Từ bi nghĩa là gì
QUYỂN SÁU: TỪ BI TRONG ĐẠO PHẬT
Mặc dù
thường được mọi người nói đến hai chữ từ bi, nhưng không ít người đã hiểu một
cách sai lệch, chỉ theo quán tính của mình. Có người hiểu từ bi là một tình
thương nhỏ nhặt tầm thường nông cạn; có người hiểu từ bi là một tình thương
nhạt nhẽo, lãnh đạm, tiêu cực, thua xa "tình yêu" hay "bác
ái"; có người cho từ bi là một hình thức biến thể của "ích kỷ";
lại có người đi xa hơn cho từ bi là một danh từ trống rỗng là "vô
nghĩa". Vậy từ bi là thế nào? - Từ bi
trong đời đức giáo chủ Thích Ca Mâu Ni Phật. I.-
TỪ BI TRONG ĐỜI ĐỨC GIÁO CHỦ THÍCH CA MÂU NI "...
Ta không muốn làm một kẻ chinh chiến, tắm bánh xe trong máu đào của muôn bãi
chiến để rồi lưu lại cho hậu thế một kỷ niệm đỏ gớm ghê... Và ngài đã nói với tên giữ ngựa Xa Nặc như thế nào? "- Ngươi ạ, sẽ là một thứ tình yêu giả trá nếu ta chỉ ở bên cạnh những người thân để hưởng những lạc thú ích kỷ. Ta muốn đừng bịn rịn với Tổ quốc nhỏ hẹp này để được yêu vũ trụ rộng lớn..." (1) Và trên
con đường đi tìm đạo, đức Phật đã không từ một cử chỉ nhỏ nhặt nào của tình
thương. Trí không
bi là trí điêu xảo, Bi và trí
cần được trau dồi, phát triển đồng đều với nhau: trí làm cho bi sáng suốt, bi
làm cho trí thuần lương. Trí và Bi như hai bánh của một chiếc xe. Một trong hai
bánh rời ra là xe trút đổ. Tình thương ấy lại cần phải vô biên, không hạn cuộc.
Nếu còn thấy giới hạn của tình thương, thấy có người hay vật mình không thương
được, thấy có kẻ thù, thì chưa phải là từ bi. Cho nên trong pháp quán từ bi,
người ta thường luyện hai cách: hoặc mở rộng tình thương tuần tự đi từ những
người thân trong gia đình, cha mẹ, vợ con, dần dần đến thân thuộc, bạn bè, rồi
đến hàng xóm láng giềng, đến những người không thân, cuối cùng đến kẻ thù; và
phải tập thế nào cho đến khi mình thấy thương kẻ thù như người thân nhất mới
thôi; hoặc người ta trở ngược lại đi từ kẻ thù ghê gớm nhất dần dần đến kẻ thân
nhất; khi thấy không còn phân biệt giữa kẻ thù và người thân nhất mới
thôi. - Thế nếu họ lấy tay đánh hay lấy đá ném vào ông? - Bạch Thế Tôn! Con sẽ tự bảo: họ còn thương ta, vì họ không dùng gươm để đâm ta. - Nếu họ dùng gươm để đâm ông? - Bạch Thế Tôn! Con sẽ tự bảo: họ còn tốt, vì họ chưa đâm ta đến chết. - Nếu họ đâm ông đến chết? - Bạch Thế Tôn! Con sẽ tự bảo: họ đã giải thoát cho ta thoát khỏi cái thân vô thường, đau khổ. Chính đạo Phật đã có thái độ ấy trong lúc truyền đạo: người ta đánh đập thì mình chạy, nếu chạy không được thì đành chịu bị đánh hay bị giết. Do thái độ hiền hòa, bất bạo động, bất đề kháng ấy mà đạo Phật đã cảm hóa được nhân tâm, đã lan tràn mau lẹ trên thế giới. Phát xuất từ Ấn Độ, được sùng mộ trong khoảng gần mười thế kỷ ở đây rồi bị Bà La Môn lấy uy quyền hiếp đáp, xua đuổi, đạo Phật lẳng lặng ra khỏi Ấn Độ để du nhập những nước láng giềng. Sự hy sinh lớn lao của đạo Phật khi rời bỏ Ấn Độ, ra đi mà không chống cự lại, đã gây một ảnh hưởng vô cùng vĩ đại, chứng tỏ người Phật tử đã trung thành với giáo lý mà mình đã theo, với lời của Phật đã dạy. Cái truyền thống bất bạo động ấy chưa một lần nào bị vi phạm, mặc dù ở đâu và lúc nào. Xét như các xứ Tây Tạng, và nhất là Mông Cổ của Thành Cát Tư Hản xưa kia có tiếng là hung bạo, thế mà đạo Phật vẫn cảm phục được và biến đổi người dân ở những xứ đó thành hiền lương, thuần hậu. Cho đến ngày nay, chúng ta không lấy làm lạ khi thấy đạo Phật được gọi là đạo hòa bình và những phong trào hòa bình trên thế giới đều lấy đạo Phật làm nồng cốt, hay đều chịu ít nhiều ảnh hưởng của Phật giáo. Trong một hội nghị Phật giáo thế giới lần thứ III họp ở Nhật, hay lần thứ IV ở Népal, vấn đề hòa bình trong đạo Phật đã đươc nêu lên làm điểm chính cho cuộc thảo luận. Trong hội nghị văn hóa quốc tế họp ở Tân Đề Li năm 1956, Thủ tướng Nehru, người lãnh đạo khối Colombo, người chủ trương giải quyết mọi vấn đề quốc tế bằng giải pháp hòa bình, con người hòa giải vĩ đại ấy trong bài diễn văn khai mạc, đã tỏ ra rất hy vọng và tin tưởng ở năng lực Phật giáo trong công cuộc xây đắp một nền hòa bình vững chắc cho nhân loại. Phó Tổng Thống Ấn Độ Radhakrishnan, trong một cuộc mít tinh (ngày 23-11-1956) tại Tân Đề Li, đã tuyên bố trước sự hiện diện của hơn sáu mươi học giả danh tiếng trên thế giới: "Khoa học đã mang lại cho nhân loại nhiều quyền lực đến nỗi họ có thể tự phá hủy đời sống của mình. Cho nên có thể nói rằng, nếu không trồng cho mình những đức từ bi, bất bạo động, thì loài người hủy hoại tất cả. Hủy hoại hạnh phúc mình và chính bản thân mình nữa". Xem thế, chúng ta thấy từ bi của đạo Phật là một tình thương rộng mênh mông lan trải từ người đến vật, đến cỏ cây, rất bình đẳng, rất tích cực chứ không phải hạn cuộc, ích kỷ, tiêu cực, vô nghĩa như một số người đã lầm tưởng. Nó có những tác dụng quý báu thiết thực, ích lợi cho cuộc đời, có những ảnh hưởng tốt đẹp cho sự sống. Nó làm cho con người trở nên hiền dịu, rộng rãi, thông cảm với đồng loại, với muôn vật, với cỏ cây, biết tôn trọng sự sống của tất cả, và không vì một lý do gì mà tàn sát sinh vật, cũng không vì một lý do gì mà giết hại đồng loại hay gây chiến tranh. Chỉ riêng mấy điểm ấy, đạo Phật cũng đáng để nhân loại cảm mến tôn sùng. GHI CHÚ: (1) Ánh
Đạo Vàng của Võ Đình Cường. Page 2
QUYỂN SÁU: TỪ BI TRONG ĐẠO PHẬT
Mặc dù
thường được mọi người nói đến hai chữ từ bi, nhưng không ít người đã hiểu một
cách sai lệch, chỉ theo quán tính của mình. Có người hiểu từ bi là một tình
thương nhỏ nhặt tầm thường nông cạn; có người hiểu từ bi là một tình thương
nhạt nhẽo, lãnh đạm, tiêu cực, thua xa "tình yêu" hay "bác
ái"; có người cho từ bi là một hình thức biến thể của "ích kỷ";
lại có người đi xa hơn cho từ bi là một danh từ trống rỗng là "vô
nghĩa". Vậy từ bi là thế nào? - Từ bi
trong đời đức giáo chủ Thích Ca Mâu Ni Phật. I.-
TỪ BI TRONG ĐỜI ĐỨC GIÁO CHỦ THÍCH CA MÂU NI "...
Ta không muốn làm một kẻ chinh chiến, tắm bánh xe trong máu đào của muôn bãi
chiến để rồi lưu lại cho hậu thế một kỷ niệm đỏ gớm ghê... Và ngài đã nói với tên giữ ngựa Xa Nặc như thế nào? "- Ngươi ạ, sẽ là một thứ tình yêu giả trá nếu ta chỉ ở bên cạnh những người thân để hưởng những lạc thú ích kỷ. Ta muốn đừng bịn rịn với Tổ quốc nhỏ hẹp này để được yêu vũ trụ rộng lớn..." (1) Và trên
con đường đi tìm đạo, đức Phật đã không từ một cử chỉ nhỏ nhặt nào của tình
thương. Trí không
bi là trí điêu xảo, Bi và trí
cần được trau dồi, phát triển đồng đều với nhau: trí làm cho bi sáng suốt, bi
làm cho trí thuần lương. Trí và Bi như hai bánh của một chiếc xe. Một trong hai
bánh rời ra là xe trút đổ. Tình thương ấy lại cần phải vô biên, không hạn cuộc.
Nếu còn thấy giới hạn của tình thương, thấy có người hay vật mình không thương
được, thấy có kẻ thù, thì chưa phải là từ bi. Cho nên trong pháp quán từ bi,
người ta thường luyện hai cách: hoặc mở rộng tình thương tuần tự đi từ những
người thân trong gia đình, cha mẹ, vợ con, dần dần đến thân thuộc, bạn bè, rồi
đến hàng xóm láng giềng, đến những người không thân, cuối cùng đến kẻ thù; và
phải tập thế nào cho đến khi mình thấy thương kẻ thù như người thân nhất mới
thôi; hoặc người ta trở ngược lại đi từ kẻ thù ghê gớm nhất dần dần đến kẻ thân
nhất; khi thấy không còn phân biệt giữa kẻ thù và người thân nhất mới
thôi. - Thế nếu họ lấy tay đánh hay lấy đá ném vào ông? - Bạch Thế Tôn! Con sẽ tự bảo: họ còn thương ta, vì họ không dùng gươm để đâm ta. - Nếu họ dùng gươm để đâm ông? - Bạch Thế Tôn! Con sẽ tự bảo: họ còn tốt, vì họ chưa đâm ta đến chết. - Nếu họ đâm ông đến chết? - Bạch Thế Tôn! Con sẽ tự bảo: họ đã giải thoát cho ta thoát khỏi cái thân vô thường, đau khổ. Chính đạo Phật đã có thái độ ấy trong lúc truyền đạo: người ta đánh đập thì mình chạy, nếu chạy không được thì đành chịu bị đánh hay bị giết. Do thái độ hiền hòa, bất bạo động, bất đề kháng ấy mà đạo Phật đã cảm hóa được nhân tâm, đã lan tràn mau lẹ trên thế giới. Phát xuất từ Ấn Độ, được sùng mộ trong khoảng gần mười thế kỷ ở đây rồi bị Bà La Môn lấy uy quyền hiếp đáp, xua đuổi, đạo Phật lẳng lặng ra khỏi Ấn Độ để du nhập những nước láng giềng. Sự hy sinh lớn lao của đạo Phật khi rời bỏ Ấn Độ, ra đi mà không chống cự lại, đã gây một ảnh hưởng vô cùng vĩ đại, chứng tỏ người Phật tử đã trung thành với giáo lý mà mình đã theo, với lời của Phật đã dạy. Cái truyền thống bất bạo động ấy chưa một lần nào bị vi phạm, mặc dù ở đâu và lúc nào. Xét như các xứ Tây Tạng, và nhất là Mông Cổ của Thành Cát Tư Hản xưa kia có tiếng là hung bạo, thế mà đạo Phật vẫn cảm phục được và biến đổi người dân ở những xứ đó thành hiền lương, thuần hậu. Cho đến ngày nay, chúng ta không lấy làm lạ khi thấy đạo Phật được gọi là đạo hòa bình và những phong trào hòa bình trên thế giới đều lấy đạo Phật làm nồng cốt, hay đều chịu ít nhiều ảnh hưởng của Phật giáo. Trong một hội nghị Phật giáo thế giới lần thứ III họp ở Nhật, hay lần thứ IV ở Népal, vấn đề hòa bình trong đạo Phật đã đươc nêu lên làm điểm chính cho cuộc thảo luận. Trong hội nghị văn hóa quốc tế họp ở Tân Đề Li năm 1956, Thủ tướng Nehru, người lãnh đạo khối Colombo, người chủ trương giải quyết mọi vấn đề quốc tế bằng giải pháp hòa bình, con người hòa giải vĩ đại ấy trong bài diễn văn khai mạc, đã tỏ ra rất hy vọng và tin tưởng ở năng lực Phật giáo trong công cuộc xây đắp một nền hòa bình vững chắc cho nhân loại. Phó Tổng Thống Ấn Độ Radhakrishnan, trong một cuộc mít tinh (ngày 23-11-1956) tại Tân Đề Li, đã tuyên bố trước sự hiện diện của hơn sáu mươi học giả danh tiếng trên thế giới: "Khoa học đã mang lại cho nhân loại nhiều quyền lực đến nỗi họ có thể tự phá hủy đời sống của mình. Cho nên có thể nói rằng, nếu không trồng cho mình những đức từ bi, bất bạo động, thì loài người hủy hoại tất cả. Hủy hoại hạnh phúc mình và chính bản thân mình nữa". Xem thế, chúng ta thấy từ bi của đạo Phật là một tình thương rộng mênh mông lan trải từ người đến vật, đến cỏ cây, rất bình đẳng, rất tích cực chứ không phải hạn cuộc, ích kỷ, tiêu cực, vô nghĩa như một số người đã lầm tưởng. Nó có những tác dụng quý báu thiết thực, ích lợi cho cuộc đời, có những ảnh hưởng tốt đẹp cho sự sống. Nó làm cho con người trở nên hiền dịu, rộng rãi, thông cảm với đồng loại, với muôn vật, với cỏ cây, biết tôn trọng sự sống của tất cả, và không vì một lý do gì mà tàn sát sinh vật, cũng không vì một lý do gì mà giết hại đồng loại hay gây chiến tranh. Chỉ riêng mấy điểm ấy, đạo Phật cũng đáng để nhân loại cảm mến tôn sùng. GHI CHÚ: (1) Ánh
Đạo Vàng của Võ Đình Cường. Page 3
QUYỂN SÁU: TỪ BI TRONG ĐẠO PHẬT
Mặc dù
thường được mọi người nói đến hai chữ từ bi, nhưng không ít người đã hiểu một
cách sai lệch, chỉ theo quán tính của mình. Có người hiểu từ bi là một tình
thương nhỏ nhặt tầm thường nông cạn; có người hiểu từ bi là một tình thương
nhạt nhẽo, lãnh đạm, tiêu cực, thua xa "tình yêu" hay "bác
ái"; có người cho từ bi là một hình thức biến thể của "ích kỷ";
lại có người đi xa hơn cho từ bi là một danh từ trống rỗng là "vô
nghĩa". Vậy từ bi là thế nào? - Từ bi
trong đời đức giáo chủ Thích Ca Mâu Ni Phật. I.-
TỪ BI TRONG ĐỜI ĐỨC GIÁO CHỦ THÍCH CA MÂU NI "...
Ta không muốn làm một kẻ chinh chiến, tắm bánh xe trong máu đào của muôn bãi
chiến để rồi lưu lại cho hậu thế một kỷ niệm đỏ gớm ghê... Và ngài đã nói với tên giữ ngựa Xa Nặc như thế nào? "- Ngươi ạ, sẽ là một thứ tình yêu giả trá nếu ta chỉ ở bên cạnh những người thân để hưởng những lạc thú ích kỷ. Ta muốn đừng bịn rịn với Tổ quốc nhỏ hẹp này để được yêu vũ trụ rộng lớn..." (1) Và trên
con đường đi tìm đạo, đức Phật đã không từ một cử chỉ nhỏ nhặt nào của tình
thương. Trí không
bi là trí điêu xảo, Bi và trí
cần được trau dồi, phát triển đồng đều với nhau: trí làm cho bi sáng suốt, bi
làm cho trí thuần lương. Trí và Bi như hai bánh của một chiếc xe. Một trong hai
bánh rời ra là xe trút đổ. Tình thương ấy lại cần phải vô biên, không hạn cuộc.
Nếu còn thấy giới hạn của tình thương, thấy có người hay vật mình không thương
được, thấy có kẻ thù, thì chưa phải là từ bi. Cho nên trong pháp quán từ bi,
người ta thường luyện hai cách: hoặc mở rộng tình thương tuần tự đi từ những
người thân trong gia đình, cha mẹ, vợ con, dần dần đến thân thuộc, bạn bè, rồi
đến hàng xóm láng giềng, đến những người không thân, cuối cùng đến kẻ thù; và
phải tập thế nào cho đến khi mình thấy thương kẻ thù như người thân nhất mới
thôi; hoặc người ta trở ngược lại đi từ kẻ thù ghê gớm nhất dần dần đến kẻ thân
nhất; khi thấy không còn phân biệt giữa kẻ thù và người thân nhất mới
thôi. - Thế nếu họ lấy tay đánh hay lấy đá ném vào ông? - Bạch Thế Tôn! Con sẽ tự bảo: họ còn thương ta, vì họ không dùng gươm để đâm ta. - Nếu họ dùng gươm để đâm ông? - Bạch Thế Tôn! Con sẽ tự bảo: họ còn tốt, vì họ chưa đâm ta đến chết. - Nếu họ đâm ông đến chết? - Bạch Thế Tôn! Con sẽ tự bảo: họ đã giải thoát cho ta thoát khỏi cái thân vô thường, đau khổ. Chính đạo Phật đã có thái độ ấy trong lúc truyền đạo: người ta đánh đập thì mình chạy, nếu chạy không được thì đành chịu bị đánh hay bị giết. Do thái độ hiền hòa, bất bạo động, bất đề kháng ấy mà đạo Phật đã cảm hóa được nhân tâm, đã lan tràn mau lẹ trên thế giới. Phát xuất từ Ấn Độ, được sùng mộ trong khoảng gần mười thế kỷ ở đây rồi bị Bà La Môn lấy uy quyền hiếp đáp, xua đuổi, đạo Phật lẳng lặng ra khỏi Ấn Độ để du nhập những nước láng giềng. Sự hy sinh lớn lao của đạo Phật khi rời bỏ Ấn Độ, ra đi mà không chống cự lại, đã gây một ảnh hưởng vô cùng vĩ đại, chứng tỏ người Phật tử đã trung thành với giáo lý mà mình đã theo, với lời của Phật đã dạy. Cái truyền thống bất bạo động ấy chưa một lần nào bị vi phạm, mặc dù ở đâu và lúc nào. Xét như các xứ Tây Tạng, và nhất là Mông Cổ của Thành Cát Tư Hản xưa kia có tiếng là hung bạo, thế mà đạo Phật vẫn cảm phục được và biến đổi người dân ở những xứ đó thành hiền lương, thuần hậu. Cho đến ngày nay, chúng ta không lấy làm lạ khi thấy đạo Phật được gọi là đạo hòa bình và những phong trào hòa bình trên thế giới đều lấy đạo Phật làm nồng cốt, hay đều chịu ít nhiều ảnh hưởng của Phật giáo. Trong một hội nghị Phật giáo thế giới lần thứ III họp ở Nhật, hay lần thứ IV ở Népal, vấn đề hòa bình trong đạo Phật đã đươc nêu lên làm điểm chính cho cuộc thảo luận. Trong hội nghị văn hóa quốc tế họp ở Tân Đề Li năm 1956, Thủ tướng Nehru, người lãnh đạo khối Colombo, người chủ trương giải quyết mọi vấn đề quốc tế bằng giải pháp hòa bình, con người hòa giải vĩ đại ấy trong bài diễn văn khai mạc, đã tỏ ra rất hy vọng và tin tưởng ở năng lực Phật giáo trong công cuộc xây đắp một nền hòa bình vững chắc cho nhân loại. Phó Tổng Thống Ấn Độ Radhakrishnan, trong một cuộc mít tinh (ngày 23-11-1956) tại Tân Đề Li, đã tuyên bố trước sự hiện diện của hơn sáu mươi học giả danh tiếng trên thế giới: "Khoa học đã mang lại cho nhân loại nhiều quyền lực đến nỗi họ có thể tự phá hủy đời sống của mình. Cho nên có thể nói rằng, nếu không trồng cho mình những đức từ bi, bất bạo động, thì loài người hủy hoại tất cả. Hủy hoại hạnh phúc mình và chính bản thân mình nữa". Xem thế, chúng ta thấy từ bi của đạo Phật là một tình thương rộng mênh mông lan trải từ người đến vật, đến cỏ cây, rất bình đẳng, rất tích cực chứ không phải hạn cuộc, ích kỷ, tiêu cực, vô nghĩa như một số người đã lầm tưởng. Nó có những tác dụng quý báu thiết thực, ích lợi cho cuộc đời, có những ảnh hưởng tốt đẹp cho sự sống. Nó làm cho con người trở nên hiền dịu, rộng rãi, thông cảm với đồng loại, với muôn vật, với cỏ cây, biết tôn trọng sự sống của tất cả, và không vì một lý do gì mà tàn sát sinh vật, cũng không vì một lý do gì mà giết hại đồng loại hay gây chiến tranh. Chỉ riêng mấy điểm ấy, đạo Phật cũng đáng để nhân loại cảm mến tôn sùng. GHI CHÚ: (1) Ánh
Đạo Vàng của Võ Đình Cường. Page 4
QUYỂN SÁU: TỪ BI TRONG ĐẠO PHẬT
Mặc dù
thường được mọi người nói đến hai chữ từ bi, nhưng không ít người đã hiểu một
cách sai lệch, chỉ theo quán tính của mình. Có người hiểu từ bi là một tình
thương nhỏ nhặt tầm thường nông cạn; có người hiểu từ bi là một tình thương
nhạt nhẽo, lãnh đạm, tiêu cực, thua xa "tình yêu" hay "bác
ái"; có người cho từ bi là một hình thức biến thể của "ích kỷ";
lại có người đi xa hơn cho từ bi là một danh từ trống rỗng là "vô
nghĩa". Vậy từ bi là thế nào? - Từ bi
trong đời đức giáo chủ Thích Ca Mâu Ni Phật. I.-
TỪ BI TRONG ĐỜI ĐỨC GIÁO CHỦ THÍCH CA MÂU NI "...
Ta không muốn làm một kẻ chinh chiến, tắm bánh xe trong máu đào của muôn bãi
chiến để rồi lưu lại cho hậu thế một kỷ niệm đỏ gớm ghê... Và ngài đã nói với tên giữ ngựa Xa Nặc như thế nào? "- Ngươi ạ, sẽ là một thứ tình yêu giả trá nếu ta chỉ ở bên cạnh những người thân để hưởng những lạc thú ích kỷ. Ta muốn đừng bịn rịn với Tổ quốc nhỏ hẹp này để được yêu vũ trụ rộng lớn..." (1) Và trên
con đường đi tìm đạo, đức Phật đã không từ một cử chỉ nhỏ nhặt nào của tình
thương. Trí không
bi là trí điêu xảo, Bi và trí
cần được trau dồi, phát triển đồng đều với nhau: trí làm cho bi sáng suốt, bi
làm cho trí thuần lương. Trí và Bi như hai bánh của một chiếc xe. Một trong hai
bánh rời ra là xe trút đổ. Tình thương ấy lại cần phải vô biên, không hạn cuộc.
