Way", kể từ đó đã được chứng nhận Triple Platinum.

2014: Cameron Dallas

Nhân cách Internet Cameron Dallas tham dự Giải thưởng Phim Hollywood thường niên lần thứ 18 tại Palladi vào ngày 14 tháng 11 năm 2014, tại Hollywood, California. Hình ảnh Jason Merritt/Getty Jason Merritt/Getty Images

Dallas là một trong những ngôi sao internet đầu tiên vượt qua dòng chính khiến mọi người trên 25 tuổi hỏi, "Ai?"

Vào năm 2014 và vào thời điểm anh ấy 20 tuổi, Dallas đã có hơn sáu triệu người theo dõi trên Vine, khiến anh ấy trở thành tài khoản thứ 10 được theo dõi nhiều nhất trên ứng dụng. Cùng năm đó, anh đóng vai chính trong bộ phim hài tuổi teen "bị trục xuất".

Hai năm sau, anh được Netflix khai thác để đóng vai chính trong chương trình thực tế của riêng mình, "Chasing Cameron."

2015: Shawn Mendes

Ca sĩ/nhạc sĩ Shawn Mendes chụp ảnh tự sướng với người hâm mộ tại Giải thưởng People's Choice 2016 vào ngày 6 tháng 1 năm 2016. Alberto E. Rodriguez/Getty Images cho dailymail.com Alberto E. Rodriguez/Getty Images for DailyMail.com

Mendes bắt đầu thu hút người hâm mộ trên Vine ứng dụng hiện không còn tồn tại. Nhưng anh ấy đã trở thành một trong số ít các ca sĩ từ ứng dụng để đạt được thành công chính thống. Vào năm 2015, Mendes đã phát hành album đầu tay của mình, "Viết tay", khi anh ấy 17 tuổi.

Kể từ đó, Mendes đã phát triển ra khỏi nhãn hiệu tuổi teen của mình và trở thành một người trung thành. Cầu thủ 20 tuổi này đã được đề cử hai giải Grammy, và năm 2018 đã trở thành nghệ sĩ đầu tiên đạt được bốn đĩa đơn số 1 & nbsp; trên & nbsp; Bài hát pop người lớn & biểu đồ trước 20 tuổi. on the Adult Pop Songs chart before the age of 20.

2016: Millie Bobby Brown

Nữ diễn viên Millie Bobby Brown tham dự sự kiện kỷ niệm 70 năm của UNICEF vào ngày 12 tháng 12 năm 2016. Noam Galai/Wireimage qua Getty Images Noam Galai/WireImage via Getty Images

Chân dung Eleven của Brown về "Stranger Things" hoàn toàn thổi bay mọi người khi chương trình giảm xuống Netflix vào năm 2016. Có một lý do cô ấy vẫn là một bộ trang phục Halloween nổi tiếng, hoàn chỉnh với bánh quế Eggos.

Người đàn ông 13 tuổi này thậm chí còn được đề cử giải Emmy cho màn trình diễn của cô trong phần một, khiến cô trở thành một trong những ứng cử viên trẻ nhất mọi thời đại.

2017: Jake Paul

Jake Paul tham dự phòng báo chí Jingle Ball 2017 của Z100 vào ngày 8 tháng 12 năm 2017. Hình ảnh Monica Schipper/Getty cho IHeartMedia Monica Schipper/Getty Images for iHeartMedia

Trong thời đại ngày nay, các thần tượng tuổi teen đến từ Internet. Phao -lô có lẽ là ví dụ hung hăng nhất về điều này. Cựu ngôi sao Vine đã chuyển sang YouTube trở lại vào năm 2014 và đã tích lũy được 19 triệu người đăng ký kể từ đó.

Vào năm 2017, Paul đồng thời đã khởi động chương trình Disney Channel của mình "Bizaardvark", đã phát hành một bài hát có tên "Its Are Everyday Bro" đã xếp hạng trên Billboard Hot 100, và rút ra một trò chơi khăm trong đó anh ta đi chơi trong Nhà Trắng cho đến 3 giờ sáng. mà không bị bắt.

Paul, năm 19 tuổi, cũng đã huy động được 1 triệu đô la để tài trợ cho Teamdom, một công ty truyền thông giúp YouTubers và những người có ảnh hưởng xây dựng thương hiệu của họ. & NBSP;

2018: Noah Centineo

Noah Centineo tham dự buổi ra mắt "Sierra Burgess là người thua cuộc của Netflix vào ngày 30 tháng 8 năm 2018, tại Hollywood, California. Frazer Harrison/Getty Images Frazer Harrison/Getty Images

Centineo hoàn toàn chiếm lĩnh Internet vào năm 2018 sau khi trở lại vai diễn trong bộ phim hài lãng mạn tuyệt vời mọi thời đại "cho tất cả các chàng trai tôi yêu trước đây" và người ít yêu thích nhưng vẫn thành công "Sierra Burgess là một kẻ thua cuộc."

Người đàn ông 23 tuổi, người đã bắt đầu trên Kênh Disney, đã sẵn sàng để duy trì tình trạng bạn trai Internet của mình vào năm 2019 với vai trò trong một phần tiếp theo của Netflix Rom-com, "The Perfect" và một vai trò trong khởi động lại "Charlie's Angels" mới.

Đọc tiếp theo

Tính năng năm cổ điển bạn sinh ra

Hơn...