Nếu còn thấy giới hạn của tình thương, thấy có người hay vật mình không thương
được, thấy có kẻ thù, thì chưa phải là từ bi. Cho nên trong pháp quán từ bi,
người ta thường luyện hai cách: hoặc mở rộng tình thương tuần tự đi từ những
người thân trong gia đình, cha mẹ, vợ con, dần dần đến thân thuộc, bạn bè, rồi
đến hàng xóm láng giềng, đến những người không thân, cuối cùng đến kẻ thù; và
phải tập thế nào cho đến khi mình thấy thương kẻ thù như người thân nhất mới
thôi; hoặc người ta trở ngược lại đi từ kẻ thù ghê gớm nhất dần dần đến kẻ thân
nhất; khi thấy không còn phân biệt giữa kẻ thù và người thân nhất mới
thôi. - Thế nếu họ lấy tay đánh hay lấy đá ném vào ông? - Bạch Thế Tôn! Con sẽ tự bảo: họ còn thương ta, vì họ không dùng gươm để đâm ta. - Nếu họ dùng gươm để đâm ông? - Bạch Thế Tôn! Con sẽ tự bảo: họ còn tốt, vì họ chưa đâm ta đến chết. - Nếu họ đâm ông đến chết? - Bạch Thế Tôn! Con sẽ tự bảo: họ đã giải thoát cho ta thoát khỏi cái thân vô thường, đau khổ. Chính đạo Phật đã có thái độ ấy trong lúc truyền đạo: người ta đánh đập thì mình chạy, nếu chạy không được thì đành chịu bị đánh hay bị giết. Do thái độ hiền hòa, bất bạo động, bất đề kháng ấy mà đạo Phật đã cảm hóa được nhân tâm, đã lan tràn mau lẹ trên thế giới. Phát xuất từ Ấn Độ, được sùng mộ trong khoảng gần mười thế kỷ ở đây rồi bị Bà La Môn lấy uy quyền hiếp đáp, xua đuổi, đạo Phật lẳng lặng ra khỏi Ấn Độ để du nhập những nước láng giềng. Sự hy sinh lớn lao của đạo Phật khi rời bỏ Ấn Độ, ra đi mà không chống cự lại, đã gây một ảnh hưởng vô cùng vĩ đại, chứng tỏ người Phật tử đã trung thành với giáo lý mà mình đã theo, với lời của Phật đã dạy. Cái truyền thống bất bạo động ấy chưa một lần nào bị vi phạm, mặc dù ở đâu và lúc nào. Xét như các xứ Tây Tạng, và nhất là Mông Cổ của Thành Cát Tư Hản xưa kia có tiếng là hung bạo, thế mà đạo Phật vẫn cảm phục được và biến đổi người dân ở những xứ đó thành hiền lương, thuần hậu. Cho đến ngày nay, chúng ta không lấy làm lạ khi thấy đạo Phật được gọi là đạo hòa bình và những phong trào hòa bình trên thế giới đều lấy đạo Phật làm nồng cốt, hay đều chịu ít nhiều ảnh hưởng của Phật giáo. Trong một hội nghị Phật giáo thế giới lần thứ III họp ở Nhật, hay lần thứ IV ở Népal, vấn đề hòa bình trong đạo Phật đã đươc nêu lên làm điểm chính cho cuộc thảo luận. Trong hội nghị văn hóa quốc tế họp ở Tân Đề Li năm 1956, Thủ tướng Nehru, người lãnh đạo khối Colombo, người chủ trương giải quyết mọi vấn đề quốc tế bằng giải pháp hòa bình, con người hòa giải vĩ đại ấy trong bài diễn văn khai mạc, đã tỏ ra rất hy vọng và tin tưởng ở năng lực Phật giáo trong công cuộc xây đắp một nền hòa bình vững chắc cho nhân loại. Phó Tổng Thống Ấn Độ Radhakrishnan, trong một cuộc mít tinh (ngày 23-11-1956) tại Tân Đề Li, đã tuyên bố trước sự hiện diện của hơn sáu mươi học giả danh tiếng trên thế giới: "Khoa học đã mang lại cho nhân loại nhiều quyền lực đến nỗi họ có thể tự phá hủy đời sống của mình. Cho nên có thể nói rằng, nếu không trồng cho mình những đức từ bi, bất bạo động, thì loài người hủy hoại tất cả. Hủy hoại hạnh phúc mình và chính bản thân mình nữa". Xem thế, chúng ta thấy từ bi của đạo Phật là một tình thương rộng mênh mông lan trải từ người đến vật, đến cỏ cây, rất bình đẳng, rất tích cực chứ không phải hạn cuộc, ích kỷ, tiêu cực, vô nghĩa như một số người đã lầm tưởng. Nó có những tác dụng quý báu thiết thực, ích lợi cho cuộc đời, có những ảnh hưởng tốt đẹp cho sự sống. Nó làm cho con người trở nên hiền dịu, rộng rãi, thông cảm với đồng loại, với muôn vật, với cỏ cây, biết tôn trọng sự sống của tất cả, và không vì một lý do gì mà tàn sát sinh vật, cũng không vì một lý do gì mà giết hại đồng loại hay gây chiến tranh. Chỉ riêng mấy điểm ấy, đạo Phật cũng đáng để nhân loại cảm mến tôn sùng. GHI CHÚ: (1) Ánh
Đạo Vàng của Võ Đình Cường. Page 5
QUYỂN SÁU: TỪ BI TRONG ĐẠO PHẬT
Mặc dù
thường được mọi người nói đến hai chữ từ bi, nhưng không ít người đã hiểu một
cách sai lệch, chỉ theo quán tính của mình. Có người hiểu từ bi là một tình
thương nhỏ nhặt tầm thường nông cạn; có người hiểu từ bi là một tình thương
nhạt nhẽo, lãnh đạm, tiêu cực, thua xa "tình yêu" hay "bác
ái"; có người cho từ bi là một hình thức biến thể của "ích kỷ";
lại có người đi xa hơn cho từ bi là một danh từ trống rỗng là "vô
nghĩa". Vậy từ bi là thế nào? - Từ bi
trong đời đức giáo chủ Thích Ca Mâu Ni Phật. I.-
TỪ BI TRONG ĐỜI ĐỨC GIÁO CHỦ THÍCH CA MÂU NI "...
Ta không muốn làm một kẻ chinh chiến, tắm bánh xe trong máu đào của muôn bãi
chiến để rồi lưu lại cho hậu thế một kỷ niệm đỏ gớm ghê... Và ngài đã nói với tên giữ ngựa Xa Nặc như thế nào? "- Ngươi ạ, sẽ là một thứ tình yêu giả trá nếu ta chỉ ở bên cạnh những người thân để hưởng những lạc thú ích kỷ. Ta muốn đừng bịn rịn với Tổ quốc nhỏ hẹp này để được yêu vũ trụ rộng lớn..." (1) Và trên
con đường đi tìm đạo, đức Phật đã không từ một cử chỉ nhỏ nhặt nào của tình
thương. Trí không
bi là trí điêu xảo, Bi và trí
cần được trau dồi, phát triển đồng đều với nhau: trí làm cho bi sáng suốt, bi
làm cho trí thuần lương. Trí và Bi như hai bánh của một chiếc xe. Một trong hai
bánh rời ra là xe trút đổ. Tình thương ấy lại cần phải vô biên, không hạn cuộc.
Nếu còn thấy giới hạn của tình thương, thấy có người hay vật mình không thương
được, thấy có kẻ thù, thì chưa phải là từ bi. Cho nên trong pháp quán từ bi,
người ta thường luyện hai cách: hoặc mở rộng tình thương tuần tự đi từ những
người thân trong gia đình, cha mẹ, vợ con, dần dần đến thân thuộc, bạn bè, rồi
đến hàng xóm láng giềng, đến những người không thân, cuối cùng đến kẻ thù; và
phải tập thế nào cho đến khi mình thấy thương kẻ thù như người thân nhất mới
thôi; hoặc người ta trở ngược lại đi từ kẻ thù ghê gớm nhất dần dần đến kẻ thân
nhất; khi thấy không còn phân biệt giữa kẻ thù và người thân nhất mới
thôi. - Thế nếu họ lấy tay đánh hay lấy đá ném vào ông? - Bạch Thế Tôn! Con sẽ tự bảo: họ còn thương ta, vì họ không dùng gươm để đâm ta. - Nếu họ dùng gươm để đâm ông? - Bạch Thế Tôn! Con sẽ tự bảo: họ còn tốt, vì họ chưa đâm ta đến chết. - Nếu họ đâm ông đến chết? - Bạch Thế Tôn! Con sẽ tự bảo: họ đã giải thoát cho ta thoát khỏi cái thân vô thường, đau khổ. Chính đạo Phật đã có thái độ ấy trong lúc truyền đạo: người ta đánh đập thì mình chạy, nếu chạy không được thì đành chịu bị đánh hay bị giết. Do thái độ hiền hòa, bất bạo động, bất đề kháng ấy mà đạo Phật đã cảm hóa được nhân tâm, đã lan tràn mau lẹ trên thế giới. Phát xuất từ Ấn Độ, được sùng mộ trong khoảng gần mười thế kỷ ở đây rồi bị Bà La Môn lấy uy quyền hiếp đáp, xua đuổi, đạo Phật lẳng lặng ra khỏi Ấn Độ để du nhập những nước láng giềng. Sự hy sinh lớn lao của đạo Phật khi rời bỏ Ấn Độ, ra đi mà không chống cự lại, đã gây một ảnh hưởng vô cùng vĩ đại, chứng tỏ người Phật tử đã trung thành với giáo lý mà mình đã theo, với lời của Phật đã dạy. Cái truyền thống bất bạo động ấy chưa một lần nào bị vi phạm, mặc dù ở đâu và lúc nào. Xét như các xứ Tây Tạng, và nhất là Mông Cổ của Thành Cát Tư Hản xưa kia có tiếng là hung bạo, thế mà đạo Phật vẫn cảm phục được và biến đổi người dân ở những xứ đó thành hiền lương, thuần hậu. Cho đến ngày nay, chúng ta không lấy làm lạ khi thấy đạo Phật được gọi là đạo hòa bình và những phong trào hòa bình trên thế giới đều lấy đạo Phật làm nồng cốt, hay đều chịu ít nhiều ảnh hưởng của Phật giáo. Trong một hội nghị Phật giáo thế giới lần thứ III họp ở Nhật, hay lần thứ IV ở Népal, vấn đề hòa bình trong đạo Phật đã đươc nêu lên làm điểm chính cho cuộc thảo luận. Trong hội nghị văn hóa quốc tế họp ở Tân Đề Li năm 1956, Thủ tướng Nehru, người lãnh đạo khối Colombo, người chủ trương giải quyết mọi vấn đề quốc tế bằng giải pháp hòa bình, con người hòa giải vĩ đại ấy trong bài diễn văn khai mạc, đã tỏ ra rất hy vọng và tin tưởng ở năng lực Phật giáo trong công cuộc xây đắp một nền hòa bình vững chắc cho nhân loại. Phó Tổng Thống Ấn Độ Radhakrishnan, trong một cuộc mít tinh (ngày 23-11-1956) tại Tân Đề Li, đã tuyên bố trước sự hiện diện của hơn sáu mươi học giả danh tiếng trên thế giới: "Khoa học đã mang lại cho nhân loại nhiều quyền lực đến nỗi họ có thể tự phá hủy đời sống của mình. Cho nên có thể nói rằng, nếu không trồng cho mình những đức từ bi, bất bạo động, thì loài người hủy hoại tất cả. Hủy hoại hạnh phúc mình và chính bản thân mình nữa". Xem thế, chúng ta thấy từ bi của đạo Phật là một tình thương rộng mênh mông lan trải từ người đến vật, đến cỏ cây, rất bình đẳng, rất tích cực chứ không phải hạn cuộc, ích kỷ, tiêu cực, vô nghĩa như một số người đã lầm tưởng. Nó có những tác dụng quý báu thiết thực, ích lợi cho cuộc đời, có những ảnh hưởng tốt đẹp cho sự sống. Nó làm cho con người trở nên hiền dịu, rộng rãi, thông cảm với đồng loại, với muôn vật, với cỏ cây, biết tôn trọng sự sống của tất cả, và không vì một lý do gì mà tàn sát sinh vật, cũng không vì một lý do gì mà giết hại đồng loại hay gây chiến tranh. Chỉ riêng mấy điểm ấy, đạo Phật cũng đáng để nhân loại cảm mến tôn sùng. GHI CHÚ: (1) Ánh
Đạo Vàng của Võ Đình Cường. Page 6
QUYỂN SÁU: TỪ BI TRONG ĐẠO PHẬT
Mặc dù
thường được mọi người nói đến hai chữ từ bi, nhưng không ít người đã hiểu một
cách sai lệch, chỉ theo quán tính của mình. Có người hiểu từ bi là một tình
thương nhỏ nhặt tầm thường nông cạn; có người hiểu từ bi là một tình thương
nhạt nhẽo, lãnh đạm, tiêu cực, thua xa "tình yêu" hay "bác
ái"; có người cho từ bi là một hình thức biến thể của "ích kỷ";
lại có người đi xa hơn cho từ bi là một danh từ trống rỗng là "vô
nghĩa". Vậy từ bi là thế nào? - Từ bi
trong đời đức giáo chủ Thích Ca Mâu Ni Phật. I.-
TỪ BI TRONG ĐỜI ĐỨC GIÁO CHỦ THÍCH CA MÂU NI "...
Ta không muốn làm một kẻ chinh chiến, tắm bánh xe trong máu đào của muôn bãi
chiến để rồi lưu lại cho hậu thế một kỷ niệm đỏ gớm ghê... Và ngài đã nói với tên giữ ngựa Xa Nặc như thế nào? "- Ngươi ạ, sẽ là một thứ tình yêu giả trá nếu ta chỉ ở bên cạnh những người thân để hưởng những lạc thú ích kỷ. Ta muốn đừng bịn rịn với Tổ quốc nhỏ hẹp này để được yêu vũ trụ rộng lớn..." (1) Và trên
con đường đi tìm đạo, đức Phật đã không từ một cử chỉ nhỏ nhặt nào của tình
thương. Trí không
bi là trí điêu xảo, Bi và trí
cần được trau dồi, phát triển đồng đều với nhau: trí làm cho bi sáng suốt, bi
làm cho trí thuần lương. Trí và Bi như hai bánh của một chiếc xe. Một trong hai
bánh rời ra là xe trút đổ. Tình thương ấy lại cần phải vô biên, không hạn cuộc.
Nếu còn thấy giới hạn của tình thương, thấy có người hay vật mình không thương
được, thấy có kẻ thù, thì chưa phải là từ bi. Cho nên trong pháp quán từ bi,
người ta thường luyện hai cách: hoặc mở rộng tình thương tuần tự đi từ những
người thân trong gia đình, cha mẹ, vợ con, dần dần đến thân thuộc, bạn bè, rồi
đến hàng xóm láng giềng, đến những người không thân, cuối cùng đến kẻ thù; và
phải tập thế nào cho đến khi mình thấy thương kẻ thù như người thân nhất mới
thôi; hoặc người ta trở ngược lại đi từ kẻ thù ghê gớm nhất dần dần đến kẻ thân
nhất; khi thấy không còn phân biệt giữa kẻ thù và người thân nhất mới
thôi. - Thế nếu họ lấy tay đánh hay lấy đá ném vào ông? - Bạch Thế Tôn! Con sẽ tự bảo: họ còn thương ta, vì họ không dùng gươm để đâm ta. - Nếu họ dùng gươm để đâm ông? - Bạch Thế Tôn! Con sẽ tự bảo: họ còn tốt, vì họ chưa đâm ta đến chết. - Nếu họ đâm ông đến chết? - Bạch Thế Tôn! Con sẽ tự bảo: họ đã giải thoát cho ta thoát khỏi cái thân vô thường, đau khổ. Chính đạo Phật đã có thái độ ấy trong lúc truyền đạo: người ta đánh đập thì mình chạy, nếu chạy không được thì đành chịu bị đánh hay bị giết. Do thái độ hiền hòa, bất bạo động, bất đề kháng ấy mà đạo Phật đã cảm hóa được nhân tâm, đã lan tràn mau lẹ trên thế giới. Phát xuất từ Ấn Độ, được sùng mộ trong khoảng gần mười thế kỷ ở đây rồi bị Bà La Môn lấy uy quyền hiếp đáp, xua đuổi, đạo Phật lẳng lặng ra khỏi Ấn Độ để du nhập những nước láng giềng. Sự hy sinh lớn lao của đạo Phật khi rời bỏ Ấn Độ, ra đi mà không chống cự lại, đã gây một ảnh hưởng vô cùng vĩ đại, chứng tỏ người Phật tử đã trung thành với giáo lý mà mình đã theo, với lời của Phật đã dạy. Cái truyền thống bất bạo động ấy chưa một lần nào bị vi phạm, mặc dù ở đâu và lúc nào. Xét như các xứ Tây Tạng, và nhất là Mông Cổ của Thành Cát Tư Hản xưa kia có tiếng là hung bạo, thế mà đạo Phật vẫn cảm phục được và biến đổi người dân ở những xứ đó thành hiền lương, thuần hậu. Cho đến ngày nay, chúng ta không lấy làm lạ khi thấy đạo Phật được gọi là đạo hòa bình và những phong trào hòa bình trên thế giới đều lấy đạo Phật làm nồng cốt, hay đều chịu ít nhiều ảnh hưởng của Phật giáo. Trong một hội nghị Phật giáo thế giới lần thứ III họp ở Nhật, hay lần thứ IV ở Népal, vấn đề hòa bình trong đạo Phật đã đươc nêu lên làm điểm chính cho cuộc thảo luận. Trong hội nghị văn hóa quốc tế họp ở Tân Đề Li năm 1956, Thủ tướng Nehru, người lãnh đạo khối Colombo, người chủ trương giải quyết mọi vấn đề quốc tế bằng giải pháp hòa bình, con người hòa giải vĩ đại ấy trong bài diễn văn khai mạc, đã tỏ ra rất hy vọng và tin tưởng ở năng lực Phật giáo trong công cuộc xây đắp một nền hòa bình vững chắc cho nhân loại. Phó Tổng Thống Ấn Độ Radhakrishnan, trong một cuộc mít tinh (ngày 23-11-1956) tại Tân Đề Li, đã tuyên bố trước sự hiện diện của hơn sáu mươi học giả danh tiếng trên thế giới: "Khoa học đã mang lại cho nhân loại nhiều quyền lực đến nỗi họ có thể tự phá hủy đời sống của mình. Cho nên có thể nói rằng, nếu không trồng cho mình những đức từ bi, bất bạo động, thì loài người hủy hoại tất cả. Hủy hoại hạnh phúc mình và chính bản thân mình nữa". Xem thế, chúng ta thấy từ bi của đạo Phật là một tình thương rộng mênh mông lan trải từ người đến vật, đến cỏ cây, rất bình đẳng, rất tích cực chứ không phải hạn cuộc, ích kỷ, tiêu cực, vô nghĩa như một số người đã lầm tưởng. Nó có những tác dụng quý báu thiết thực, ích lợi cho cuộc đời, có những ảnh hưởng tốt đẹp cho sự sống. Nó làm cho con người trở nên hiền dịu, rộng rãi, thông cảm với đồng loại, với muôn vật, với cỏ cây, biết tôn trọng sự sống của tất cả, và không vì một lý do gì mà tàn sát sinh vật, cũng không vì một lý do gì mà giết hại đồng loại hay gây chiến tranh. Chỉ riêng mấy điểm ấy, đạo Phật cũng đáng để nhân loại cảm mến tôn sùng. GHI CHÚ: (1) Ánh
Đạo Vàng của Võ Đình Cường. Page 7
QUYỂN SÁU: TỪ BI TRONG ĐẠO PHẬT
Mặc dù
thường được mọi người nói đến hai chữ từ bi, nhưng không ít người đã hiểu một
cách sai lệch, chỉ theo quán tính của mình. Có người hiểu từ bi là một tình
thương nhỏ nhặt tầm thường nông cạn; có người hiểu từ bi là một tình thương
nhạt nhẽo, lãnh đạm, tiêu cực, thua xa "tình yêu" hay "bác
ái"; có người cho từ bi là một hình thức biến thể của "ích kỷ";
lại có người đi xa hơn cho từ bi là một danh từ trống rỗng là "vô
nghĩa". Vậy từ bi là thế nào? - Từ bi
trong đời đức giáo chủ Thích Ca Mâu Ni Phật. I.-
TỪ BI TRONG ĐỜI ĐỨC GIÁO CHỦ THÍCH CA MÂU NI "...
Ta không muốn làm một kẻ chinh chiến, tắm bánh xe trong máu đào của muôn bãi
chiến để rồi lưu lại cho hậu thế một kỷ niệm đỏ gớm ghê... Và ngài đã nói với tên giữ ngựa Xa Nặc như thế nào? "- Ngươi ạ, sẽ là một thứ tình yêu giả trá nếu ta chỉ ở bên cạnh những người thân để hưởng những lạc thú ích kỷ. Ta muốn đừng bịn rịn với Tổ quốc nhỏ hẹp này để được yêu vũ trụ rộng lớn..." (1) Và trên
con đường đi tìm đạo, đức Phật đã không từ một cử chỉ nhỏ nhặt nào của tình
thương. Trí không
bi là trí điêu xảo, Bi và trí
cần được trau dồi, phát triển đồng đều với nhau: trí làm cho bi sáng suốt, bi
làm cho trí thuần lương. Trí và Bi như hai bánh của một chiếc xe. Một trong hai
bánh rời ra là xe trút đổ. Tình thương ấy lại cần phải vô biên, không hạn cuộc.
Nếu còn thấy giới hạn của tình thương, thấy có người hay vật mình không thương
được, thấy có kẻ thù, thì chưa phải là từ bi. Cho nên trong pháp quán từ bi,
người ta thường luyện hai cách: hoặc mở rộng tình thương tuần tự đi từ những
người thân trong gia đình, cha mẹ, vợ con, dần dần đến thân thuộc, bạn bè, rồi
đến hàng xóm láng giềng, đến những người không thân, cuối cùng đến kẻ thù; và
phải tập thế nào cho đến khi mình thấy thương kẻ thù như người thân nhất mới
thôi; hoặc người ta trở ngược lại đi từ kẻ thù ghê gớm nhất dần dần đến kẻ thân
nhất; khi thấy không còn phân biệt giữa kẻ thù và người thân nhất mới
thôi. - Thế nếu họ lấy tay đánh hay lấy đá ném vào ông? - Bạch Thế Tôn! Con sẽ tự bảo: họ còn thương ta, vì họ không dùng gươm để đâm ta. - Nếu họ dùng gươm để đâm ông? - Bạch Thế Tôn! Con sẽ tự bảo: họ còn tốt, vì họ chưa đâm ta đến chết. - Nếu họ đâm ông đến chết? - Bạch Thế Tôn! Con sẽ tự bảo: họ đã giải thoát cho ta thoát khỏi cái thân vô thường, đau khổ. Chính đạo Phật đã có thái độ ấy trong lúc truyền đạo: người ta đánh đập thì mình chạy, nếu chạy không được thì đành chịu bị đánh hay bị giết. Do thái độ hiền hòa, bất bạo động, bất đề kháng ấy mà đạo Phật đã cảm hóa được nhân tâm, đã lan tràn mau lẹ trên thế giới. Phát xuất từ Ấn Độ, được sùng mộ trong khoảng gần mười thế kỷ ở đây rồi bị Bà La Môn lấy uy quyền hiếp đáp, xua đuổi, đạo Phật lẳng lặng ra khỏi Ấn Độ để du nhập những nước láng giềng. Sự hy sinh lớn lao của đạo Phật khi rời bỏ Ấn Độ, ra đi mà không chống cự lại, đã gây một ảnh hưởng vô cùng vĩ đại, chứng tỏ người Phật tử đã trung thành với giáo lý mà mình đã theo, với lời của Phật đã dạy. Cái truyền thống bất bạo động ấy chưa một lần nào bị vi phạm, mặc dù ở đâu và lúc nào. Xét như các xứ Tây Tạng, và nhất là Mông Cổ của Thành Cát Tư Hản xưa kia có tiếng là hung bạo, thế mà đạo Phật vẫn cảm phục được và biến đổi người dân ở những xứ đó thành hiền lương, thuần hậu. Cho đến ngày nay, chúng ta không lấy làm lạ khi thấy đạo Phật được gọi là đạo hòa bình và những phong trào hòa bình trên thế giới đều lấy đạo Phật làm nồng cốt, hay đều chịu ít nhiều ảnh hưởng của Phật giáo. Trong một hội nghị Phật giáo thế giới lần thứ III họp ở Nhật, hay lần thứ IV ở Népal, vấn đề hòa bình trong đạo Phật đã đươc nêu lên làm điểm chính cho cuộc thảo luận. Trong hội nghị văn hóa quốc tế họp ở Tân Đề Li năm 1956, Thủ tướng Nehru, người lãnh đạo khối Colombo, người chủ trương giải quyết mọi vấn đề quốc tế bằng giải pháp hòa bình, con người hòa giải vĩ đại ấy trong bài diễn văn khai mạc, đã tỏ ra rất hy vọng và tin tưởng ở năng lực Phật giáo trong công cuộc xây đắp một nền hòa bình vững chắc cho nhân loại. Phó Tổng Thống Ấn Độ Radhakrishnan, trong một cuộc mít tinh (ngày 23-11-1956) tại Tân Đề Li, đã tuyên bố trước sự hiện diện của hơn sáu mươi học giả danh tiếng trên thế giới: "Khoa học đã mang lại cho nhân loại nhiều quyền lực đến nỗi họ có thể tự phá hủy đời sống của mình. Cho nên có thể nói rằng, nếu không trồng cho mình những đức từ bi, bất bạo động, thì loài người hủy hoại tất cả. Hủy hoại hạnh phúc mình và chính bản thân mình nữa". Xem thế, chúng ta thấy từ bi của đạo Phật là một tình thương rộng mênh mông lan trải từ người đến vật, đến cỏ cây, rất bình đẳng, rất tích cực chứ không phải hạn cuộc, ích kỷ, tiêu cực, vô nghĩa như một số người đã lầm tưởng. Nó có những tác dụng quý báu thiết thực, ích lợi cho cuộc đời, có những ảnh hưởng tốt đẹp cho sự sống. Nó làm cho con người trở nên hiền dịu, rộng rãi, thông cảm với đồng loại, với muôn vật, với cỏ cây, biết tôn trọng sự sống của tất cả, và không vì một lý do gì mà tàn sát sinh vật, cũng không vì một lý do gì mà giết hại đồng loại hay gây chiến tranh. Chỉ riêng mấy điểm ấy, đạo Phật cũng đáng để nhân loại cảm mến tôn sùng. GHI CHÚ: (1) Ánh
Đạo Vàng của Võ Đình Cường. Page 8
QUYỂN SÁU: TỪ BI TRONG ĐẠO PHẬT
Mặc dù
thường được mọi người nói đến hai chữ từ bi, nhưng không ít người đã hiểu một
cách sai lệch, chỉ theo quán tính của mình. Có người hiểu từ bi là một tình
thương nhỏ nhặt tầm thường nông cạn; có người hiểu từ bi là một tình thương
nhạt nhẽo, lãnh đạm, tiêu cực, thua xa "tình yêu" hay "bác
ái"; có người cho từ bi là một hình thức biến thể của "ích kỷ";
lại có người đi xa hơn cho từ bi là một danh từ trống rỗng là "vô
nghĩa". Vậy từ bi là thế nào? - Từ bi
trong đời đức giáo chủ Thích Ca Mâu Ni Phật. I.-
TỪ BI TRONG ĐỜI ĐỨC GIÁO CHỦ THÍCH CA MÂU NI "...
Ta không muốn làm một kẻ chinh chiến, tắm bánh xe trong máu đào của muôn bãi
chiến để rồi lưu lại cho hậu thế một kỷ niệm đỏ gớm ghê... Và ngài đã nói với tên giữ ngựa Xa Nặc như thế nào? "- Ngươi ạ, sẽ là một thứ tình yêu giả trá nếu ta chỉ ở bên cạnh những người thân để hưởng những lạc thú ích kỷ. Ta muốn đừng bịn rịn với Tổ quốc nhỏ hẹp này để được yêu vũ trụ rộng lớn..." (1) Và trên
con đường đi tìm đạo, đức Phật đã không từ một cử chỉ nhỏ nhặt nào của tình
thương. Trí không
bi là trí điêu xảo, Bi và trí
cần được trau dồi, phát triển đồng đều với nhau: trí làm cho bi sáng suốt, bi
làm cho trí thuần lương. Trí và Bi như hai bánh của một chiếc xe. Một trong hai
bánh rời ra là xe trút đổ. Tình thương ấy lại cần phải vô biên, không hạn cuộc.
Nếu còn thấy giới hạn của tình thương, thấy có người hay vật mình không thương
được, thấy có kẻ thù, thì chưa phải là từ bi. Cho nên trong pháp quán từ bi,
người ta thường luyện hai cách: hoặc mở rộng tình thương tuần tự đi từ những
người thân trong gia đình, cha mẹ, vợ con, dần dần đến thân thuộc, bạn bè, rồi
đến hàng xóm láng giềng, đến những người không thân, cuối cùng đến kẻ thù; và
phải tập thế nào cho đến khi mình thấy thương kẻ thù như người thân nhất mới
thôi; hoặc người ta trở ngược lại đi từ kẻ thù ghê gớm nhất dần dần đến kẻ thân
nhất; khi thấy không còn phân biệt giữa kẻ thù và người thân nhất mới
thôi. - Thế nếu họ lấy tay đánh hay lấy đá ném vào ông? - Bạch Thế Tôn! Con sẽ tự bảo: họ còn thương ta, vì họ không dùng gươm để đâm ta. - Nếu họ dùng gươm để đâm ông? - Bạch Thế Tôn! Con sẽ tự bảo: họ còn tốt, vì họ chưa đâm ta đến chết. - Nếu họ đâm ông đến chết? - Bạch Thế Tôn! Con sẽ tự bảo: họ đã giải thoát cho ta thoát khỏi cái thân vô thường, đau khổ. Chính đạo Phật đã có thái độ ấy trong lúc truyền đạo: người ta đánh đập thì mình chạy, nếu chạy không được thì đành chịu bị đánh hay bị giết. Do thái độ hiền hòa, bất bạo động, bất đề kháng ấy mà đạo Phật đã cảm hóa được nhân tâm, đã lan tràn mau lẹ trên thế giới. Phát xuất từ Ấn Độ, được sùng mộ trong khoảng gần mười thế kỷ ở đây rồi bị Bà La Môn lấy uy quyền hiếp đáp, xua đuổi, đạo Phật lẳng lặng ra khỏi Ấn Độ để du nhập những nước láng giềng. Sự hy sinh lớn lao của đạo Phật khi rời bỏ Ấn Độ, ra đi mà không chống cự lại, đã gây một ảnh hưởng vô cùng vĩ đại, chứng tỏ người Phật tử đã trung thành với giáo lý mà mình đã theo, với lời của Phật đã dạy. Cái truyền thống bất bạo động ấy chưa một lần nào bị vi phạm, mặc dù ở đâu và lúc nào. Xét như các xứ Tây Tạng, và nhất là Mông Cổ của Thành Cát Tư Hản xưa kia có tiếng là hung bạo, thế mà đạo Phật vẫn cảm phục được và biến đổi người dân ở những xứ đó thành hiền lương, thuần hậu. Cho đến ngày nay, chúng ta không lấy làm lạ khi thấy đạo Phật được gọi là đạo hòa bình và những phong trào hòa bình trên thế giới đều lấy đạo Phật làm nồng cốt, hay đều chịu ít nhiều ảnh hưởng của Phật giáo. Trong một hội nghị Phật giáo thế giới lần thứ III họp ở Nhật, hay lần thứ IV ở Népal, vấn đề hòa bình trong đạo Phật đã đươc nêu lên làm điểm chính cho cuộc thảo luận. Trong hội nghị văn hóa quốc tế họp ở Tân Đề Li năm 1956, Thủ tướng Nehru, người lãnh đạo khối Colombo, người chủ trương giải quyết mọi vấn đề quốc tế bằng giải pháp hòa bình, con người hòa giải vĩ đại ấy trong bài diễn văn khai mạc, đã tỏ ra rất hy vọng và tin tưởng ở năng lực Phật giáo trong công cuộc xây đắp một nền hòa bình vững chắc cho nhân loại. Phó Tổng Thống Ấn Độ Radhakrishnan, trong một cuộc mít tinh (ngày 23-11-1956) tại Tân Đề Li, đã tuyên bố trước sự hiện diện của hơn sáu mươi học giả danh tiếng trên thế giới: "Khoa học đã mang lại cho nhân loại nhiều quyền lực đến nỗi họ có thể tự phá hủy đời sống của mình. Cho nên có thể nói rằng, nếu không trồng cho mình những đức từ bi, bất bạo động, thì loài người hủy hoại tất cả. Hủy hoại hạnh phúc mình và chính bản thân mình nữa". Xem thế, chúng ta thấy từ bi của đạo Phật là một tình thương rộng mênh mông lan trải từ người đến vật, đến cỏ cây, rất bình đẳng, rất tích cực chứ không phải hạn cuộc, ích kỷ, tiêu cực, vô nghĩa như một số người đã lầm tưởng. Nó có những tác dụng quý báu thiết thực, ích lợi cho cuộc đời, có những ảnh hưởng tốt đẹp cho sự sống. Nó làm cho con người trở nên hiền dịu, rộng rãi, thông cảm với đồng loại, với muôn vật, với cỏ cây, biết tôn trọng sự sống của tất cả, và không vì một lý do gì mà tàn sát sinh vật, cũng không vì một lý do gì mà giết hại đồng loại hay gây chiến tranh. Chỉ riêng mấy điểm ấy, đạo Phật cũng đáng để nhân loại cảm mến tôn sùng. GHI CHÚ: (1) Ánh
Đạo Vàng của Võ Đình Cường. Page 9
QUYỂN SÁU: TỪ BI TRONG ĐẠO PHẬT
Mặc dù
thường được mọi người nói đến hai chữ từ bi, nhưng không ít người đã hiểu một
cách sai lệch, chỉ theo quán tính của mình. Có người hiểu từ bi là một tình
thương nhỏ nhặt tầm thường nông cạn; có người hiểu từ bi là một tình thương
nhạt nhẽo, lãnh đạm, tiêu cực, thua xa "tình yêu" hay "bác
ái"; có người cho từ bi là một hình thức biến thể của "ích kỷ";
lại có người đi xa hơn cho từ bi là một danh từ trống rỗng là "vô
nghĩa". Vậy từ bi là thế nào? - Từ bi
trong đời đức giáo chủ Thích Ca Mâu Ni Phật. I.-
TỪ BI TRONG ĐỜI ĐỨC GIÁO CHỦ THÍCH CA MÂU NI "...
Ta không muốn làm một kẻ chinh chiến, tắm bánh xe trong máu đào của muôn bãi
chiến để rồi lưu lại cho hậu thế một kỷ niệm đỏ gớm ghê... Và ngài đã nói với tên giữ ngựa Xa Nặc như thế nào? "- Ngươi ạ, sẽ là một thứ tình yêu giả trá nếu ta chỉ ở bên cạnh những người thân để hưởng những lạc thú ích kỷ. Ta muốn đừng bịn rịn với Tổ quốc nhỏ hẹp này để được yêu vũ trụ rộng lớn..." (1) Và trên
con đường đi tìm đạo, đức Phật đã không từ một cử chỉ nhỏ nhặt nào của tình
thương. Trí không
bi là trí điêu xảo, Bi và trí
cần được trau dồi, phát triển đồng đều với nhau: trí làm cho bi sáng suốt, bi
làm cho trí thuần lương. Trí và Bi như hai bánh của một chiếc xe. Một trong hai
bánh rời ra là xe trút đổ. Tình thương ấy lại cần phải vô biên, không hạn cuộc.
Nếu còn thấy giới hạn của tình thương, thấy có người hay vật mình không thương
được, thấy có kẻ thù, thì chưa phải là từ bi. Cho nên trong pháp quán từ bi,
người ta thường luyện hai cách: hoặc mở rộng tình thương tuần tự đi từ những
người thân trong gia đình, cha mẹ, vợ con, dần dần đến thân thuộc, bạn bè, rồi
đến hàng xóm láng giềng, đến những người không thân, cuối cùng đến kẻ thù; và
phải tập thế nào cho đến khi mình thấy thương kẻ thù như người thân nhất mới
thôi; hoặc người ta trở ngược lại đi từ kẻ thù ghê gớm nhất dần dần đến kẻ thân
nhất; khi thấy không còn phân biệt giữa kẻ thù và người thân nhất mới
thôi. - Thế nếu họ lấy tay đánh hay lấy đá ném vào ông? - Bạch Thế Tôn! Con sẽ tự bảo: họ còn thương ta, vì họ không dùng gươm để đâm ta. - Nếu họ dùng gươm để đâm ông? - Bạch Thế Tôn! Con sẽ tự bảo: họ còn tốt, vì họ chưa đâm ta đến chết. - Nếu họ đâm ông đến chết? - Bạch Thế Tôn! Con sẽ tự bảo: họ đã giải thoát cho ta thoát khỏi cái thân vô thường, đau khổ. Chính đạo Phật đã có thái độ ấy trong lúc truyền đạo: người ta đánh đập thì mình chạy, nếu chạy không được thì đành chịu bị đánh hay bị giết. Do thái độ hiền hòa, bất bạo động, bất đề kháng ấy mà đạo Phật đã cảm hóa được nhân tâm, đã lan tràn mau lẹ trên thế giới. Phát xuất từ Ấn Độ, được sùng mộ trong khoảng gần mười thế kỷ ở đây rồi bị Bà La Môn lấy uy quyền hiếp đáp, xua đuổi, đạo Phật lẳng lặng ra khỏi Ấn Độ để du nhập những nước láng giềng. Sự hy sinh lớn lao của đạo Phật khi rời bỏ Ấn Độ, ra đi mà không chống cự lại, đã gây một ảnh hưởng vô cùng vĩ đại, chứng tỏ người Phật tử đã trung thành với giáo lý mà mình đã theo, với lời của Phật đã dạy. Cái truyền thống bất bạo động ấy chưa một lần nào bị vi phạm, mặc dù ở đâu và lúc nào. Xét như các xứ Tây Tạng, và nhất là Mông Cổ của Thành Cát Tư Hản xưa kia có tiếng là hung bạo, thế mà đạo Phật vẫn cảm phục được và biến đổi người dân ở những xứ đó thành hiền lương, thuần hậu. Cho đến ngày nay, chúng ta không lấy làm lạ khi thấy đạo Phật được gọi là đạo hòa bình và những phong trào hòa bình trên thế giới đều lấy đạo Phật làm nồng cốt, hay đều chịu ít nhiều ảnh hưởng của Phật giáo. Trong một hội nghị Phật giáo thế giới lần thứ III họp ở Nhật, hay lần thứ IV ở Népal, vấn đề hòa bình trong đạo Phật đã đươc nêu lên làm điểm chính cho cuộc thảo luận. Trong hội nghị văn hóa quốc tế họp ở Tân Đề Li năm 1956, Thủ tướng Nehru, người lãnh đạo khối Colombo, người chủ trương giải quyết mọi vấn đề quốc tế bằng giải pháp hòa bình, con người hòa giải vĩ đại ấy trong bài diễn văn khai mạc, đã tỏ ra rất hy vọng và tin tưởng ở năng lực Phật giáo trong công cuộc xây đắp một nền hòa bình vững chắc cho nhân loại. Phó Tổng Thống Ấn Độ Radhakrishnan, trong một cuộc mít tinh (ngày 23-11-1956) tại Tân Đề Li, đã tuyên bố trước sự hiện diện của hơn sáu mươi học giả danh tiếng trên thế giới: "Khoa học đã mang lại cho nhân loại nhiều quyền lực đến nỗi họ có thể tự phá hủy đời sống của mình. Cho nên có thể nói rằng, nếu không trồng cho mình những đức từ bi, bất bạo động, thì loài người hủy hoại tất cả. Hủy hoại hạnh phúc mình và chính bản thân mình nữa". Xem thế, chúng ta thấy từ bi của đạo Phật là một tình thương rộng mênh mông lan trải từ người đến vật, đến cỏ cây, rất bình đẳng, rất tích cực chứ không phải hạn cuộc, ích kỷ, tiêu cực, vô nghĩa như một số người đã lầm tưởng. Nó có những tác dụng quý báu thiết thực, ích lợi cho cuộc đời, có những ảnh hưởng tốt đẹp cho sự sống. Nó làm cho con người trở nên hiền dịu, rộng rãi, thông cảm với đồng loại, với muôn vật, với cỏ cây, biết tôn trọng sự sống của tất cả, và không vì một lý do gì mà tàn sát sinh vật, cũng không vì một lý do gì mà giết hại đồng loại hay gây chiến tranh. Chỉ riêng mấy điểm ấy, đạo Phật cũng đáng để nhân loại cảm mến tôn sùng. GHI CHÚ: (1) Ánh
Đạo Vàng của Võ Đình Cường. Page 10
QUYỂN SÁU: TỪ BI TRONG ĐẠO PHẬT
Mặc dù
thường được mọi người nói đến hai chữ từ bi, nhưng không ít người đã hiểu một
cách sai lệch, chỉ theo quán tính của mình. Có người hiểu từ bi là một tình
thương nhỏ nhặt tầm thường nông cạn; có người hiểu từ bi là một tình thương
nhạt nhẽo, lãnh đạm, tiêu cực, thua xa "tình yêu" hay "bác
ái"; có người cho từ bi là một hình thức biến thể của "ích kỷ";
lại có người đi xa hơn cho từ bi là một danh từ trống rỗng là "vô
nghĩa". Vậy từ bi là thế nào? - Từ bi
trong đời đức giáo chủ Thích Ca Mâu Ni Phật. I.-
TỪ BI TRONG ĐỜI ĐỨC GIÁO CHỦ THÍCH CA MÂU NI "...
Ta không muốn làm một kẻ chinh chiến, tắm bánh xe trong máu đào của muôn bãi
chiến để rồi lưu lại cho hậu thế một kỷ niệm đỏ gớm ghê... Và ngài đã nói với tên giữ ngựa Xa Nặc như thế nào? "- Ngươi ạ, sẽ là một thứ tình yêu giả trá nếu ta chỉ ở bên cạnh những người thân để hưởng những lạc thú ích kỷ. Ta muốn đừng bịn rịn với Tổ quốc nhỏ hẹp này để được yêu vũ trụ rộng lớn..." (1) Và trên
con đường đi tìm đạo, đức Phật đã không từ một cử chỉ nhỏ nhặt nào của tình
thương. Trí không
bi là trí điêu xảo, Bi và trí
cần được trau dồi, phát triển đồng đều với nhau: trí làm cho bi sáng suốt, bi
làm cho trí thuần lương. Trí và Bi như hai bánh của một chiếc xe. Một trong hai
bánh rời ra là xe trút đổ. Tình thương ấy lại cần phải vô biên, không hạn cuộc.
Nếu còn thấy giới hạn của tình thương, thấy có người hay vật mình không thương
được, thấy có kẻ thù, thì chưa phải là từ bi. Cho nên trong pháp quán từ bi,
người ta thường luyện hai cách: hoặc mở rộng tình thương tuần tự đi từ những
người thân trong gia đình, cha mẹ, vợ con, dần dần đến thân thuộc, bạn bè, rồi
đến hàng xóm láng giềng, đến những người không thân, cuối cùng đến kẻ thù; và
phải tập thế nào cho đến khi mình thấy thương kẻ thù như người thân nhất mới
thôi; hoặc người ta trở ngược lại đi từ kẻ thù ghê gớm nhất dần dần đến kẻ thân
nhất; khi thấy không còn phân biệt giữa kẻ thù và người thân nhất mới
thôi. - Thế nếu họ lấy tay đánh hay lấy đá ném vào ông? - Bạch Thế Tôn! Con sẽ tự bảo: họ còn thương ta, vì họ không dùng gươm để đâm ta. - Nếu họ dùng gươm để đâm ông? - Bạch Thế Tôn! Con sẽ tự bảo: họ còn tốt, vì họ chưa đâm ta đến chết. - Nếu họ đâm ông đến chết? - Bạch Thế Tôn! Con sẽ tự bảo: họ đã giải thoát cho ta thoát khỏi cái thân vô thường, đau khổ. Chính đạo Phật đã có thái độ ấy trong lúc truyền đạo: người ta đánh đập thì mình chạy, nếu chạy không được thì đành chịu bị đánh hay bị giết. Do thái độ hiền hòa, bất bạo động, bất đề kháng ấy mà đạo Phật đã cảm hóa được nhân tâm, đã lan tràn mau lẹ trên thế giới. Phát xuất từ Ấn Độ, được sùng mộ trong khoảng gần mười thế kỷ ở đây rồi bị Bà La Môn lấy uy quyền hiếp đáp, xua đuổi, đạo Phật lẳng lặng ra khỏi Ấn Độ để du nhập những nước láng giềng. Sự hy sinh lớn lao của đạo Phật khi rời bỏ Ấn Độ, ra đi mà không chống cự lại, đã gây một ảnh hưởng vô cùng vĩ đại, chứng tỏ người Phật tử đã trung thành với giáo lý mà mình đã theo, với lời của Phật đã dạy. Cái truyền thống bất bạo động ấy chưa một lần nào bị vi phạm, mặc dù ở đâu và lúc nào. Xét như các xứ Tây Tạng, và nhất là Mông Cổ của Thành Cát Tư Hản xưa kia có tiếng là hung bạo, thế mà đạo Phật vẫn cảm phục được và biến đổi người dân ở những xứ đó thành hiền lương, thuần hậu. Cho đến ngày nay, chúng ta không lấy làm lạ khi thấy đạo Phật được gọi là đạo hòa bình và những phong trào hòa bình trên thế giới đều lấy đạo Phật làm nồng cốt, hay đều chịu ít nhiều ảnh hưởng của Phật giáo. Trong một hội nghị Phật giáo thế giới lần thứ III họp ở Nhật, hay lần thứ IV ở Népal, vấn đề hòa bình trong đạo Phật đã đươc nêu lên làm điểm chính cho cuộc thảo luận. Trong hội nghị văn hóa quốc tế họp ở Tân Đề Li năm 1956, Thủ tướng Nehru, người lãnh đạo khối Colombo, người chủ trương giải quyết mọi vấn đề quốc tế bằng giải pháp hòa bình, con người hòa giải vĩ đại ấy trong bài diễn văn khai mạc, đã tỏ ra rất hy vọng và tin tưởng ở năng lực Phật giáo trong công cuộc xây đắp một nền hòa bình vững chắc cho nhân loại. Phó Tổng Thống Ấn Độ Radhakrishnan, trong một cuộc mít tinh (ngày 23-11-1956) tại Tân Đề Li, đã tuyên bố trước sự hiện diện của hơn sáu mươi học giả danh tiếng trên thế giới: "Khoa học đã mang lại cho nhân loại nhiều quyền lực đến nỗi họ có thể tự phá hủy đời sống của mình. Cho nên có thể nói rằng, nếu không trồng cho mình những đức từ bi, bất bạo động, thì loài người hủy hoại tất cả. Hủy hoại hạnh phúc mình và chính bản thân mình nữa". Xem thế, chúng ta thấy từ bi của đạo Phật là một tình thương rộng mênh mông lan trải từ người đến vật, đến cỏ cây, rất bình đẳng, rất tích cực chứ không phải hạn cuộc, ích kỷ, tiêu cực, vô nghĩa như một số người đã lầm tưởng. Nó có những tác dụng quý báu thiết thực, ích lợi cho cuộc đời, có những ảnh hưởng tốt đẹp cho sự sống. Nó làm cho con người trở nên hiền dịu, rộng rãi, thông cảm với đồng loại, với muôn vật, với cỏ cây, biết tôn trọng sự sống của tất cả, và không vì một lý do gì mà tàn sát sinh vật, cũng không vì một lý do gì mà giết hại đồng loại hay gây chiến tranh. Chỉ riêng mấy điểm ấy, đạo Phật cũng đáng để nhân loại cảm mến tôn sùng. GHI CHÚ: (1) Ánh
Đạo Vàng của Võ Đình Cường. Page 11
QUYỂN SÁU: TỪ BI TRONG ĐẠO PHẬT
Mặc dù
thường được mọi người nói đến hai chữ từ bi, nhưng không ít người đã hiểu một
cách sai lệch, chỉ theo quán tính của mình. Có người hiểu từ bi là một tình
thương nhỏ nhặt tầm thường nông cạn; có người hiểu từ bi là một tình thương
nhạt nhẽo, lãnh đạm, tiêu cực, thua xa "tình yêu" hay "bác
ái"; có người cho từ bi là một hình thức biến thể của "ích kỷ";
lại có người đi xa hơn cho từ bi là một danh từ trống rỗng là "vô
nghĩa". Vậy từ bi là thế nào? - Từ bi
trong đời đức giáo chủ Thích Ca Mâu Ni Phật. I.-
TỪ BI TRONG ĐỜI ĐỨC GIÁO CHỦ THÍCH CA MÂU NI "...
Ta không muốn làm một kẻ chinh chiến, tắm bánh xe trong máu đào của muôn bãi
chiến để rồi lưu lại cho hậu thế một kỷ niệm đỏ gớm ghê... Và ngài đã nói với tên giữ ngựa Xa Nặc như thế nào? "- Ngươi ạ, sẽ là một thứ tình yêu giả trá nếu ta chỉ ở bên cạnh những người thân để hưởng những lạc thú ích kỷ. Ta muốn đừng bịn rịn với Tổ quốc nhỏ hẹp này để được yêu vũ trụ rộng lớn..." (1) Và trên
con đường đi tìm đạo, đức Phật đã không từ một cử chỉ nhỏ nhặt nào của tình
thương. Trí không
bi là trí điêu xảo, Bi và trí
cần được trau dồi, phát triển đồng đều với nhau: trí làm cho bi sáng suốt, bi
làm cho trí thuần lương. Trí và Bi như hai bánh của một chiếc xe. Một trong hai
bánh rời ra là xe trút đổ. Tình thương ấy lại cần phải vô biên, không hạn cuộc.
Nếu còn thấy giới hạn của tình thương, thấy có người hay vật mình không thương
được, thấy có kẻ thù, thì chưa phải là từ bi. Cho nên trong pháp quán từ bi,
người ta thường luyện hai cách: hoặc mở rộng tình thương tuần tự đi từ những
người thân trong gia đình, cha mẹ, vợ con, dần dần đến thân thuộc, bạn bè, rồi
đến hàng xóm láng giềng, đến những người không thân, cuối cùng đến kẻ thù; và
phải tập thế nào cho đến khi mình thấy thương kẻ thù như người thân nhất mới
thôi; hoặc người ta trở ngược lại đi từ kẻ thù ghê gớm nhất dần dần đến kẻ thân
nhất; khi thấy không còn phân biệt giữa kẻ thù và người thân nhất mới
thôi. - Thế nếu họ lấy tay đánh hay lấy đá ném vào ông? - Bạch Thế Tôn! Con sẽ tự bảo: họ còn thương ta, vì họ không dùng gươm để đâm ta. - Nếu họ dùng gươm để đâm ông? - Bạch Thế Tôn! Con sẽ tự bảo: họ còn tốt, vì họ chưa đâm ta đến chết. - Nếu họ đâm ông đến chết? - Bạch Thế Tôn! Con sẽ tự bảo: họ đã giải thoát cho ta thoát khỏi cái thân vô thường, đau khổ. Chính đạo Phật đã có thái độ ấy trong lúc truyền đạo: người ta đánh đập thì mình chạy, nếu chạy không được thì đành chịu bị đánh hay bị giết. Do thái độ hiền hòa, bất bạo động, bất đề kháng ấy mà đạo Phật đã cảm hóa được nhân tâm, đã lan tràn mau lẹ trên thế giới. Phát xuất từ Ấn Độ, được sùng mộ trong khoảng gần mười thế kỷ ở đây rồi bị Bà La Môn lấy uy quyền hiếp đáp, xua đuổi, đạo Phật lẳng lặng ra khỏi Ấn Độ để du nhập những nước láng giềng. Sự hy sinh lớn lao của đạo Phật khi rời bỏ Ấn Độ, ra đi mà không chống cự lại, đã gây một ảnh hưởng vô cùng vĩ đại, chứng tỏ người Phật tử đã trung thành với giáo lý mà mình đã theo, với lời của Phật đã dạy. Cái truyền thống bất bạo động ấy chưa một lần nào bị vi phạm, mặc dù ở đâu và lúc nào. Xét như các xứ Tây Tạng, và nhất là Mông Cổ của Thành Cát Tư Hản xưa kia có tiếng là hung bạo, thế mà đạo Phật vẫn cảm phục được và biến đổi người dân ở những xứ đó thành hiền lương, thuần hậu. Cho đến ngày nay, chúng ta không lấy làm lạ khi thấy đạo Phật được gọi là đạo hòa bình và những phong trào hòa bình trên thế giới đều lấy đạo Phật làm nồng cốt, hay đều chịu ít nhiều ảnh hưởng của Phật giáo. Trong một hội nghị Phật giáo thế giới lần thứ III họp ở Nhật, hay lần thứ IV ở Népal, vấn đề hòa bình trong đạo Phật đã đươc nêu lên làm điểm chính cho cuộc thảo luận. Trong hội nghị văn hóa quốc tế họp ở Tân Đề Li năm 1956, Thủ tướng Nehru, người lãnh đạo khối Colombo, người chủ trương giải quyết mọi vấn đề quốc tế bằng giải pháp hòa bình, con người hòa giải vĩ đại ấy trong bài diễn văn khai mạc, đã tỏ ra rất hy vọng và tin tưởng ở năng lực Phật giáo trong công cuộc xây đắp một nền hòa bình vững chắc cho nhân loại. Phó Tổng Thống Ấn Độ Radhakrishnan, trong một cuộc mít tinh (ngày 23-11-1956) tại Tân Đề Li, đã tuyên bố trước sự hiện diện của hơn sáu mươi học giả danh tiếng trên thế giới: "Khoa học đã mang lại cho nhân loại nhiều quyền lực đến nỗi họ có thể tự phá hủy đời sống của mình. Cho nên có thể nói rằng, nếu không trồng cho mình những đức từ bi, bất bạo động, thì loài người hủy hoại tất cả. Hủy hoại hạnh phúc mình và chính bản thân mình nữa". Xem thế, chúng ta thấy từ bi của đạo Phật là một tình thương rộng mênh mông lan trải từ người đến vật, đến cỏ cây, rất bình đẳng, rất tích cực chứ không phải hạn cuộc, ích kỷ, tiêu cực, vô nghĩa như một số người đã lầm tưởng. Nó có những tác dụng quý báu thiết thực, ích lợi cho cuộc đời, có những ảnh hưởng tốt đẹp cho sự sống. Nó làm cho con người trở nên hiền dịu, rộng rãi, thông cảm với đồng loại, với muôn vật, với cỏ cây, biết tôn trọng sự sống của tất cả, và không vì một lý do gì mà tàn sát sinh vật, cũng không vì một lý do gì mà giết hại đồng loại hay gây chiến tranh. Chỉ riêng mấy điểm ấy, đạo Phật cũng đáng để nhân loại cảm mến tôn sùng. GHI CHÚ: (1) Ánh
Đạo Vàng của Võ Đình Cường. Page 12
QUYỂN SÁU: TỪ BI TRONG ĐẠO PHẬT
Mặc dù
thường được mọi người nói đến hai chữ từ bi, nhưng không ít người đã hiểu một
cách sai lệch, chỉ theo quán tính của mình. Có người hiểu từ bi là một tình
thương nhỏ nhặt tầm thường nông cạn; có người hiểu từ bi là một tình thương
nhạt nhẽo, lãnh đạm, tiêu cực, thua xa "tình yêu" hay "bác
ái"; có người cho từ bi là một hình thức biến thể của "ích kỷ";
lại có người đi xa hơn cho từ bi là một danh từ trống rỗng là "vô
nghĩa". Vậy từ bi là thế nào? - Từ bi
trong đời đức giáo chủ Thích Ca Mâu Ni Phật. I.-
TỪ BI TRONG ĐỜI ĐỨC GIÁO CHỦ THÍCH CA MÂU NI "...
Ta không muốn làm một kẻ chinh chiến, tắm bánh xe trong máu đào của muôn bãi
chiến để rồi lưu lại cho hậu thế một kỷ niệm đỏ gớm ghê... Và ngài đã nói với tên giữ ngựa Xa Nặc như thế nào? "- Ngươi ạ, sẽ là một thứ tình yêu giả trá nếu ta chỉ ở bên cạnh những người thân để hưởng những lạc thú ích kỷ. Ta muốn đừng bịn rịn với Tổ quốc nhỏ hẹp này để được yêu vũ trụ rộng lớn..." (1) Và trên
con đường đi tìm đạo, đức Phật đã không từ một cử chỉ nhỏ nhặt nào của tình
thương. Trí không
bi là trí điêu xảo, Bi và trí
cần được trau dồi, phát triển đồng đều với nhau: trí làm cho bi sáng suốt, bi
làm cho trí thuần lương. Trí và Bi như hai bánh của một chiếc xe. Một trong hai
bánh rời ra là xe trút đổ. Tình thương ấy lại cần phải vô biên, không hạn cuộc.
Nếu còn thấy giới hạn của tình thương, thấy có người hay vật mình không thương
được, thấy có kẻ thù, thì chưa phải là từ bi. Cho nên trong pháp quán từ bi,
người ta thường luyện hai cách: hoặc mở rộng tình thương tuần tự đi từ những
người thân trong gia đình, cha mẹ, vợ con, dần dần đến thân thuộc, bạn bè, rồi
đến hàng xóm láng giềng, đến những người không thân, cuối cùng đến kẻ thù; và
phải tập thế nào cho đến khi mình thấy thương kẻ thù như người thân nhất mới
thôi; hoặc người ta trở ngược lại đi từ kẻ thù ghê gớm nhất dần dần đến kẻ thân
nhất; khi thấy không còn phân biệt giữa kẻ thù và người thân nhất mới
thôi. - Thế nếu họ lấy tay đánh hay lấy đá ném vào ông? - Bạch Thế Tôn! Con sẽ tự bảo: họ còn thương ta, vì họ không dùng gươm để đâm ta. - Nếu họ dùng gươm để đâm ông? - Bạch Thế Tôn! Con sẽ tự bảo: họ còn tốt, vì họ chưa đâm ta đến chết. - Nếu họ đâm ông đến chết? - Bạch Thế Tôn! Con sẽ tự bảo: họ đã giải thoát cho ta thoát khỏi cái thân vô thường, đau khổ. Chính đạo Phật đã có thái độ ấy trong lúc truyền đạo: người ta đánh đập thì mình chạy, nếu chạy không được thì đành chịu bị đánh hay bị giết. Do thái độ hiền hòa, bất bạo động, bất đề kháng ấy mà đạo Phật đã cảm hóa được nhân tâm, đã lan tràn mau lẹ trên thế giới. Phát xuất từ Ấn Độ, được sùng mộ trong khoảng gần mười thế kỷ ở đây rồi bị Bà La Môn lấy uy quyền hiếp đáp, xua đuổi, đạo Phật lẳng lặng ra khỏi Ấn Độ để du nhập những nước láng giềng. Sự hy sinh lớn lao của đạo Phật khi rời bỏ Ấn Độ, ra đi mà không chống cự lại, đã gây một ảnh hưởng vô cùng vĩ đại, chứng tỏ người Phật tử đã trung thành với giáo lý mà mình đã theo, với lời của Phật đã dạy. Cái truyền thống bất bạo động ấy chưa một lần nào bị vi phạm, mặc dù ở đâu và lúc nào. Xét như các xứ Tây Tạng, và nhất là Mông Cổ của Thành Cát Tư Hản xưa kia có tiếng là hung bạo, thế mà đạo Phật vẫn cảm phục được và biến đổi người dân ở những xứ đó thành hiền lương, thuần hậu. Cho đến ngày nay, chúng ta không lấy làm lạ khi thấy đạo Phật được gọi là đạo hòa bình và những phong trào hòa bình trên thế giới đều lấy đạo Phật làm nồng cốt, hay đều chịu ít nhiều ảnh hưởng của Phật giáo. Trong một hội nghị Phật giáo thế giới lần thứ III họp ở Nhật, hay lần thứ IV ở Népal, vấn đề hòa bình trong đạo Phật đã đươc nêu lên làm điểm chính cho cuộc thảo luận. Trong hội nghị văn hóa quốc tế họp ở Tân Đề Li năm 1956, Thủ tướng Nehru, người lãnh đạo khối Colombo, người chủ trương giải quyết mọi vấn đề quốc tế bằng giải pháp hòa bình, con người hòa giải vĩ đại ấy trong bài diễn văn khai mạc, đã tỏ ra rất hy vọng và tin tưởng ở năng lực Phật giáo trong công cuộc xây đắp một nền hòa bình vững chắc cho nhân loại. Phó Tổng Thống Ấn Độ Radhakrishnan, trong một cuộc mít tinh (ngày 23-11-1956) tại Tân Đề Li, đã tuyên bố trước sự hiện diện của hơn sáu mươi học giả danh tiếng trên thế giới: "Khoa học đã mang lại cho nhân loại nhiều quyền lực đến nỗi họ có thể tự phá hủy đời sống của mình. Cho nên có thể nói rằng, nếu không trồng cho mình những đức từ bi, bất bạo động, thì loài người hủy hoại tất cả. Hủy hoại hạnh phúc mình và chính bản thân mình nữa". Xem thế, chúng ta thấy từ bi của đạo Phật là một tình thương rộng mênh mông lan trải từ người đến vật, đến cỏ cây, rất bình đẳng, rất tích cực chứ không phải hạn cuộc, ích kỷ, tiêu cực, vô nghĩa như một số người đã lầm tưởng. Nó có những tác dụng quý báu thiết thực, ích lợi cho cuộc đời, có những ảnh hưởng tốt đẹp cho sự sống. Nó làm cho con người trở nên hiền dịu, rộng rãi, thông cảm với đồng loại, với muôn vật, với cỏ cây, biết tôn trọng sự sống của tất cả, và không vì một lý do gì mà tàn sát sinh vật, cũng không vì một lý do gì mà giết hại đồng loại hay gây chiến tranh. Chỉ riêng mấy điểm ấy, đạo Phật cũng đáng để nhân loại cảm mến tôn sùng. GHI CHÚ: (1) Ánh
Đạo Vàng của Võ Đình Cường. Page 13
QUYỂN SÁU: TỪ BI TRONG ĐẠO PHẬT
Mặc dù
thường được mọi người nói đến hai chữ từ bi, nhưng không ít người đã hiểu một
cách sai lệch, chỉ theo quán tính của mình. Có người hiểu từ bi là một tình
thương nhỏ nhặt tầm thường nông cạn; có người hiểu từ bi là một tình thương
nhạt nhẽo, lãnh đạm, tiêu cực, thua xa "tình yêu" hay "bác
ái"; có người cho từ bi là một hình thức biến thể của "ích kỷ";
lại có người đi xa hơn cho từ bi là một danh từ trống rỗng là "vô
nghĩa". Vậy từ bi là thế nào? - Từ bi
trong đời đức giáo chủ Thích Ca Mâu Ni Phật. I.-
TỪ BI TRONG ĐỜI ĐỨC GIÁO CHỦ THÍCH CA MÂU NI "...
Ta không muốn làm một kẻ chinh chiến, tắm bánh xe trong máu đào của muôn bãi
chiến để rồi lưu lại cho hậu thế một kỷ niệm đỏ gớm ghê... Và ngài đã nói với tên giữ ngựa Xa Nặc như thế nào? "- Ngươi ạ, sẽ là một thứ tình yêu giả trá nếu ta chỉ ở bên cạnh những người thân để hưởng những lạc thú ích kỷ. Ta muốn đừng bịn rịn với Tổ quốc nhỏ hẹp này để được yêu vũ trụ rộng lớn..." (1) Và trên
con đường đi tìm đạo, đức Phật đã không từ một cử chỉ nhỏ nhặt nào của tình
thương. Trí không
bi là trí điêu xảo, Bi và trí
cần được trau dồi, phát triển đồng đều với nhau: trí làm cho bi sáng suốt, bi
làm cho trí thuần lương. Trí và Bi như hai bánh của một chiếc xe. Một trong hai
bánh rời ra là xe trút đổ. Tình thương ấy lại cần phải vô biên, không hạn cuộc.
Nếu còn thấy giới hạn của tình thương, thấy có người hay vật mình không thương
được, thấy có kẻ thù, thì chưa phải là từ bi. Cho nên trong pháp quán từ bi,
người ta thường luyện hai cách: hoặc mở rộng tình thương tuần tự đi từ những
người thân trong gia đình, cha mẹ, vợ con, dần dần đến thân thuộc, bạn bè, rồi
đến hàng xóm láng giềng, đến những người không thân, cuối cùng đến kẻ thù; và
phải tập thế nào cho đến khi mình thấy thương kẻ thù như người thân nhất mới
thôi; hoặc người ta trở ngược lại đi từ kẻ thù ghê gớm nhất dần dần đến kẻ thân
nhất; khi thấy không còn phân biệt giữa kẻ thù và người thân nhất mới
thôi. - Thế nếu họ lấy tay đánh hay lấy đá ném vào ông? - Bạch Thế Tôn! Con sẽ tự bảo: họ còn thương ta, vì họ không dùng gươm để đâm ta. - Nếu họ dùng gươm để đâm ông? - Bạch Thế Tôn! Con sẽ tự bảo: họ còn tốt, vì họ chưa đâm ta đến chết. - Nếu họ đâm ông đến chết? - Bạch Thế Tôn! Con sẽ tự bảo: họ đã giải thoát cho ta thoát khỏi cái thân vô thường, đau khổ. Chính đạo Phật đã có thái độ ấy trong lúc truyền đạo: người ta đánh đập thì mình chạy, nếu chạy không được thì đành chịu bị đánh hay bị giết. Do thái độ hiền hòa, bất bạo động, bất đề kháng ấy mà đạo Phật đã cảm hóa được nhân tâm, đã lan tràn mau lẹ trên thế giới. Phát xuất từ Ấn Độ, được sùng mộ trong khoảng gần mười thế kỷ ở đây rồi bị Bà La Môn lấy uy quyền hiếp đáp, xua đuổi, đạo Phật lẳng lặng ra khỏi Ấn Độ để du nhập những nước láng giềng. Sự hy sinh lớn lao của đạo Phật khi rời bỏ Ấn Độ, ra đi mà không chống cự lại, đã gây một ảnh hưởng vô cùng vĩ đại, chứng tỏ người Phật tử đã trung thành với giáo lý mà mình đã theo, với lời của Phật đã dạy. Cái truyền thống bất bạo động ấy chưa một lần nào bị vi phạm, mặc dù ở đâu và lúc nào. Xét như các xứ Tây Tạng, và nhất là Mông Cổ của Thành Cát Tư Hản xưa kia có tiếng là hung bạo, thế mà đạo Phật vẫn cảm phục được và biến đổi người dân ở những xứ đó thành hiền lương, thuần hậu. Cho đến ngày nay, chúng ta không lấy làm lạ khi thấy đạo Phật được gọi là đạo hòa bình và những phong trào hòa bình trên thế giới đều lấy đạo Phật làm nồng cốt, hay đều chịu ít nhiều ảnh hưởng của Phật giáo. Trong một hội nghị Phật giáo thế giới lần thứ III họp ở Nhật, hay lần thứ IV ở Népal, vấn đề hòa bình trong đạo Phật đã đươc nêu lên làm điểm chính cho cuộc thảo luận. Trong hội nghị văn hóa quốc tế họp ở Tân Đề Li năm 1956, Thủ tướng Nehru, người lãnh đạo khối Colombo, người chủ trương giải quyết mọi vấn đề quốc tế bằng giải pháp hòa bình, con người hòa giải vĩ đại ấy trong bài diễn văn khai mạc, đã tỏ ra rất hy vọng và tin tưởng ở năng lực Phật giáo trong công cuộc xây đắp một nền hòa bình vững chắc cho nhân loại. Phó Tổng Thống Ấn Độ Radhakrishnan, trong một cuộc mít tinh (ngày 23-11-1956) tại Tân Đề Li, đã tuyên bố trước sự hiện diện của hơn sáu mươi học giả danh tiếng trên thế giới: "Khoa học đã mang lại cho nhân loại nhiều quyền lực đến nỗi họ có thể tự phá hủy đời sống của mình. Cho nên có thể nói rằng, nếu không trồng cho mình những đức từ bi, bất bạo động, thì loài người hủy hoại tất cả. Hủy hoại hạnh phúc mình và chính bản thân mình nữa". Xem thế, chúng ta thấy từ bi của đạo Phật là một tình thương rộng mênh mông lan trải từ người đến vật, đến cỏ cây, rất bình đẳng, rất tích cực chứ không phải hạn cuộc, ích kỷ, tiêu cực, vô nghĩa như một số người đã lầm tưởng. Nó có những tác dụng quý báu thiết thực, ích lợi cho cuộc đời, có những ảnh hưởng tốt đẹp cho sự sống. Nó làm cho con người trở nên hiền dịu, rộng rãi, thông cảm với đồng loại, với muôn vật, với cỏ cây, biết tôn trọng sự sống của tất cả, và không vì một lý do gì mà tàn sát sinh vật, cũng không vì một lý do gì mà giết hại đồng loại hay gây chiến tranh. Chỉ riêng mấy điểm ấy, đạo Phật cũng đáng để nhân loại cảm mến tôn sùng. GHI CHÚ: (1) Ánh
Đạo Vàng của Võ Đình Cường. Page 14
QUYỂN SÁU: TỪ BI TRONG ĐẠO PHẬT
Mặc dù
thường được mọi người nói đến hai chữ từ bi, nhưng không ít người đã hiểu một
cách sai lệch, chỉ theo quán tính của mình. Có người hiểu từ bi là một tình
thương nhỏ nhặt tầm thường nông cạn; có người hiểu từ bi là một tình thương
nhạt nhẽo, lãnh đạm, tiêu cực, thua xa "tình yêu" hay "bác
ái"; có người cho từ bi là một hình thức biến thể của "ích kỷ";
lại có người đi xa hơn cho từ bi là một danh từ trống rỗng là "vô
nghĩa". Vậy từ bi là thế nào? - Từ bi
trong đời đức giáo chủ Thích Ca Mâu Ni Phật. I.-
TỪ BI TRONG ĐỜI ĐỨC GIÁO CHỦ THÍCH CA MÂU NI "...
Ta không muốn làm một kẻ chinh chiến, tắm bánh xe trong máu đào của muôn bãi
chiến để rồi lưu lại cho hậu thế một kỷ niệm đỏ gớm ghê... Và ngài đã nói với tên giữ ngựa Xa Nặc như thế nào? "- Ngươi ạ, sẽ là một thứ tình yêu giả trá nếu ta chỉ ở bên cạnh những người thân để hưởng những lạc thú ích kỷ. Ta muốn đừng bịn rịn với Tổ quốc nhỏ hẹp này để được yêu vũ trụ rộng lớn..." (1) Và trên
con đường đi tìm đạo, đức Phật đã không từ một cử chỉ nhỏ nhặt nào của tình
thương. Trí không
bi là trí điêu xảo, Bi và trí
cần được trau dồi, phát triển đồng đều với nhau: trí làm cho bi sáng suốt, bi
làm cho trí thuần lương. Trí và Bi như hai bánh của một chiếc xe. Một trong hai
bánh rời ra là xe trút đổ. Tình thương ấy lại cần phải vô biên, không hạn cuộc.
Nếu còn thấy giới hạn của tình thương, thấy có người hay vật mình không thương
được, thấy có kẻ thù, thì chưa phải là từ bi. Cho nên trong pháp quán từ bi,
người ta thường luyện hai cách: hoặc mở rộng tình thương tuần tự đi từ những
người thân trong gia đình, cha mẹ, vợ con, dần dần đến thân thuộc, bạn bè, rồi
đến hàng xóm láng giềng, đến những người không thân, cuối cùng đến kẻ thù; và
phải tập thế nào cho đến khi mình thấy thương kẻ thù như người thân nhất mới
thôi; hoặc người ta trở ngược lại đi từ kẻ thù ghê gớm nhất dần dần đến kẻ thân
nhất; khi thấy không còn phân biệt giữa kẻ thù và người thân nhất mới
thôi. - Thế nếu họ lấy tay đánh hay lấy đá ném vào ông? - Bạch Thế Tôn! Con sẽ tự bảo: họ còn thương ta, vì họ không dùng gươm để đâm ta. - Nếu họ dùng gươm để đâm ông? - Bạch Thế Tôn! Con sẽ tự bảo: họ còn tốt, vì họ chưa đâm ta đến chết. - Nếu họ đâm ông đến chết? - Bạch Thế Tôn! Con sẽ tự bảo: họ đã giải thoát cho ta thoát khỏi cái thân vô thường, đau khổ. Chính đạo Phật đã có thái độ ấy trong lúc truyền đạo: người ta đánh đập thì mình chạy, nếu chạy không được thì đành chịu bị đánh hay bị giết. Do thái độ hiền hòa, bất bạo động, bất đề kháng ấy mà đạo Phật đã cảm hóa được nhân tâm, đã lan tràn mau lẹ trên thế giới. Phát xuất từ Ấn Độ, được sùng mộ trong khoảng gần mười thế kỷ ở đây rồi bị Bà La Môn lấy uy quyền hiếp đáp, xua đuổi, đạo Phật lẳng lặng ra khỏi Ấn Độ để du nhập những nước láng giềng. Sự hy sinh lớn lao của đạo Phật khi rời bỏ Ấn Độ, ra đi mà không chống cự lại, đã gây một ảnh hưởng vô cùng vĩ đại, chứng tỏ người Phật tử đã trung thành với giáo lý mà mình đã theo, với lời của Phật đã dạy. Cái truyền thống bất bạo động ấy chưa một lần nào bị vi phạm, mặc dù ở đâu và lúc nào. Xét như các xứ Tây Tạng, và nhất là Mông Cổ của Thành Cát Tư Hản xưa kia có tiếng là hung bạo, thế mà đạo Phật vẫn cảm phục được và biến đổi người dân ở những xứ đó thành hiền lương, thuần hậu. Cho đến ngày nay, chúng ta không lấy làm lạ khi thấy đạo Phật được gọi là đạo hòa bình và những phong trào hòa bình trên thế giới đều lấy đạo Phật làm nồng cốt, hay đều chịu ít nhiều ảnh hưởng của Phật giáo. Trong một hội nghị Phật giáo thế giới lần thứ III họp ở Nhật, hay lần thứ IV ở Népal, vấn đề hòa bình trong đạo Phật đã đươc nêu lên làm điểm chính cho cuộc thảo luận. Trong hội nghị văn hóa quốc tế họp ở Tân Đề Li năm 1956, Thủ tướng Nehru, người lãnh đạo khối Colombo, người chủ trương giải quyết mọi vấn đề quốc tế bằng giải pháp hòa bình, con người hòa giải vĩ đại ấy trong bài diễn văn khai mạc, đã tỏ ra rất hy vọng và tin tưởng ở năng lực Phật giáo trong công cuộc xây đắp một nền hòa bình vững chắc cho nhân loại. Phó Tổng Thống Ấn Độ Radhakrishnan, trong một cuộc mít tinh (ngày 23-11-1956) tại Tân Đề Li, đã tuyên bố trước sự hiện diện của hơn sáu mươi học giả danh tiếng trên thế giới: "Khoa học đã mang lại cho nhân loại nhiều quyền lực đến nỗi họ có thể tự phá hủy đời sống của mình. Cho nên có thể nói rằng, nếu không trồng cho mình những đức từ bi, bất bạo động, thì loài người hủy hoại tất cả. Hủy hoại hạnh phúc mình và chính bản thân mình nữa". Xem thế, chúng ta thấy từ bi của đạo Phật là một tình thương rộng mênh mông lan trải từ người đến vật, đến cỏ cây, rất bình đẳng, rất tích cực chứ không phải hạn cuộc, ích kỷ, tiêu cực, vô nghĩa như một số người đã lầm tưởng. Nó có những tác dụng quý báu thiết thực, ích lợi cho cuộc đời, có những ảnh hưởng tốt đẹp cho sự sống. Nó làm cho con người trở nên hiền dịu, rộng rãi, thông cảm với đồng loại, với muôn vật, với cỏ cây, biết tôn trọng sự sống của tất cả, và không vì một lý do gì mà tàn sát sinh vật, cũng không vì một lý do gì mà giết hại đồng loại hay gây chiến tranh. Chỉ riêng mấy điểm ấy, đạo Phật cũng đáng để nhân loại cảm mến tôn sùng. GHI CHÚ: (1) Ánh
Đạo Vàng của Võ Đình Cường. Page 15
QUYỂN SÁU: TỪ BI TRONG ĐẠO PHẬT
Mặc dù
thường được mọi người nói đến hai chữ từ bi, nhưng không ít người đã hiểu một
cách sai lệch, chỉ theo quán tính của mình. Có người hiểu từ bi là một tình
thương nhỏ nhặt tầm thường nông cạn; có người hiểu từ bi là một tình thương
nhạt nhẽo, lãnh đạm, tiêu cực, thua xa "tình yêu" hay "bác
ái"; có người cho từ bi là một hình thức biến thể của "ích kỷ";
lại có người đi xa hơn cho từ bi là một danh từ trống rỗng là "vô
nghĩa". Vậy từ bi là thế nào? - Từ bi
trong đời đức giáo chủ Thích Ca Mâu Ni Phật. I.-
TỪ BI TRONG ĐỜI ĐỨC GIÁO CHỦ THÍCH CA MÂU NI "...
Ta không muốn làm một kẻ chinh chiến, tắm bánh xe trong máu đào của muôn bãi
chiến để rồi lưu lại cho hậu thế một kỷ niệm đỏ gớm ghê... Và ngài đã nói với tên giữ ngựa Xa Nặc như thế nào? "- Ngươi ạ, sẽ là một thứ tình yêu giả trá nếu ta chỉ ở bên cạnh những người thân để hưởng những lạc thú ích kỷ. Ta muốn đừng bịn rịn với Tổ quốc nhỏ hẹp này để được yêu vũ trụ rộng lớn..." (1) Và trên
con đường đi tìm đạo, đức Phật đã không từ một cử chỉ nhỏ nhặt nào của tình
thương. Trí không
bi là trí điêu xảo, Bi và trí
cần được trau dồi, phát triển đồng đều với nhau: trí làm cho bi sáng suốt, bi
làm cho trí thuần lương. Trí và Bi như hai bánh của một chiếc xe. Một trong hai
bánh rời ra là xe trút đổ. Tình thương ấy lại cần phải vô biên, không hạn cuộc.
Nếu còn thấy giới hạn của tình thương, thấy có người hay vật mình không thương
được, thấy có kẻ thù, thì chưa phải là từ bi. Cho nên trong pháp quán từ bi,
người ta thường luyện hai cách: hoặc mở rộng tình thương tuần tự đi từ những
người thân trong gia đình, cha mẹ, vợ con, dần dần đến thân thuộc, bạn bè, rồi
đến hàng xóm láng giềng, đến những người không thân, cuối cùng đến kẻ thù; và
phải tập thế nào cho đến khi mình thấy thương kẻ thù như người thân nhất mới
thôi; hoặc người ta trở ngược lại đi từ kẻ thù ghê gớm nhất dần dần đến kẻ thân
nhất; khi thấy không còn phân biệt giữa kẻ thù và người thân nhất mới
thôi. - Thế nếu họ lấy tay đánh hay lấy đá ném vào ông? - Bạch Thế Tôn! Con sẽ tự bảo: họ còn thương ta, vì họ không dùng gươm để đâm ta. - Nếu họ dùng gươm để đâm ông? - Bạch Thế Tôn! Con sẽ tự bảo: họ còn tốt, vì họ chưa đâm ta đến chết. - Nếu họ đâm ông đến chết? - Bạch Thế Tôn! Con sẽ tự bảo: họ đã giải thoát cho ta thoát khỏi cái thân vô thường, đau khổ. Chính đạo Phật đã có thái độ ấy trong lúc truyền đạo: người ta đánh đập thì mình chạy, nếu chạy không được thì đành chịu bị đánh hay bị giết. Do thái độ hiền hòa, bất bạo động, bất đề kháng ấy mà đạo Phật đã cảm hóa được nhân tâm, đã lan tràn mau lẹ trên thế giới. Phát xuất từ Ấn Độ, được sùng mộ trong khoảng gần mười thế kỷ ở đây rồi bị Bà La Môn lấy uy quyền hiếp đáp, xua đuổi, đạo Phật lẳng lặng ra khỏi Ấn Độ để du nhập những nước láng giềng. Sự hy sinh lớn lao của đạo Phật khi rời bỏ Ấn Độ, ra đi mà không chống cự lại, đã gây một ảnh hưởng vô cùng vĩ đại, chứng tỏ người Phật tử đã trung thành với giáo lý mà mình đã theo, với lời của Phật đã dạy. Cái truyền thống bất bạo động ấy chưa một lần nào bị vi phạm, mặc dù ở đâu và lúc nào. Xét như các xứ Tây Tạng, và nhất là Mông Cổ của Thành Cát Tư Hản xưa kia có tiếng là hung bạo, thế mà đạo Phật vẫn cảm phục được và biến đổi người dân ở những xứ đó thành hiền lương, thuần hậu. Cho đến ngày nay, chúng ta không lấy làm lạ khi thấy đạo Phật được gọi là đạo hòa bình và những phong trào hòa bình trên thế giới đều lấy đạo Phật làm nồng cốt, hay đều chịu ít nhiều ảnh hưởng của Phật giáo. Trong một hội nghị Phật giáo thế giới lần thứ III họp ở Nhật, hay lần thứ IV ở Népal, vấn đề hòa bình trong đạo Phật đã đươc nêu lên làm điểm chính cho cuộc thảo luận. Trong hội nghị văn hóa quốc tế họp ở Tân Đề Li năm 1956, Thủ tướng Nehru, người lãnh đạo khối Colombo, người chủ trương giải quyết mọi vấn đề quốc tế bằng giải pháp hòa bình, con người hòa giải vĩ đại ấy trong bài diễn văn khai mạc, đã tỏ ra rất hy vọng và tin tưởng ở năng lực Phật giáo trong công cuộc xây đắp một nền hòa bình vững chắc cho nhân loại. Phó Tổng Thống Ấn Độ Radhakrishnan, trong một cuộc mít tinh (ngày 23-11-1956) tại Tân Đề Li, đã tuyên bố trước sự hiện diện của hơn sáu mươi học giả danh tiếng trên thế giới: "Khoa học đã mang lại cho nhân loại nhiều quyền lực đến nỗi họ có thể tự phá hủy đời sống của mình. Cho nên có thể nói rằng, nếu không trồng cho mình những đức từ bi, bất bạo động, thì loài người hủy hoại tất cả. Hủy hoại hạnh phúc mình và chính bản thân mình nữa". Xem thế, chúng ta thấy từ bi của đạo Phật là một tình thương rộng mênh mông lan trải từ người đến vật, đến cỏ cây, rất bình đẳng, rất tích cực chứ không phải hạn cuộc, ích kỷ, tiêu cực, vô nghĩa như một số người đã lầm tưởng. Nó có những tác dụng quý báu thiết thực, ích lợi cho cuộc đời, có những ảnh hưởng tốt đẹp cho sự sống. Nó làm cho con người trở nên hiền dịu, rộng rãi, thông cảm với đồng loại, với muôn vật, với cỏ cây, biết tôn trọng sự sống của tất cả, và không vì một lý do gì mà tàn sát sinh vật, cũng không vì một lý do gì mà giết hại đồng loại hay gây chiến tranh. Chỉ riêng mấy điểm ấy, đạo Phật cũng đáng để nhân loại cảm mến tôn sùng. GHI CHÚ: (1) Ánh
Đạo Vàng của Võ Đình Cường. Page 16
QUYỂN SÁU: TỪ BI TRONG ĐẠO PHẬT
Mặc dù
thường được mọi người nói đến hai chữ từ bi, nhưng không ít người đã hiểu một
cách sai lệch, chỉ theo quán tính của mình. Có người hiểu từ bi là một tình
thương nhỏ nhặt tầm thường nông cạn; có người hiểu từ bi là một tình thương
nhạt nhẽo, lãnh đạm, tiêu cực, thua xa "tình yêu" hay "bác
ái"; có người cho từ bi là một hình thức biến thể của "ích kỷ";
lại có người đi xa hơn cho từ bi là một danh từ trống rỗng là "vô
nghĩa". Vậy từ bi là thế nào? - Từ bi
trong đời đức giáo chủ Thích Ca Mâu Ni Phật. I.-
TỪ BI TRONG ĐỜI ĐỨC GIÁO CHỦ THÍCH CA MÂU NI "...
Ta không muốn làm một kẻ chinh chiến, tắm bánh xe trong máu đào của muôn bãi
chiến để rồi lưu lại cho hậu thế một kỷ niệm đỏ gớm ghê... Và ngài đã nói với tên giữ ngựa Xa Nặc như thế nào? "- Ngươi ạ, sẽ là một thứ tình yêu giả trá nếu ta chỉ ở bên cạnh những người thân để hưởng những lạc thú ích kỷ. Ta muốn đừng bịn rịn với Tổ quốc nhỏ hẹp này để được yêu vũ trụ rộng lớn..." (1) Và trên
con đường đi tìm đạo, đức Phật đã không từ một cử chỉ nhỏ nhặt nào của tình
thương. Trí không
bi là trí điêu xảo, Bi và trí
cần được trau dồi, phát triển đồng đều với nhau: trí làm cho bi sáng suốt, bi
làm cho trí thuần lương. Trí và Bi như hai bánh của một chiếc xe. Một trong hai
bánh rời ra là xe trút đổ. Tình thương ấy lại cần phải vô biên, không hạn cuộc.
Nếu còn thấy giới hạn của tình thương, thấy có người hay vật mình không thương
được, thấy có kẻ thù, thì chưa phải là từ bi. Cho nên trong pháp quán từ bi,
người ta thường luyện hai cách: hoặc mở rộng tình thương tuần tự đi từ những
người thân trong gia đình, cha mẹ, vợ con, dần dần đến thân thuộc, bạn bè, rồi
đến hàng xóm láng giềng, đến những người không thân, cuối cùng đến kẻ thù; và
phải tập thế nào cho đến khi mình thấy thương kẻ thù như người thân nhất mới
thôi; hoặc người ta trở ngược lại đi từ kẻ thù ghê gớm nhất dần dần đến kẻ thân
nhất; khi thấy không còn phân biệt giữa kẻ thù và người thân nhất mới
thôi. - Thế nếu họ lấy tay đánh hay lấy đá ném vào ông? - Bạch Thế Tôn! Con sẽ tự bảo: họ còn thương ta, vì họ không dùng gươm để đâm ta. - Nếu họ dùng gươm để đâm ông? - Bạch Thế Tôn! Con sẽ tự bảo: họ còn tốt, vì họ chưa đâm ta đến chết. - Nếu họ đâm ông đến chết? - Bạch Thế Tôn! Con sẽ tự bảo: họ đã giải thoát cho ta thoát khỏi cái thân vô thường, đau khổ. Chính đạo Phật đã có thái độ ấy trong lúc truyền đạo: người ta đánh đập thì mình chạy, nếu chạy không được thì đành chịu bị đánh hay bị giết. Do thái độ hiền hòa, bất bạo động, bất đề kháng ấy mà đạo Phật đã cảm hóa được nhân tâm, đã lan tràn mau lẹ trên thế giới. Phát xuất từ Ấn Độ, được sùng mộ trong khoảng gần mười thế kỷ ở đây rồi bị Bà La Môn lấy uy quyền hiếp đáp, xua đuổi, đạo Phật lẳng lặng ra khỏi Ấn Độ để du nhập những nước láng giềng. Sự hy sinh lớn lao của đạo Phật khi rời bỏ Ấn Độ, ra đi mà không chống cự lại, đã gây một ảnh hưởng vô cùng vĩ đại, chứng tỏ người Phật tử đã trung thành với giáo lý mà mình đã theo, với lời của Phật đã dạy. Cái truyền thống bất bạo động ấy chưa một lần nào bị vi phạm, mặc dù ở đâu và lúc nào. Xét như các xứ Tây Tạng, và nhất là Mông Cổ của Thành Cát Tư Hản xưa kia có tiếng là hung bạo, thế mà đạo Phật vẫn cảm phục được và biến đổi người dân ở những xứ đó thành hiền lương, thuần hậu. Cho đến ngày nay, chúng ta không lấy làm lạ khi thấy đạo Phật được gọi là đạo hòa bình và những phong trào hòa bình trên thế giới đều lấy đạo Phật làm nồng cốt, hay đều chịu ít nhiều ảnh hưởng của Phật giáo. Trong một hội nghị Phật giáo thế giới lần thứ III họp ở Nhật, hay lần thứ IV ở Népal, vấn đề hòa bình trong đạo Phật đã đươc nêu lên làm điểm chính cho cuộc thảo luận. Trong hội nghị văn hóa quốc tế họp ở Tân Đề Li năm 1956, Thủ tướng Nehru, người lãnh đạo khối Colombo, người chủ trương giải quyết mọi vấn đề quốc tế bằng giải pháp hòa bình, con người hòa giải vĩ đại ấy trong bài diễn văn khai mạc, đã tỏ ra rất hy vọng và tin tưởng ở năng lực Phật giáo trong công cuộc xây đắp một nền hòa bình vững chắc cho nhân loại. Phó Tổng Thống Ấn Độ Radhakrishnan, trong một cuộc mít tinh (ngày 23-11-1956) tại Tân Đề Li, đã tuyên bố trước sự hiện diện của hơn sáu mươi học giả danh tiếng trên thế giới: "Khoa học đã mang lại cho nhân loại nhiều quyền lực đến nỗi họ có thể tự phá hủy đời sống của mình. Cho nên có thể nói rằng, nếu không trồng cho mình những đức từ bi, bất bạo động, thì loài người hủy hoại tất cả. Hủy hoại hạnh phúc mình và chính bản thân mình nữa". Xem thế, chúng ta thấy từ bi của đạo Phật là một tình thương rộng mênh mông lan trải từ người đến vật, đến cỏ cây, rất bình đẳng, rất tích cực chứ không phải hạn cuộc, ích kỷ, tiêu cực, vô nghĩa như một số người đã lầm tưởng. Nó có những tác dụng quý báu thiết thực, ích lợi cho cuộc đời, có những ảnh hưởng tốt đẹp cho sự sống. Nó làm cho con người trở nên hiền dịu, rộng rãi, thông cảm với đồng loại, với muôn vật, với cỏ cây, biết tôn trọng sự sống của tất cả, và không vì một lý do gì mà tàn sát sinh vật, cũng không vì một lý do gì mà giết hại đồng loại hay gây chiến tranh. Chỉ riêng mấy điểm ấy, đạo Phật cũng đáng để nhân loại cảm mến tôn sùng. GHI CHÚ: (1) Ánh
Đạo Vàng của Võ Đình Cường. Page 17
QUYỂN SÁU: TỪ BI TRONG ĐẠO PHẬT
Mặc dù
thường được mọi người nói đến hai chữ từ bi, nhưng không ít người đã hiểu một
cách sai lệch, chỉ theo quán tính của mình. Có người hiểu từ bi là một tình
thương nhỏ nhặt tầm thường nông cạn; có người hiểu từ bi là một tình thương
nhạt nhẽo, lãnh đạm, tiêu cực, thua xa "tình yêu" hay "bác
ái"; có người cho từ bi là một hình thức biến thể của "ích kỷ";
lại có người đi xa hơn cho từ bi là một danh từ trống rỗng là "vô
nghĩa". Vậy từ bi là thế nào? - Từ bi
trong đời đức giáo chủ Thích Ca Mâu Ni Phật. I.-
TỪ BI TRONG ĐỜI ĐỨC GIÁO CHỦ THÍCH CA MÂU NI "...
Ta không muốn làm một kẻ chinh chiến, tắm bánh xe trong máu đào của muôn bãi
chiến để rồi lưu lại cho hậu thế một kỷ niệm đỏ gớm ghê... Và ngài đã nói với tên giữ ngựa Xa Nặc như thế nào? "- Ngươi ạ, sẽ là một thứ tình yêu giả trá nếu ta chỉ ở bên cạnh những người thân để hưởng những lạc thú ích kỷ. Ta muốn đừng bịn rịn với Tổ quốc nhỏ hẹp này để được yêu vũ trụ rộng lớn..." (1) Và trên
con đường đi tìm đạo, đức Phật đã không từ một cử chỉ nhỏ nhặt nào của tình
thương. Trí không
bi là trí điêu xảo, Bi và trí
cần được trau dồi, phát triển đồng đều với nhau: trí làm cho bi sáng suốt, bi
làm cho trí thuần lương. Trí và Bi như hai bánh của một chiếc xe. Một trong hai
bánh rời ra là xe trút đổ. Tình thương ấy lại cần phải vô biên, không hạn cuộc.
Nếu còn thấy giới hạn của tình thương, thấy có người hay vật mình không thương
được, thấy có kẻ thù, thì chưa phải là từ bi. Cho nên trong pháp quán từ bi,
người ta thường luyện hai cách: hoặc mở rộng tình thương tuần tự đi từ những
người thân trong gia đình, cha mẹ, vợ con, dần dần đến thân thuộc, bạn bè, rồi
đến hàng xóm láng giềng, đến những người không thân, cuối cùng đến kẻ thù; và
phải tập thế nào cho đến khi mình thấy thương kẻ thù như người thân nhất mới
thôi; hoặc người ta trở ngược lại đi từ kẻ thù ghê gớm nhất dần dần đến kẻ thân
nhất; khi thấy không còn phân biệt giữa kẻ thù và người thân nhất mới
thôi. - Thế nếu họ lấy tay đánh hay lấy đá ném vào ông? - Bạch Thế Tôn! Con sẽ tự bảo: họ còn thương ta, vì họ không dùng gươm để đâm ta. - Nếu họ dùng gươm để đâm ông? - Bạch Thế Tôn! Con sẽ tự bảo: họ còn tốt, vì họ chưa đâm ta đến chết. - Nếu họ đâm ông đến chết? - Bạch Thế Tôn! Con sẽ tự bảo: họ đã giải thoát cho ta thoát khỏi cái thân vô thường, đau khổ. Chính đạo Phật đã có thái độ ấy trong lúc truyền đạo: người ta đánh đập thì mình chạy, nếu chạy không được thì đành chịu bị đánh hay bị giết. Do thái độ hiền hòa, bất bạo động, bất đề kháng ấy mà đạo Phật đã cảm hóa được nhân tâm, đã lan tràn mau lẹ trên thế giới. Phát xuất từ Ấn Độ, được sùng mộ trong khoảng gần mười thế kỷ ở đây rồi bị Bà La Môn lấy uy quyền hiếp đáp, xua đuổi, đạo Phật lẳng lặng ra khỏi Ấn Độ để du nhập những nước láng giềng. Sự hy sinh lớn lao của đạo Phật khi rời bỏ Ấn Độ, ra đi mà không chống cự lại, đã gây một ảnh hưởng vô cùng vĩ đại, chứng tỏ người Phật tử đã trung thành với giáo lý mà mình đã theo, với lời của Phật đã dạy. Cái truyền thống bất bạo động ấy chưa một lần nào bị vi phạm, mặc dù ở đâu và lúc nào. Xét như các xứ Tây Tạng, và nhất là Mông Cổ của Thành Cát Tư Hản xưa kia có tiếng là hung bạo, thế mà đạo Phật vẫn cảm phục được và biến đổi người dân ở những xứ đó thành hiền lương, thuần hậu. Cho đến ngày nay, chúng ta không lấy làm lạ khi thấy đạo Phật được gọi là đạo hòa bình và những phong trào hòa bình trên thế giới đều lấy đạo Phật làm nồng cốt, hay đều chịu ít nhiều ảnh hưởng của Phật giáo. Trong một hội nghị Phật giáo thế giới lần thứ III họp ở Nhật, hay lần thứ IV ở Népal, vấn đề hòa bình trong đạo Phật đã đươc nêu lên làm điểm chính cho cuộc thảo luận. Trong hội nghị văn hóa quốc tế họp ở Tân Đề Li năm 1956, Thủ tướng Nehru, người lãnh đạo khối Colombo, người chủ trương giải quyết mọi vấn đề quốc tế bằng giải pháp hòa bình, con người hòa giải vĩ đại ấy trong bài diễn văn khai mạc, đã tỏ ra rất hy vọng và tin tưởng ở năng lực Phật giáo trong công cuộc xây đắp một nền hòa bình vững chắc cho nhân loại. Phó Tổng Thống Ấn Độ Radhakrishnan, trong một cuộc mít tinh (ngày 23-11-1956) tại Tân Đề Li, đã tuyên bố trước sự hiện diện của hơn sáu mươi học giả danh tiếng trên thế giới: "Khoa học đã mang lại cho nhân loại nhiều quyền lực đến nỗi họ có thể tự phá hủy đời sống của mình. Cho nên có thể nói rằng, nếu không trồng cho mình những đức từ bi, bất bạo động, thì loài người hủy hoại tất cả. Hủy hoại hạnh phúc mình và chính bản thân mình nữa". Xem thế, chúng ta thấy từ bi của đạo Phật là một tình thương rộng mênh mông lan trải từ người đến vật, đến cỏ cây, rất bình đẳng, rất tích cực chứ không phải hạn cuộc, ích kỷ, tiêu cực, vô nghĩa như một số người đã lầm tưởng. Nó có những tác dụng quý báu thiết thực, ích lợi cho cuộc đời, có những ảnh hưởng tốt đẹp cho sự sống. Nó làm cho con người trở nên hiền dịu, rộng rãi, thông cảm với đồng loại, với muôn vật, với cỏ cây, biết tôn trọng sự sống của tất cả, và không vì một lý do gì mà tàn sát sinh vật, cũng không vì một lý do gì mà giết hại đồng loại hay gây chiến tranh. Chỉ riêng mấy điểm ấy, đạo Phật cũng đáng để nhân loại cảm mến tôn sùng. GHI CHÚ: (1) Ánh
Đạo Vàng của Võ Đình Cường. Page 18
QUYỂN SÁU: TỪ BI TRONG ĐẠO PHẬT
Mặc dù
thường được mọi người nói đến hai chữ từ bi, nhưng không ít người đã hiểu một
cách sai lệch, chỉ theo quán tính của mình. Có người hiểu từ bi là một tình
thương nhỏ nhặt tầm thường nông cạn; có người hiểu từ bi là một tình thương
nhạt nhẽo, lãnh đạm, tiêu cực, thua xa "tình yêu" hay "bác
ái"; có người cho từ bi là một hình thức biến thể của "ích kỷ";
lại có người đi xa hơn cho từ bi là một danh từ trống rỗng là "vô
nghĩa". Vậy từ bi là thế nào? - Từ bi
trong đời đức giáo chủ Thích Ca Mâu Ni Phật. I.-
TỪ BI TRONG ĐỜI ĐỨC GIÁO CHỦ THÍCH CA MÂU NI "...
Ta không muốn làm một kẻ chinh chiến, tắm bánh xe trong máu đào của muôn bãi
chiến để rồi lưu lại cho hậu thế một kỷ niệm đỏ gớm ghê... Và ngài đã nói với tên giữ ngựa Xa Nặc như thế nào? "- Ngươi ạ, sẽ là một thứ tình yêu giả trá nếu ta chỉ ở bên cạnh những người thân để hưởng những lạc thú ích kỷ. Ta muốn đừng bịn rịn với Tổ quốc nhỏ hẹp này để được yêu vũ trụ rộng lớn..." (1) Và trên
con đường đi tìm đạo, đức Phật đã không từ một cử chỉ nhỏ nhặt nào của tình
thương. Trí không
bi là trí điêu xảo, Bi và trí
cần được trau dồi, phát triển đồng đều với nhau: trí làm cho bi sáng suốt, bi
làm cho trí thuần lương. Trí và Bi như hai bánh của một chiếc xe. Một trong hai
bánh rời ra là xe trút đổ. Tình thương ấy lại cần phải vô biên, không hạn cuộc.
Nếu còn thấy giới hạn của tình thương, thấy có người hay vật mình không thương
được, thấy có kẻ thù, thì chưa phải là từ bi. Cho nên trong pháp quán từ bi,
người ta thường luyện hai cách: hoặc mở rộng tình thương tuần tự đi từ những
người thân trong gia đình, cha mẹ, vợ con, dần dần đến thân thuộc, bạn bè, rồi
đến hàng xóm láng giềng, đến những người không thân, cuối cùng đến kẻ thù; và
phải tập thế nào cho đến khi mình thấy thương kẻ thù như người thân nhất mới
thôi; hoặc người ta trở ngược lại đi từ kẻ thù ghê gớm nhất dần dần đến kẻ thân
nhất; khi thấy không còn phân biệt giữa kẻ thù và người thân nhất mới
thôi. - Thế nếu họ lấy tay đánh hay lấy đá ném vào ông? - Bạch Thế Tôn! Con sẽ tự bảo: họ còn thương ta, vì họ không dùng gươm để đâm ta. - Nếu họ dùng gươm để đâm ông? - Bạch Thế Tôn! Con sẽ tự bảo: họ còn tốt, vì họ chưa đâm ta đến chết. - Nếu họ đâm ông đến chết? - Bạch Thế Tôn! Con sẽ tự bảo: họ đã giải thoát cho ta thoát khỏi cái thân vô thường, đau khổ. Chính đạo Phật đã có thái độ ấy trong lúc truyền đạo: người ta đánh đập thì mình chạy, nếu chạy không được thì đành chịu bị đánh hay bị giết. Do thái độ hiền hòa, bất bạo động, bất đề kháng ấy mà đạo Phật đã cảm hóa được nhân tâm, đã lan tràn mau lẹ trên thế giới. Phát xuất từ Ấn Độ, được sùng mộ trong khoảng gần mười thế kỷ ở đây rồi bị Bà La Môn lấy uy quyền hiếp đáp, xua đuổi, đạo Phật lẳng lặng ra khỏi Ấn Độ để du nhập những nước láng giềng. Sự hy sinh lớn lao của đạo Phật khi rời bỏ Ấn Độ, ra đi mà không chống cự lại, đã gây một ảnh hưởng vô cùng vĩ đại, chứng tỏ người Phật tử đã trung thành với giáo lý mà mình đã theo, với lời của Phật đã dạy. Cái truyền thống bất bạo động ấy chưa một lần nào bị vi phạm, mặc dù ở đâu và lúc nào. Xét như các xứ Tây Tạng, và nhất là Mông Cổ của Thành Cát Tư Hản xưa kia có tiếng là hung bạo, thế mà đạo Phật vẫn cảm phục được và biến đổi người dân ở những xứ đó thành hiền lương, thuần hậu. Cho đến ngày nay, chúng ta không lấy làm lạ khi thấy đạo Phật được gọi là đạo hòa bình và những phong trào hòa bình trên thế giới đều lấy đạo Phật làm nồng cốt, hay đều chịu ít nhiều ảnh hưởng của Phật giáo. Trong một hội nghị Phật giáo thế giới lần thứ III họp ở Nhật, hay lần thứ IV ở Népal, vấn đề hòa bình trong đạo Phật đã đươc nêu lên làm điểm chính cho cuộc thảo luận. Trong hội nghị văn hóa quốc tế họp ở Tân Đề Li năm 1956, Thủ tướng Nehru, người lãnh đạo khối Colombo, người chủ trương giải quyết mọi vấn đề quốc tế bằng giải pháp hòa bình, con người hòa giải vĩ đại ấy trong bài diễn văn khai mạc, đã tỏ ra rất hy vọng và tin tưởng ở năng lực Phật giáo trong công cuộc xây đắp một nền hòa bình vững chắc cho nhân loại. Phó Tổng Thống Ấn Độ Radhakrishnan, trong một cuộc mít tinh (ngày 23-11-1956) tại Tân Đề Li, đã tuyên bố trước sự hiện diện của hơn sáu mươi học giả danh tiếng trên thế giới: "Khoa học đã mang lại cho nhân loại nhiều quyền lực đến nỗi họ có thể tự phá hủy đời sống của mình. Cho nên có thể nói rằng, nếu không trồng cho mình những đức từ bi, bất bạo động, thì loài người hủy hoại tất cả. Hủy hoại hạnh phúc mình và chính bản thân mình nữa". Xem thế, chúng ta thấy từ bi của đạo Phật là một tình thương rộng mênh mông lan trải từ người đến vật, đến cỏ cây, rất bình đẳng, rất tích cực chứ không phải hạn cuộc, ích kỷ, tiêu cực, vô nghĩa như một số người đã lầm tưởng. Nó có những tác dụng quý báu thiết thực, ích lợi cho cuộc đời, có những ảnh hưởng tốt đẹp cho sự sống. Nó làm cho con người trở nên hiền dịu, rộng rãi, thông cảm với đồng loại, với muôn vật, với cỏ cây, biết tôn trọng sự sống của tất cả, và không vì một lý do gì mà tàn sát sinh vật, cũng không vì một lý do gì mà giết hại đồng loại hay gây chiến tranh. Chỉ riêng mấy điểm ấy, đạo Phật cũng đáng để nhân loại cảm mến tôn sùng. GHI CHÚ: (1) Ánh
Đạo Vàng của Võ Đình Cường. Page 19
QUYỂN SÁU: TỪ BI TRONG ĐẠO PHẬT
Mặc dù
thường được mọi người nói đến hai chữ từ bi, nhưng không ít người đã hiểu một
cách sai lệch, chỉ theo quán tính của mình. Có người hiểu từ bi là một tình
thương nhỏ nhặt tầm thường nông cạn; có người hiểu từ bi là một tình thương
nhạt nhẽo, lãnh đạm, tiêu cực, thua xa "tình yêu" hay "bác
ái"; có người cho từ bi là một hình thức biến thể của "ích kỷ";
lại có người đi xa hơn cho từ bi là một danh từ trống rỗng là "vô
nghĩa". Vậy từ bi là thế nào? - Từ bi
trong đời đức giáo chủ Thích Ca Mâu Ni Phật. I.-
TỪ BI TRONG ĐỜI ĐỨC GIÁO CHỦ THÍCH CA MÂU NI "...
Ta không muốn làm một kẻ chinh chiến, tắm bánh xe trong máu đào của muôn bãi
chiến để rồi lưu lại cho hậu thế một kỷ niệm đỏ gớm ghê... Và ngài đã nói với tên giữ ngựa Xa Nặc như thế nào? "- Ngươi ạ, sẽ là một thứ tình yêu giả trá nếu ta chỉ ở bên cạnh những người thân để hưởng những lạc thú ích kỷ. Ta muốn đừng bịn rịn với Tổ quốc nhỏ hẹp này để được yêu vũ trụ rộng lớn..." (1) Và trên
con đường đi tìm đạo, đức Phật đã không từ một cử chỉ nhỏ nhặt nào của tình
thương. Trí không
bi là trí điêu xảo, Bi và trí
cần được trau dồi, phát triển đồng đều với nhau: trí làm cho bi sáng suốt, bi
làm cho trí thuần lương. Trí và Bi như hai bánh của một chiếc xe. Một trong hai
bánh rời ra là xe trút đổ. Tình thương ấy lại cần phải vô biên, không hạn cuộc.
Nếu còn thấy giới hạn của tình thương, thấy có người hay vật mình không thương
được, thấy có kẻ thù, thì chưa phải là từ bi. Cho nên trong pháp quán từ bi,
người ta thường luyện hai cách: hoặc mở rộng tình thương tuần tự đi từ những
người thân trong gia đình, cha mẹ, vợ con, dần dần đến thân thuộc, bạn bè, rồi
đến hàng xóm láng giềng, đến những người không thân, cuối cùng đến kẻ thù; và
phải tập thế nào cho đến khi mình thấy thương kẻ thù như người thân nhất mới
thôi; hoặc người ta trở ngược lại đi từ kẻ thù ghê gớm nhất dần dần đến kẻ thân
nhất; khi thấy không còn phân biệt giữa kẻ thù và người thân nhất mới
thôi. - Thế nếu họ lấy tay đánh hay lấy đá ném vào ông? - Bạch Thế Tôn! Con sẽ tự bảo: họ còn thương ta, vì họ không dùng gươm để đâm ta. - Nếu họ dùng gươm để đâm ông? - Bạch Thế Tôn! Con sẽ tự bảo: họ còn tốt, vì họ chưa đâm ta đến chết. - Nếu họ đâm ông đến chết? - Bạch Thế Tôn! Con sẽ tự bảo: họ đã giải thoát cho ta thoát khỏi cái thân vô thường, đau khổ. Chính đạo Phật đã có thái độ ấy trong lúc truyền đạo: người ta đánh đập thì mình chạy, nếu chạy không được thì đành chịu bị đánh hay bị giết. Do thái độ hiền hòa, bất bạo động, bất đề kháng ấy mà đạo Phật đã cảm hóa được nhân tâm, đã lan tràn mau lẹ trên thế giới. Phát xuất từ Ấn Độ, được sùng mộ trong khoảng gần mười thế kỷ ở đây rồi bị Bà La Môn lấy uy quyền hiếp đáp, xua đuổi, đạo Phật lẳng lặng ra khỏi Ấn Độ để du nhập những nước láng giềng. Sự hy sinh lớn lao của đạo Phật khi rời bỏ Ấn Độ, ra đi mà không chống cự lại, đã gây một ảnh hưởng vô cùng vĩ đại, chứng tỏ người Phật tử đã trung thành với giáo lý mà mình đã theo, với lời của Phật đã dạy. Cái truyền thống bất bạo động ấy chưa một lần nào bị vi phạm, mặc dù ở đâu và lúc nào. Xét như các xứ Tây Tạng, và nhất là Mông Cổ của Thành Cát Tư Hản xưa kia có tiếng là hung bạo, thế mà đạo Phật vẫn cảm phục được và biến đổi người dân ở những xứ đó thành hiền lương, thuần hậu. Cho đến ngày nay, chúng ta không lấy làm lạ khi thấy đạo Phật được gọi là đạo hòa bình và những phong trào hòa bình trên thế giới đều lấy đạo Phật làm nồng cốt, hay đều chịu ít nhiều ảnh hưởng của Phật giáo. Trong một hội nghị Phật giáo thế giới lần thứ III họp ở Nhật, hay lần thứ IV ở Népal, vấn đề hòa bình trong đạo Phật đã đươc nêu lên làm điểm chính cho cuộc thảo luận. Trong hội nghị văn hóa quốc tế họp ở Tân Đề Li năm 1956, Thủ tướng Nehru, người lãnh đạo khối Colombo, người chủ trương giải quyết mọi vấn đề quốc tế bằng giải pháp hòa bình, con người hòa giải vĩ đại ấy trong bài diễn văn khai mạc, đã tỏ ra rất hy vọng và tin tưởng ở năng lực Phật giáo trong công cuộc xây đắp một nền hòa bình vững chắc cho nhân loại. Phó Tổng Thống Ấn Độ Radhakrishnan, trong một cuộc mít tinh (ngày 23-11-1956) tại Tân Đề Li, đã tuyên bố trước sự hiện diện của hơn sáu mươi học giả danh tiếng trên thế giới: "Khoa học đã mang lại cho nhân loại nhiều quyền lực đến nỗi họ có thể tự phá hủy đời sống của mình. Cho nên có thể nói rằng, nếu không trồng cho mình những đức từ bi, bất bạo động, thì loài người hủy hoại tất cả. Hủy hoại hạnh phúc mình và chính bản thân mình nữa". Xem thế, chúng ta thấy từ bi của đạo Phật là một tình thương rộng mênh mông lan trải từ người đến vật, đến cỏ cây, rất bình đẳng, rất tích cực chứ không phải hạn cuộc, ích kỷ, tiêu cực, vô nghĩa như một số người đã lầm tưởng. Nó có những tác dụng quý báu thiết thực, ích lợi cho cuộc đời, có những ảnh hưởng tốt đẹp cho sự sống. Nó làm cho con người trở nên hiền dịu, rộng rãi, thông cảm với đồng loại, với muôn vật, với cỏ cây, biết tôn trọng sự sống của tất cả, và không vì một lý do gì mà tàn sát sinh vật, cũng không vì một lý do gì mà giết hại đồng loại hay gây chiến tranh. Chỉ riêng mấy điểm ấy, đạo Phật cũng đáng để nhân loại cảm mến tôn sùng. GHI CHÚ: (1) Ánh
Đạo Vàng của Võ Đình Cường. Page 20
QUYỂN SÁU: TỪ BI TRONG ĐẠO PHẬT
Mặc dù
thường được mọi người nói đến hai chữ từ bi, nhưng không ít người đã hiểu một
cách sai lệch, chỉ theo quán tính của mình. Có người hiểu từ bi là một tình
thương nhỏ nhặt tầm thường nông cạn; có người hiểu từ bi là một tình thương
nhạt nhẽo, lãnh đạm, tiêu cực, thua xa "tình yêu" hay "bác
ái"; có người cho từ bi là một hình thức biến thể của "ích kỷ";
lại có người đi xa hơn cho từ bi là một danh từ trống rỗng là "vô
nghĩa". Vậy từ bi là thế nào? - Từ bi
trong đời đức giáo chủ Thích Ca Mâu Ni Phật. I.-
TỪ BI TRONG ĐỜI ĐỨC GIÁO CHỦ THÍCH CA MÂU NI "...
Ta không muốn làm một kẻ chinh chiến, tắm bánh xe trong máu đào của muôn bãi
chiến để rồi lưu lại cho hậu thế một kỷ niệm đỏ gớm ghê... Và ngài đã nói với tên giữ ngựa Xa Nặc như thế nào? "- Ngươi ạ, sẽ là một thứ tình yêu giả trá nếu ta chỉ ở bên cạnh những người thân để hưởng những lạc thú ích kỷ. Ta muốn đừng bịn rịn với Tổ quốc nhỏ hẹp này để được yêu vũ trụ rộng lớn..." (1) Và trên
con đường đi tìm đạo, đức Phật đã không từ một cử chỉ nhỏ nhặt nào của tình
thương. Trí không
bi là trí điêu xảo, Bi và trí
cần được trau dồi, phát triển đồng đều với nhau: trí làm cho bi sáng suốt, bi
làm cho trí thuần lương. Trí và Bi như hai bánh của một chiếc xe. Một trong hai
bánh rời ra là xe trút đổ. Tình thương ấy lại cần phải vô biên, không hạn cuộc.
Nếu còn thấy giới hạn của tình thương, thấy có người hay vật mình không thương
được, thấy có kẻ thù, thì chưa phải là từ bi. Cho nên trong pháp quán từ bi,
người ta thường luyện hai cách: hoặc mở rộng tình thương tuần tự đi từ những
người thân trong gia đình, cha mẹ, vợ con, dần dần đến thân thuộc, bạn bè, rồi
đến hàng xóm láng giềng, đến những người không thân, cuối cùng đến kẻ thù; và
phải tập thế nào cho đến khi mình thấy thương kẻ thù như người thân nhất mới
thôi; hoặc người ta trở ngược lại đi từ kẻ thù ghê gớm nhất dần dần đến kẻ thân
nhất; khi thấy không còn phân biệt giữa kẻ thù và người thân nhất mới
thôi. - Thế nếu họ lấy tay đánh hay lấy đá ném vào ông? - Bạch Thế Tôn! Con sẽ tự bảo: họ còn thương ta, vì họ không dùng gươm để đâm ta. - Nếu họ dùng gươm để đâm ông? - Bạch Thế Tôn! Con sẽ tự bảo: họ còn tốt, vì họ chưa đâm ta đến chết. - Nếu họ đâm ông đến chết? - Bạch Thế Tôn! Con sẽ tự bảo: họ đã giải thoát cho ta thoát khỏi cái thân vô thường, đau khổ. Chính đạo Phật đã có thái độ ấy trong lúc truyền đạo: người ta đánh đập thì mình chạy, nếu chạy không được thì đành chịu bị đánh hay bị giết. Do thái độ hiền hòa, bất bạo động, bất đề kháng ấy mà đạo Phật đã cảm hóa được nhân tâm, đã lan tràn mau lẹ trên thế giới. Phát xuất từ Ấn Độ, được sùng mộ trong khoảng gần mười thế kỷ ở đây rồi bị Bà La Môn lấy uy quyền hiếp đáp, xua đuổi, đạo Phật lẳng lặng ra khỏi Ấn Độ để du nhập những nước láng giềng. Sự hy sinh lớn lao của đạo Phật khi rời bỏ Ấn Độ, ra đi mà không chống cự lại, đã gây một ảnh hưởng vô cùng vĩ đại, chứng tỏ người Phật tử đã trung thành với giáo lý mà mình đã theo, với lời của Phật đã dạy. Cái truyền thống bất bạo động ấy chưa một lần nào bị vi phạm, mặc dù ở đâu và lúc nào. Xét như các xứ Tây Tạng, và nhất là Mông Cổ của Thành Cát Tư Hản xưa kia có tiếng là hung bạo, thế mà đạo Phật vẫn cảm phục được và biến đổi người dân ở những xứ đó thành hiền lương, thuần hậu. Cho đến ngày nay, chúng ta không lấy làm lạ khi thấy đạo Phật được gọi là đạo hòa bình và những phong trào hòa bình trên thế giới đều lấy đạo Phật làm nồng cốt, hay đều chịu ít nhiều ảnh hưởng của Phật giáo. Trong một hội nghị Phật giáo thế giới lần thứ III họp ở Nhật, hay lần thứ IV ở Népal, vấn đề hòa bình trong đạo Phật đã đươc nêu lên làm điểm chính cho cuộc thảo luận. Trong hội nghị văn hóa quốc tế họp ở Tân Đề Li năm 1956, Thủ tướng Nehru, người lãnh đạo khối Colombo, người chủ trương giải quyết mọi vấn đề quốc tế bằng giải pháp hòa bình, con người hòa giải vĩ đại ấy trong bài diễn văn khai mạc, đã tỏ ra rất hy vọng và tin tưởng ở năng lực Phật giáo trong công cuộc xây đắp một nền hòa bình vững chắc cho nhân loại. Phó Tổng Thống Ấn Độ Radhakrishnan, trong một cuộc mít tinh (ngày 23-11-1956) tại Tân Đề Li, đã tuyên bố trước sự hiện diện của hơn sáu mươi học giả danh tiếng trên thế giới: "Khoa học đã mang lại cho nhân loại nhiều quyền lực đến nỗi họ có thể tự phá hủy đời sống của mình. Cho nên có thể nói rằng, nếu không trồng cho mình những đức từ bi, bất bạo động, thì loài người hủy hoại tất cả. Hủy hoại hạnh phúc mình và chính bản thân mình nữa". Xem thế, chúng ta thấy từ bi của đạo Phật là một tình thương rộng mênh mông lan trải từ người đến vật, đến cỏ cây, rất bình đẳng, rất tích cực chứ không phải hạn cuộc, ích kỷ, tiêu cực, vô nghĩa như một số người đã lầm tưởng. Nó có những tác dụng quý báu thiết thực, ích lợi cho cuộc đời, có những ảnh hưởng tốt đẹp cho sự sống. Nó làm cho con người trở nên hiền dịu, rộng rãi, thông cảm với đồng loại, với muôn vật, với cỏ cây, biết tôn trọng sự sống của tất cả, và không vì một lý do gì mà tàn sát sinh vật, cũng không vì một lý do gì mà giết hại đồng loại hay gây chiến tranh. Chỉ riêng mấy điểm ấy, đạo Phật cũng đáng để nhân loại cảm mến tôn sùng. GHI CHÚ: (1) Ánh
Đạo Vàng của Võ Đình Cường. Page 21
QUYỂN SÁU: TỪ BI TRONG ĐẠO PHẬT
Mặc dù
thường được mọi người nói đến hai chữ từ bi, nhưng không ít người đã hiểu một
cách sai lệch, chỉ theo quán tính của mình. Có người hiểu từ bi là một tình
thương nhỏ nhặt tầm thường nông cạn; có người hiểu từ bi là một tình thương
nhạt nhẽo, lãnh đạm, tiêu cực, thua xa "tình yêu" hay "bác
ái"; có người cho từ bi là một hình thức biến thể của "ích kỷ";
lại có người đi xa hơn cho từ bi là một danh từ trống rỗng là "vô
nghĩa". Vậy từ bi là thế nào? - Từ bi
trong đời đức giáo chủ Thích Ca Mâu Ni Phật. I.-
TỪ BI TRONG ĐỜI ĐỨC GIÁO CHỦ THÍCH CA MÂU NI "...
Ta không muốn làm một kẻ chinh chiến, tắm bánh xe trong máu đào của muôn bãi
chiến để rồi lưu lại cho hậu thế một kỷ niệm đỏ gớm ghê... Và ngài đã nói với tên giữ ngựa Xa Nặc như thế nào? "- Ngươi ạ, sẽ là một thứ tình yêu giả trá nếu ta chỉ ở bên cạnh những người thân để hưởng những lạc thú ích kỷ. Ta muốn đừng bịn rịn với Tổ quốc nhỏ hẹp này để được yêu vũ trụ rộng lớn..." (1) Và trên
con đường đi tìm đạo, đức Phật đã không từ một cử chỉ nhỏ nhặt nào của tình
thương. Trí không
bi là trí điêu xảo, Bi và trí
cần được trau dồi, phát triển đồng đều với nhau: trí làm cho bi sáng suốt, bi
làm cho trí thuần lương. Trí và Bi như hai bánh của một chiếc xe. Một trong hai
bánh rời ra là xe trút đổ. Tình thương ấy lại cần phải vô biên, không hạn cuộc.
Nếu còn thấy giới hạn của tình thương, thấy có người hay vật mình không thương
được, thấy có kẻ thù, thì chưa phải là từ bi. Cho nên trong pháp quán từ bi,
người ta thường luyện hai cách: hoặc mở rộng tình thương tuần tự đi từ những
người thân trong gia đình, cha mẹ, vợ con, dần dần đến thân thuộc, bạn bè, rồi
đến hàng xóm láng giềng, đến những người không thân, cuối cùng đến kẻ thù; và
phải tập thế nào cho đến khi mình thấy thương kẻ thù như người thân nhất mới
thôi; hoặc người ta trở ngược lại đi từ kẻ thù ghê gớm nhất dần dần đến kẻ thân
nhất; khi thấy không còn phân biệt giữa kẻ thù và người thân nhất mới
thôi. - Thế nếu họ lấy tay đánh hay lấy đá ném vào ông? - Bạch Thế Tôn! Con sẽ tự bảo: họ còn thương ta, vì họ không dùng gươm để đâm ta. - Nếu họ dùng gươm để đâm ông? - Bạch Thế Tôn! Con sẽ tự bảo: họ còn tốt, vì họ chưa đâm ta đến chết. - Nếu họ đâm ông đến chết? - Bạch Thế Tôn! Con sẽ tự bảo: họ đã giải thoát cho ta thoát khỏi cái thân vô thường, đau khổ. Chính đạo Phật đã có thái độ ấy trong lúc truyền đạo: người ta đánh đập thì mình chạy, nếu chạy không được thì đành chịu bị đánh hay bị giết. Do thái độ hiền hòa, bất bạo động, bất đề kháng ấy mà đạo Phật đã cảm hóa được nhân tâm, đã lan tràn mau lẹ trên thế giới. Phát xuất từ Ấn Độ, được sùng mộ trong khoảng gần mười thế kỷ ở đây rồi bị Bà La Môn lấy uy quyền hiếp đáp, xua đuổi, đạo Phật lẳng lặng ra khỏi Ấn Độ để du nhập những nước láng giềng. Sự hy sinh lớn lao của đạo Phật khi rời bỏ Ấn Độ, ra đi mà không chống cự lại, đã gây một ảnh hưởng vô cùng vĩ đại, chứng tỏ người Phật tử đã trung thành với giáo lý mà mình đã theo, với lời của Phật đã dạy. Cái truyền thống bất bạo động ấy chưa một lần nào bị vi phạm, mặc dù ở đâu và lúc nào. Xét như các xứ Tây Tạng, và nhất là Mông Cổ của Thành Cát Tư Hản xưa kia có tiếng là hung bạo, thế mà đạo Phật vẫn cảm phục được và biến đổi người dân ở những xứ đó thành hiền lương, thuần hậu. Cho đến ngày nay, chúng ta không lấy làm lạ khi thấy đạo Phật được gọi là đạo hòa bình và những phong trào hòa bình trên thế giới đều lấy đạo Phật làm nồng cốt, hay đều chịu ít nhiều ảnh hưởng của Phật giáo. Trong một hội nghị Phật giáo thế giới lần thứ III họp ở Nhật, hay lần thứ IV ở Népal, vấn đề hòa bình trong đạo Phật đã đươc nêu lên làm điểm chính cho cuộc thảo luận. Trong hội nghị văn hóa quốc tế họp ở Tân Đề Li năm 1956, Thủ tướng Nehru, người lãnh đạo khối Colombo, người chủ trương giải quyết mọi vấn đề quốc tế bằng giải pháp hòa bình, con người hòa giải vĩ đại ấy trong bài diễn văn khai mạc, đã tỏ ra rất hy vọng và tin tưởng ở năng lực Phật giáo trong công cuộc xây đắp một nền hòa bình vững chắc cho nhân loại. Phó Tổng Thống Ấn Độ Radhakrishnan, trong một cuộc mít tinh (ngày 23-11-1956) tại Tân Đề Li, đã tuyên bố trước sự hiện diện của hơn sáu mươi học giả danh tiếng trên thế giới: "Khoa học đã mang lại cho nhân loại nhiều quyền lực đến nỗi họ có thể tự phá hủy đời sống của mình. Cho nên có thể nói rằng, nếu không trồng cho mình những đức từ bi, bất bạo động, thì loài người hủy hoại tất cả. Hủy hoại hạnh phúc mình và chính bản thân mình nữa". Xem thế, chúng ta thấy từ bi của đạo Phật là một tình thương rộng mênh mông lan trải từ người đến vật, đến cỏ cây, rất bình đẳng, rất tích cực chứ không phải hạn cuộc, ích kỷ, tiêu cực, vô nghĩa như một số người đã lầm tưởng. Nó có những tác dụng quý báu thiết thực, ích lợi cho cuộc đời, có những ảnh hưởng tốt đẹp cho sự sống. Nó làm cho con người trở nên hiền dịu, rộng rãi, thông cảm với đồng loại, với muôn vật, với cỏ cây, biết tôn trọng sự sống của tất cả, và không vì một lý do gì mà tàn sát sinh vật, cũng không vì một lý do gì mà giết hại đồng loại hay gây chiến tranh. Chỉ riêng mấy điểm ấy, đạo Phật cũng đáng để nhân loại cảm mến tôn sùng. GHI CHÚ: (1) Ánh
Đạo Vàng của Võ Đình Cường. Page 22
QUYỂN SÁU: TỪ BI TRONG ĐẠO PHẬT
Mặc dù
thường được mọi người nói đến hai chữ từ bi, nhưng không ít người đã hiểu một
cách sai lệch, chỉ theo quán tính của mình. Có người hiểu từ bi là một tình
thương nhỏ nhặt tầm thường nông cạn; có người hiểu từ bi là một tình thương
nhạt nhẽo, lãnh đạm, tiêu cực, thua xa "tình yêu" hay "bác
ái"; có người cho từ bi là một hình thức biến thể của "ích kỷ";
lại có người đi xa hơn cho từ bi là một danh từ trống rỗng là "vô
nghĩa". Vậy từ bi là thế nào? - Từ bi
trong đời đức giáo chủ Thích Ca Mâu Ni Phật. I.-
TỪ BI TRONG ĐỜI ĐỨC GIÁO CHỦ THÍCH CA MÂU NI "...
Ta không muốn làm một kẻ chinh chiến, tắm bánh xe trong máu đào của muôn bãi
chiến để rồi lưu lại cho hậu thế một kỷ niệm đỏ gớm ghê... Và ngài đã nói với tên giữ ngựa Xa Nặc như thế nào? "- Ngươi ạ, sẽ là một thứ tình yêu giả trá nếu ta chỉ ở bên cạnh những người thân để hưởng những lạc thú ích kỷ. Ta muốn đừng bịn rịn với Tổ quốc nhỏ hẹp này để được yêu vũ trụ rộng lớn..." (1) Và trên
con đường đi tìm đạo, đức Phật đã không từ một cử chỉ nhỏ nhặt nào của tình
thương. Trí không
bi là trí điêu xảo, Bi và trí
cần được trau dồi, phát triển đồng đều với nhau: trí làm cho bi sáng suốt, bi
làm cho trí thuần lương. Trí và Bi như hai bánh của một chiếc xe. Một trong hai
bánh rời ra là xe trút đổ. Tình thương ấy lại cần phải vô biên, không hạn cuộc.
Nếu còn thấy giới hạn của tình thương, thấy có người hay vật mình không thương
được, thấy có kẻ thù, thì chưa phải là từ bi. Cho nên trong pháp quán từ bi,
người ta thường luyện hai cách: hoặc mở rộng tình thương tuần tự đi từ những
người thân trong gia đình, cha mẹ, vợ con, dần dần đến thân thuộc, bạn bè, rồi
đến hàng xóm láng giềng, đến những người không thân, cuối cùng đến kẻ thù; và
phải tập thế nào cho đến khi mình thấy thương kẻ thù như người thân nhất mới
thôi; hoặc người ta trở ngược lại đi từ kẻ thù ghê gớm nhất dần dần đến kẻ thân
nhất; khi thấy không còn phân biệt giữa kẻ thù và người thân nhất mới
thôi. - Thế nếu họ lấy tay đánh hay lấy đá ném vào ông? - Bạch Thế Tôn! Con sẽ tự bảo: họ còn thương ta, vì họ không dùng gươm để đâm ta. - Nếu họ dùng gươm để đâm ông? - Bạch Thế Tôn! Con sẽ tự bảo: họ còn tốt, vì họ chưa đâm ta đến chết. - Nếu họ đâm ông đến chết? - Bạch Thế Tôn! Con sẽ tự bảo: họ đã giải thoát cho ta thoát khỏi cái thân vô thường, đau khổ. Chính đạo Phật đã có thái độ ấy trong lúc truyền đạo: người ta đánh đập thì mình chạy, nếu chạy không được thì đành chịu bị đánh hay bị giết. Do thái độ hiền hòa, bất bạo động, bất đề kháng ấy mà đạo Phật đã cảm hóa được nhân tâm, đã lan tràn mau lẹ trên thế giới. Phát xuất từ Ấn Độ, được sùng mộ trong khoảng gần mười thế kỷ ở đây rồi bị Bà La Môn lấy uy quyền hiếp đáp, xua đuổi, đạo Phật lẳng lặng ra khỏi Ấn Độ để du nhập những nước láng giềng. Sự hy sinh lớn lao của đạo Phật khi rời bỏ Ấn Độ, ra đi mà không chống cự lại, đã gây một ảnh hưởng vô cùng vĩ đại, chứng tỏ người Phật tử đã trung thành với giáo lý mà mình đã theo, với lời của Phật đã dạy. Cái truyền thống bất bạo động ấy chưa một lần nào bị vi phạm, mặc dù ở đâu và lúc nào. Xét như các xứ Tây Tạng, và nhất là Mông Cổ của Thành Cát Tư Hản xưa kia có tiếng là hung bạo, thế mà đạo Phật vẫn cảm phục được và biến đổi người dân ở những xứ đó thành hiền lương, thuần hậu. Cho đến ngày nay, chúng ta không lấy làm lạ khi thấy đạo Phật được gọi là đạo hòa bình và những phong trào hòa bình trên thế giới đều lấy đạo Phật làm nồng cốt, hay đều chịu ít nhiều ảnh hưởng của Phật giáo. Trong một hội nghị Phật giáo thế giới lần thứ III họp ở Nhật, hay lần thứ IV ở Népal, vấn đề hòa bình trong đạo Phật đã đươc nêu lên làm điểm chính cho cuộc thảo luận. Trong hội nghị văn hóa quốc tế họp ở Tân Đề Li năm 1956, Thủ tướng Nehru, người lãnh đạo khối Colombo, người chủ trương giải quyết mọi vấn đề quốc tế bằng giải pháp hòa bình, con người hòa giải vĩ đại ấy trong bài diễn văn khai mạc, đã tỏ ra rất hy vọng và tin tưởng ở năng lực Phật giáo trong công cuộc xây đắp một nền hòa bình vững chắc cho nhân loại. Phó Tổng Thống Ấn Độ Radhakrishnan, trong một cuộc mít tinh (ngày 23-11-1956) tại Tân Đề Li, đã tuyên bố trước sự hiện diện của hơn sáu mươi học giả danh tiếng trên thế giới: "Khoa học đã mang lại cho nhân loại nhiều quyền lực đến nỗi họ có thể tự phá hủy đời sống của mình. Cho nên có thể nói rằng, nếu không trồng cho mình những đức từ bi, bất bạo động, thì loài người hủy hoại tất cả. Hủy hoại hạnh phúc mình và chính bản thân mình nữa". Xem thế, chúng ta thấy từ bi của đạo Phật là một tình thương rộng mênh mông lan trải từ người đến vật, đến cỏ cây, rất bình đẳng, rất tích cực chứ không phải hạn cuộc, ích kỷ, tiêu cực, vô nghĩa như một số người đã lầm tưởng. Nó có những tác dụng quý báu thiết thực, ích lợi cho cuộc đời, có những ảnh hưởng tốt đẹp cho sự sống. Nó làm cho con người trở nên hiền dịu, rộng rãi, thông cảm với đồng loại, với muôn vật, với cỏ cây, biết tôn trọng sự sống của tất cả, và không vì một lý do gì mà tàn sát sinh vật, cũng không vì một lý do gì mà giết hại đồng loại hay gây chiến tranh. Chỉ riêng mấy điểm ấy, đạo Phật cũng đáng để nhân loại cảm mến tôn sùng. GHI CHÚ: (1) Ánh
Đạo Vàng của Võ Đình Cường. Page 23
QUYỂN SÁU: TỪ BI TRONG ĐẠO PHẬT
Mặc dù
thường được mọi người nói đến hai chữ từ bi, nhưng không ít người đã hiểu một
cách sai lệch, chỉ theo quán tính của mình. Có người hiểu từ bi là một tình
thương nhỏ nhặt tầm thường nông cạn; có người hiểu từ bi là một tình thương
nhạt nhẽo, lãnh đạm, tiêu cực, thua xa "tình yêu" hay "bác
ái"; có người cho từ bi là một hình thức biến thể của "ích kỷ";
lại có người đi xa hơn cho từ bi là một danh từ trống rỗng là "vô
nghĩa". Vậy từ bi là thế nào? - Từ bi
trong đời đức giáo chủ Thích Ca Mâu Ni Phật. I.-
TỪ BI TRONG ĐỜI ĐỨC GIÁO CHỦ THÍCH CA MÂU NI "...
Ta không muốn làm một kẻ chinh chiến, tắm bánh xe trong máu đào của muôn bãi
chiến để rồi lưu lại cho hậu thế một kỷ niệm đỏ gớm ghê... Và ngài đã nói với tên giữ ngựa Xa Nặc như thế nào? "- Ngươi ạ, sẽ là một thứ tình yêu giả trá nếu ta chỉ ở bên cạnh những người thân để hưởng những lạc thú ích kỷ. Ta muốn đừng bịn rịn với Tổ quốc nhỏ hẹp này để được yêu vũ trụ rộng lớn..." (1) Và trên
con đường đi tìm đạo, đức Phật đã không từ một cử chỉ nhỏ nhặt nào của tình
thương. Trí không
bi là trí điêu xảo, Bi và trí
cần được trau dồi, phát triển đồng đều với nhau: trí làm cho bi sáng suốt, bi
làm cho trí thuần lương. Trí và Bi như hai bánh của một chiếc xe. Một trong hai
bánh rời ra là xe trút đổ. Tình thương ấy lại cần phải vô biên, không hạn cuộc.
Nếu còn thấy giới hạn của tình thương, thấy có người hay vật mình không thương
được, thấy có kẻ thù, thì chưa phải là từ bi. Cho nên trong pháp quán từ bi,
người ta thường luyện hai cách: hoặc mở rộng tình thương tuần tự đi từ những
người thân trong gia đình, cha mẹ, vợ con, dần dần đến thân thuộc, bạn bè, rồi
đến hàng xóm láng giềng, đến những người không thân, cuối cùng đến kẻ thù; và
phải tập thế nào cho đến khi mình thấy thương kẻ thù như người thân nhất mới
thôi; hoặc người ta trở ngược lại đi từ kẻ thù ghê gớm nhất dần dần đến kẻ thân
nhất; khi thấy không còn phân biệt giữa kẻ thù và người thân nhất mới
thôi. - Thế nếu họ lấy tay đánh hay lấy đá ném vào ông? - Bạch Thế Tôn! Con sẽ tự bảo: họ còn thương ta, vì họ không dùng gươm để đâm ta. - Nếu họ dùng gươm để đâm ông? - Bạch Thế Tôn! Con sẽ tự bảo: họ còn tốt, vì họ chưa đâm ta đến chết. - Nếu họ đâm ông đến chết? - Bạch Thế Tôn! Con sẽ tự bảo: họ đã giải thoát cho ta thoát khỏi cái thân vô thường, đau khổ. Chính đạo Phật đã có thái độ ấy trong lúc truyền đạo: người ta đánh đập thì mình chạy, nếu chạy không được thì đành chịu bị đánh hay bị giết. Do thái độ hiền hòa, bất bạo động, bất đề kháng ấy mà đạo Phật đã cảm hóa được nhân tâm, đã lan tràn mau lẹ trên thế giới. Phát xuất từ Ấn Độ, được sùng mộ trong khoảng gần mười thế kỷ ở đây rồi bị Bà La Môn lấy uy quyền hiếp đáp, xua đuổi, đạo Phật lẳng lặng ra khỏi Ấn Độ để du nhập những nước láng giềng. Sự hy sinh lớn lao của đạo Phật khi rời bỏ Ấn Độ, ra đi mà không chống cự lại, đã gây một ảnh hưởng vô cùng vĩ đại, chứng tỏ người Phật tử đã trung thành với giáo lý mà mình đã theo, với lời của Phật đã dạy. Cái truyền thống bất bạo động ấy chưa một lần nào bị vi phạm, mặc dù ở đâu và lúc nào. Xét như các xứ Tây Tạng, và nhất là Mông Cổ của Thành Cát Tư Hản xưa kia có tiếng là hung bạo, thế mà đạo Phật vẫn cảm phục được và biến đổi người dân ở những xứ đó thành hiền lương, thuần hậu. Cho đến ngày nay, chúng ta không lấy làm lạ khi thấy đạo Phật được gọi là đạo hòa bình và những phong trào hòa bình trên thế giới đều lấy đạo Phật làm nồng cốt, hay đều chịu ít nhiều ảnh hưởng của Phật giáo. Trong một hội nghị Phật giáo thế giới lần thứ III họp ở Nhật, hay lần thứ IV ở Népal, vấn đề hòa bình trong đạo Phật đã đươc nêu lên làm điểm chính cho cuộc thảo luận. Trong hội nghị văn hóa quốc tế họp ở Tân Đề Li năm 1956, Thủ tướng Nehru, người lãnh đạo khối Colombo, người chủ trương giải quyết mọi vấn đề quốc tế bằng giải pháp hòa bình, con người hòa giải vĩ đại ấy trong bài diễn văn khai mạc, đã tỏ ra rất hy vọng và tin tưởng ở năng lực Phật giáo trong công cuộc xây đắp một nền hòa bình vững chắc cho nhân loại. Phó Tổng Thống Ấn Độ Radhakrishnan, trong một cuộc mít tinh (ngày 23-11-1956) tại Tân Đề Li, đã tuyên bố trước sự hiện diện của hơn sáu mươi học giả danh tiếng trên thế giới: "Khoa học đã mang lại cho nhân loại nhiều quyền lực đến nỗi họ có thể tự phá hủy đời sống của mình. Cho nên có thể nói rằng, nếu không trồng cho mình những đức từ bi, bất bạo động, thì loài người hủy hoại tất cả. Hủy hoại hạnh phúc mình và chính bản thân mình nữa". Xem thế, chúng ta thấy từ bi của đạo Phật là một tình thương rộng mênh mông lan trải từ người đến vật, đến cỏ cây, rất bình đẳng, rất tích cực chứ không phải hạn cuộc, ích kỷ, tiêu cực, vô nghĩa như một số người đã lầm tưởng. Nó có những tác dụng quý báu thiết thực, ích lợi cho cuộc đời, có những ảnh hưởng tốt đẹp cho sự sống. Nó làm cho con người trở nên hiền dịu, rộng rãi, thông cảm với đồng loại, với muôn vật, với cỏ cây, biết tôn trọng sự sống của tất cả, và không vì một lý do gì mà tàn sát sinh vật, cũng không vì một lý do gì mà giết hại đồng loại hay gây chiến tranh. Chỉ riêng mấy điểm ấy, đạo Phật cũng đáng để nhân loại cảm mến tôn sùng. GHI CHÚ: (1) Ánh
Đạo Vàng của Võ Đình Cường. Page 24
QUYỂN SÁU: TỪ BI TRONG ĐẠO PHẬT
Mặc dù
thường được mọi người nói đến hai chữ từ bi, nhưng không ít người đã hiểu một
cách sai lệch, chỉ theo quán tính của mình. Có người hiểu từ bi là một tình
thương nhỏ nhặt tầm thường nông cạn; có người hiểu từ bi là một tình thương
nhạt nhẽo, lãnh đạm, tiêu cực, thua xa "tình yêu" hay "bác
ái"; có người cho từ bi là một hình thức biến thể của "ích kỷ";
lại có người đi xa hơn cho từ bi là một danh từ trống rỗng là "vô
nghĩa". Vậy từ bi là thế nào? - Từ bi
trong đời đức giáo chủ Thích Ca Mâu Ni Phật. I.-
TỪ BI TRONG ĐỜI ĐỨC GIÁO CHỦ THÍCH CA MÂU NI "...
Ta không muốn làm một kẻ chinh chiến, tắm bánh xe trong máu đào của muôn bãi
chiến để rồi lưu lại cho hậu thế một kỷ niệm đỏ gớm ghê... Và ngài đã nói với tên giữ ngựa Xa Nặc như thế nào? "- Ngươi ạ, sẽ là một thứ tình yêu giả trá nếu ta chỉ ở bên cạnh những người thân để hưởng những lạc thú ích kỷ. Ta muốn đừng bịn rịn với Tổ quốc nhỏ hẹp này để được yêu vũ trụ rộng lớn..." (1) Và trên
con đường đi tìm đạo, đức Phật đã không từ một cử chỉ nhỏ nhặt nào của tình
thương. Trí không
bi là trí điêu xảo, Bi và trí
cần được trau dồi, phát triển đồng đều với nhau: trí làm cho bi sáng suốt, bi
làm cho trí thuần lương. Trí và Bi như hai bánh của một chiếc xe. Một trong hai
bánh rời ra là xe trút đổ. Tình thương ấy lại cần phải vô biên, không hạn cuộc.
Nếu còn thấy giới hạn của tình thương, thấy có người hay vật mình không thương
được, thấy có kẻ thù, thì chưa phải là từ bi. Cho nên trong pháp quán từ bi,
người ta thường luyện hai cách: hoặc mở rộng tình thương tuần tự đi từ những
người thân trong gia đình, cha mẹ, vợ con, dần dần đến thân thuộc, bạn bè, rồi
đến hàng xóm láng giềng, đến những người không thân, cuối cùng đến kẻ thù; và
phải tập thế nào cho đến khi mình thấy thương kẻ thù như người thân nhất mới
thôi; hoặc người ta trở ngược lại đi từ kẻ thù ghê gớm nhất dần dần đến kẻ thân
nhất; khi thấy không còn phân biệt giữa kẻ thù và người thân nhất mới
thôi. - Thế nếu họ lấy tay đánh hay lấy đá ném vào ông? - Bạch Thế Tôn! Con sẽ tự bảo: họ còn thương ta, vì họ không dùng gươm để đâm ta. - Nếu họ dùng gươm để đâm ông? - Bạch Thế Tôn! Con sẽ tự bảo: họ còn tốt, vì họ chưa đâm ta đến chết. - Nếu họ đâm ông đến chết? - Bạch Thế Tôn! Con sẽ tự bảo: họ đã giải thoát cho ta thoát khỏi cái thân vô thường, đau khổ. Chính đạo Phật đã có thái độ ấy trong lúc truyền đạo: người ta đánh đập thì mình chạy, nếu chạy không được thì đành chịu bị đánh hay bị giết. Do thái độ hiền hòa, bất bạo động, bất đề kháng ấy mà đạo Phật đã cảm hóa được nhân tâm, đã lan tràn mau lẹ trên thế giới. Phát xuất từ Ấn Độ, được sùng mộ trong khoảng gần mười thế kỷ ở đây rồi bị Bà La Môn lấy uy quyền hiếp đáp, xua đuổi, đạo Phật lẳng lặng ra khỏi Ấn Độ để du nhập những nước láng giềng. Sự hy sinh lớn lao của đạo Phật khi rời bỏ Ấn Độ, ra đi mà không chống cự lại, đã gây một ảnh hưởng vô cùng vĩ đại, chứng tỏ người Phật tử đã trung thành với giáo lý mà mình đã theo, với lời của Phật đã dạy. Cái truyền thống bất bạo động ấy chưa một lần nào bị vi phạm, mặc dù ở đâu và lúc nào. Xét như các xứ Tây Tạng, và nhất là Mông Cổ của Thành Cát Tư Hản xưa kia có tiếng là hung bạo, thế mà đạo Phật vẫn cảm phục được và biến đổi người dân ở những xứ đó thành hiền lương, thuần hậu. Cho đến ngày nay, chúng ta không lấy làm lạ khi thấy đạo Phật được gọi là đạo hòa bình và những phong trào hòa bình trên thế giới đều lấy đạo Phật làm nồng cốt, hay đều chịu ít nhiều ảnh hưởng của Phật giáo. Trong một hội nghị Phật giáo thế giới lần thứ III họp ở Nhật, hay lần thứ IV ở Népal, vấn đề hòa bình trong đạo Phật đã đươc nêu lên làm điểm chính cho cuộc thảo luận. Trong hội nghị văn hóa quốc tế họp ở Tân Đề Li năm 1956, Thủ tướng Nehru, người lãnh đạo khối Colombo, người chủ trương giải quyết mọi vấn đề quốc tế bằng giải pháp hòa bình, con người hòa giải vĩ đại ấy trong bài diễn văn khai mạc, đã tỏ ra rất hy vọng và tin tưởng ở năng lực Phật giáo trong công cuộc xây đắp một nền hòa bình vững chắc cho nhân loại. Phó Tổng Thống Ấn Độ Radhakrishnan, trong một cuộc mít tinh (ngày 23-11-1956) tại Tân Đề Li, đã tuyên bố trước sự hiện diện của hơn sáu mươi học giả danh tiếng trên thế giới: "Khoa học đã mang lại cho nhân loại nhiều quyền lực đến nỗi họ có thể tự phá hủy đời sống của mình. Cho nên có thể nói rằng, nếu không trồng cho mình những đức từ bi, bất bạo động, thì loài người hủy hoại tất cả. Hủy hoại hạnh phúc mình và chính bản thân mình nữa". Xem thế, chúng ta thấy từ bi của đạo Phật là một tình thương rộng mênh mông lan trải từ người đến vật, đến cỏ cây, rất bình đẳng, rất tích cực chứ không phải hạn cuộc, ích kỷ, tiêu cực, vô nghĩa như một số người đã lầm tưởng. Nó có những tác dụng quý báu thiết thực, ích lợi cho cuộc đời, có những ảnh hưởng tốt đẹp cho sự sống. Nó làm cho con người trở nên hiền dịu, rộng rãi, thông cảm với đồng loại, với muôn vật, với cỏ cây, biết tôn trọng sự sống của tất cả, và không vì một lý do gì mà tàn sát sinh vật, cũng không vì một lý do gì mà giết hại đồng loại hay gây chiến tranh. Chỉ riêng mấy điểm ấy, đạo Phật cũng đáng để nhân loại cảm mến tôn sùng. GHI CHÚ: (1) Ánh
Đạo Vàng của Võ Đình Cường. Page 25
QUYỂN SÁU: TỪ BI TRONG ĐẠO PHẬT
Mặc dù
thường được mọi người nói đến hai chữ từ bi, nhưng không ít người đã hiểu một
cách sai lệch, chỉ theo quán tính của mình. Có người hiểu từ bi là một tình
thương nhỏ nhặt tầm thường nông cạn; có người hiểu từ bi là một tình thương
nhạt nhẽo, lãnh đạm, tiêu cực, thua xa "tình yêu" hay "bác
ái"; có người cho từ bi là một hình thức biến thể của "ích kỷ";
lại có người đi xa hơn cho từ bi là một danh từ trống rỗng là "vô
nghĩa". Vậy từ bi là thế nào? - Từ bi
trong đời đức giáo chủ Thích Ca Mâu Ni Phật. I.-
TỪ BI TRONG ĐỜI ĐỨC GIÁO CHỦ THÍCH CA MÂU NI "...
Ta không muốn làm một kẻ chinh chiến, tắm bánh xe trong máu đào của muôn bãi
chiến để rồi lưu lại cho hậu thế một kỷ niệm đỏ gớm ghê... Và ngài đã nói với tên giữ ngựa Xa Nặc như thế nào? "- Ngươi ạ, sẽ là một thứ tình yêu giả trá nếu ta chỉ ở bên cạnh những người thân để hưởng những lạc thú ích kỷ. Ta muốn đừng bịn rịn với Tổ quốc nhỏ hẹp này để được yêu vũ trụ rộng lớn..." (1) Và trên
con đường đi tìm đạo, đức Phật đã không từ một cử chỉ nhỏ nhặt nào của tình
thương. Trí không
bi là trí điêu xảo, Bi và trí
cần được trau dồi, phát triển đồng đều với nhau: trí làm cho bi sáng suốt, bi
làm cho trí thuần lương. Trí và Bi như hai bánh của một chiếc xe. Một trong hai
bánh rời ra là xe trút đổ. Tình thương ấy lại cần phải vô biên, không hạn cuộc.
Nếu còn thấy giới hạn của tình thương, thấy có người hay vật mình không thương
được, thấy có kẻ thù, thì chưa phải là từ bi. Cho nên trong pháp quán từ bi,
người ta thường luyện hai cách: hoặc mở rộng tình thương tuần tự đi từ những
người thân trong gia đình, cha mẹ, vợ con, dần dần đến thân thuộc, bạn bè, rồi
đến hàng xóm láng giềng, đến những người không thân, cuối cùng đến kẻ thù; và
phải tập thế nào cho đến khi mình thấy thương kẻ thù như người thân nhất mới
thôi; hoặc người ta trở ngược lại đi từ kẻ thù ghê gớm nhất dần dần đến kẻ thân
nhất; khi thấy không còn phân biệt giữa kẻ thù và người thân nhất mới
thôi. - Thế nếu họ lấy tay đánh hay lấy đá ném vào ông? - Bạch Thế Tôn! Con sẽ tự bảo: họ còn thương ta, vì họ không dùng gươm để đâm ta. - Nếu họ dùng gươm để đâm ông? - Bạch Thế Tôn! Con sẽ tự bảo: họ còn tốt, vì họ chưa đâm ta đến chết. - Nếu họ đâm ông đến chết? - Bạch Thế Tôn! Con sẽ tự bảo: họ đã giải thoát cho ta thoát khỏi cái thân vô thường, đau khổ. Chính đạo Phật đã có thái độ ấy trong lúc truyền đạo: người ta đánh đập thì mình chạy, nếu chạy không được thì đành chịu bị đánh hay bị giết. Do thái độ hiền hòa, bất bạo động, bất đề kháng ấy mà đạo Phật đã cảm hóa được nhân tâm, đã lan tràn mau lẹ trên thế giới. Phát xuất từ Ấn Độ, được sùng mộ trong khoảng gần mười thế kỷ ở đây rồi bị Bà La Môn lấy uy quyền hiếp đáp, xua đuổi, đạo Phật lẳng lặng ra khỏi Ấn Độ để du nhập những nước láng giềng. Sự hy sinh lớn lao của đạo Phật khi rời bỏ Ấn Độ, ra đi mà không chống cự lại, đã gây một ảnh hưởng vô cùng vĩ đại, chứng tỏ người Phật tử đã trung thành với giáo lý mà mình đã theo, với lời của Phật đã dạy. Cái truyền thống bất bạo động ấy chưa một lần nào bị vi phạm, mặc dù ở đâu và lúc nào. Xét như các xứ Tây Tạng, và nhất là Mông Cổ của Thành Cát Tư Hản xưa kia có tiếng là hung bạo, thế mà đạo Phật vẫn cảm phục được và biến đổi người dân ở những xứ đó thành hiền lương, thuần hậu. Cho đến ngày nay, chúng ta không lấy làm lạ khi thấy đạo Phật được gọi là đạo hòa bình và những phong trào hòa bình trên thế giới đều lấy đạo Phật làm nồng cốt, hay đều chịu ít nhiều ảnh hưởng của Phật giáo. Trong một hội nghị Phật giáo thế giới lần thứ III họp ở Nhật, hay lần thứ IV ở Népal, vấn đề hòa bình trong đạo Phật đã đươc nêu lên làm điểm chính cho cuộc thảo luận. Trong hội nghị văn hóa quốc tế họp ở Tân Đề Li năm 1956, Thủ tướng Nehru, người lãnh đạo khối Colombo, người chủ trương giải quyết mọi vấn đề quốc tế bằng giải pháp hòa bình, con người hòa giải vĩ đại ấy trong bài diễn văn khai mạc, đã tỏ ra rất hy vọng và tin tưởng ở năng lực Phật giáo trong công cuộc xây đắp một nền hòa bình vững chắc cho nhân loại. Phó Tổng Thống Ấn Độ Radhakrishnan, trong một cuộc mít tinh (ngày 23-11-1956) tại Tân Đề Li, đã tuyên bố trước sự hiện diện của hơn sáu mươi học giả danh tiếng trên thế giới: "Khoa học đã mang lại cho nhân loại nhiều quyền lực đến nỗi họ có thể tự phá hủy đời sống của mình. Cho nên có thể nói rằng, nếu không trồng cho mình những đức từ bi, bất bạo động, thì loài người hủy hoại tất cả. Hủy hoại hạnh phúc mình và chính bản thân mình nữa". Xem thế, chúng ta thấy từ bi của đạo Phật là một tình thương rộng mênh mông lan trải từ người đến vật, đến cỏ cây, rất bình đẳng, rất tích cực chứ không phải hạn cuộc, ích kỷ, tiêu cực, vô nghĩa như một số người đã lầm tưởng. Nó có những tác dụng quý báu thiết thực, ích lợi cho cuộc đời, có những ảnh hưởng tốt đẹp cho sự sống. Nó làm cho con người trở nên hiền dịu, rộng rãi, thông cảm với đồng loại, với muôn vật, với cỏ cây, biết tôn trọng sự sống của tất cả, và không vì một lý do gì mà tàn sát sinh vật, cũng không vì một lý do gì mà giết hại đồng loại hay gây chiến tranh. Chỉ riêng mấy điểm ấy, đạo Phật cũng đáng để nhân loại cảm mến tôn sùng. GHI CHÚ: (1) Ánh
Đạo Vàng của Võ Đình Cường. Page 26
QUYỂN BẢY: CHỮ "HÒA" CỦA ĐẠO PHẬT
I.- CĂN BẢN CỦA CHỮ HÒA TRONG ĐẠO PHẬT Chữ
"Hòa" trong đạo Phật không phải là một danh từ suông, cũng không phải
là một lời khuyên có tánh cách luân lý. Trái lại, nó có một nội dung rất dồi
dào, dựa trên một căn bản triết lý rất vững chắc và sâu rộng. II.- LỤC HÒA Lục hòa là
sáu phương pháp cư xử với nhau cho hòa hợp từ vật chất đến tinh thần, từ lời
nói đến việc làm, từ trên xuống dưới, từ ngoài vào trong. Hòa ở đây không phải
là thứ hòa thụ động, tiêu cực, lép vế, một chiều của kẻ yếu trước kẻ mạnh! Cũng
không phải là cái hòa nhu nhược, lười biếng, ai nói quấy cũng ừ, nói sai cũng
gật để cho qua chuyện. III.- NẾU ÁP DỤNG ĐƯỢC PHÁP LỤC HÒA TRONG ĐỜI SỐNG TẬP THỂ CỦA CÁC GIỚI TRONG XÃ HỘI THÌ LỢI ÍCH SẼ VÔ CÙNG LỚN LAO Pháp Lục
Hòa nói trên, từ trước đến nay chỉ áp dụng trong giới Tăng già mà thôi. Cái lợi
ích, kết quả quý báu của nó, chúng ta đã thấy rõ trong các tu viện Phật giáo,
trong các Phật học đường, trong các chùa có đông tu sĩ. 2.- Học đường, Ký túc xá: Học đường hay ký túc xá là nơi tập hợp nhiều nam nữ thanh thiếu niên nhất. Ở những nơi đó, người ta thường ca tụng là tinh thần bình đẳng được phổ biến một cách rộng rãi nhất. Con ông quan lớn và con người dân cày đều được đối đãi ngang nhau; con nhà đại phú và con người làm công đều có thể kề vai sát cánh trong mọi sinh họat hàng ngày. Tuy thế, ở những nơi ấy, sự xung đột, sự xích mích, cãi lẫy cũng thường xảy ra ngày một, vì những lý do sau đây: - Hoặc vì sinh lực dồi dào, nên thích đấm đá, hoặc ỷ mạnh hiếp yếu, ỷ thế hiếp cô, đôi khi lại kết đoàn, kết lũ, chia phe chia cánh để thanh toán nhau. Nếu ở những nơi ấy, người ta triệt để tôn trọng điều thứ nhất của Lục Hòa là "thân hòa đồng trụ", nhất thiết không bao giờ dùng vũ lực đối với nhau, thì sẽ tránh được không biết bao nhiêu cái u đầu, vỡ trán, gãy tay, gãy chân, rách áo, rách quần... - Hoặc vì lời nói cộc cằn, dối trá, đâm thọc, hai lưỡi mà thường xảy ra lắm điều xích mích, bất hòa. Nếu điều thứ hai của Lục Hòa là "khẩu hòa vô tránh" được áp dụng triệt để ở các nơi này, thì không khí hòa vui được thực hiện một phần lớn. - Hoặc vì ý, tình thiếu đẹp đẽ, người ta để cho tham giạn, kiêu căng, nghi ngờ được tự do phát triển, người ta không kềm hãm những ý nghĩ đen tối, xấu xa của mình, nên đã làm cho không khí chung bị ung độc, hòa khí bị tan vỡ. Nếu người ta triệt để tuân theo điều thứ ba của Lục Hòa là "ý hòa đồng duyệt", thì quá nửa những sự xung đột sẽ bị dập tắt, vì nhiều khi những lời lẽ bất hòa, những cuộc đấm đá đã xảy ra, nguyên nhân chính cũng tại ý không hòa trước. - Hoặc vì kỷ luật chung không được tôn trọng, người tuân theo người không, ai muốn làm gì cứ làm, trong giờ học người học, người chơi, kẻ vào kẻ ra, mạnh ai nấy nói v.v... Kỷ luật là một điều vô cùng quan trọng, nhất là ở học đường. Nếu ở nơi này mà vô kỷ luật, thì sự học hành sẽ không đi đến đâu cả. Cho nên điều thứ tư của Lục Hòa là "giới hòa đồng tu" nhất thiết phải được thi hành trước nhất ở học đường và ký túc xá. - Hoặc vì trong một lớp học, kiến thức, sức học không đồng đều, kẻ giỏi quá, người kém quá, nên sinh ra xung đột, người giỏi khinh kẻ dốt, người kém ganh ghét kẻ giỏi; trong lớp sinh ra có sự chia rẽ, phe cánh: gọc giỏi chơi với nhau, kẻ kém về hùa với nhau. Để thanh toán vấn đề kiến thức chênh lệch nói trên, học đường cần phải áp dụng điều thứ năm của Lục Hòa là "kiến hòa đồng giải". Không những nhà trường có nhiệm vụ chọn lựa sức học của học sinh đừng quá chênh lệch, mà những học sinh giỏi trong lớp cũng cần nâng đỡ những bạn kém, bằng cách giảng lại những bài học khó, hướng dẫn những bài gay go. Người ta thường bảo: "Học thầy không tày học bạn" là thế. Học sinh với nhau, hiểu biết trình độ, tâm lý, tánh tình, thắc mắc của nhau hơn, nên dễ thông cảm và dễ đả phá những chướng ngại trên đường học vấn hơn. Vì những lý do trên, nên ngày nay có nhiều nơi, người ta áp dụng lối học tập thể: người ta chia ra từng nhóm bốn năm người, trong ấy có kẻ giỏi kẻ kém học chung với nhau, và kết quả thu được rất là khả quan. Hoặc vì tài lợi, vật thực không được phân chia đồng đều, ai có gì thì giữ lấy một mình mà hưởng thụ, chứ không chia sớt cho những người thiếu thốn hơn mình. Vẫn biết trong một học đường hay ký túc xá, nếu một người nào được hưởng thụ một vật thực hay tài lợi gì của gia quyến, thân thuộc đem đến cho, cũng khó mà phân chia đủ cho mọi người; nhưng trong một phạm vi tương đối, ai cấm chúng ta phân chia cho những người bạn ở gần chung quanh ta? Sự phân chia ấy là một cử chỉ tốt đẹp, chứng tỏ lòng rộng rãi, tính hoan hỷ, lòng quý trọng bạn bè của mình. Những tánh tình tốt đẹp ấy rất dễ gây thiện cảm với mọi người cùng chung sống với nhau. Một học đường hay ký túc xá nào có thể áp dụng được điều thứ sáu của Lục Hòa là "lợi hòa đồng quân", nghĩa là học sinh không được có của riêng; mỗi khi có ai đem một vật dụng hay vật thực gì, thì trướng sẽ giữ lấy làm của chung, hay nếu có thể phân phát được, thì phân phát đồng đều, nếu không phân chia đủ được thì dùng hình thức xổ số, hay hình thức khuyến khích tặng cho những người học giỏi hay tính tình kiểu mẫu, hay cứ tuần tự lần này phát cho một số học sinh này, lần sau phát cho một số khác. Nếu tổ chức được tất cả những điều trên thì học đường và ký túc xá sẽ là những xã hội cỏn con đẹp đẽ nhất, hòa vui nhất trong xã hội loài người. Quân đội là một tập đoàn có tổ chức quy củ nhất, nghiêm minh nhất. Xét về phương diện bình đẳng thì tương đối ở đây cũng đã thực hiện được nhiều. Về phương diện kỷ luật, thì chúng ta phải công nhận là không có một tổ chức, một đoàn thể nào có thể theo kịp. Về phương diện ăn ở, thì những người đồng đội đều chia xẻ một hoàn cảnh giống nhau: cùng ăn, cùng ở, cùng làm như nhau. Tuy thế, chúng ta có thể ước mong nhiều điều tốt đẹp hơn nữa ở trong tập đoàn ấy, nếu Lục Hòa được đem ra áp dụng. Chẳng hạn, như chúng ta có thể nêu lên điều thứ hai của Lục hòa là "khẩu hòa vô tránh", nghĩa là anh em đồng đội luôn luôn phải dùng lời nói êm ái, hòa nhã đối với nhau trong mọi trường hợp, không bao giờ được phép to tiếng, lỗ mãng, cộc cằn làm mất hòa khí giữa anh em đồng đội. Người dưới đối với người trên, người nhỏ đối với người lớn, cần phải nói năng lễ phhép đã đành, mà người trên đối với người dưới, người lớn đối với người nhỏ cũng phải ôn hòa nhã nhặn, thân mật như anh đối với em. Được như thế, thì công việc dù khó khăn bao nhiêu, người ta cũng vui lòng cố gắng làm cho tròn phận sự. Về phương diện tình ý, chúng ta có thể nêu lên khẩu hiệu: "ý hòa đồng duyệt". Mỗi khi anh em đồng đội có điều gì thắc mắc, thì phải cảm thông ngay, đừng để lâu trong lòng lâu ngày mà thành ung độc, rồi đi đến chỗ ganh ghét, thù hiềm nhau, cuối cùng sanh ra xung đột trầm trọng. Cấp chỉ huy cũng vậy, nên sáng suốt, cổ mở để cho các cấp dưới trình bày ý kiến, cảm nghĩ của họ, rồi giải thích một cách chu đáo đầy đủ để không ai còn thắc mắc, phàn nàn gì nữa. Nếu cấp trên chỉ áp dụng triệt để kỷ luật một cách máy móc, ra lệnh mà không cần giải thích, thì người dưới sẽ tuân hành một cách miễm cưỡng, chứ không thật tâm. Về phương diện tài lợi, cũng cần triệt để áp dụng cho được khẩu hiệu "lợi hòa đồng quân". Các cấp chỉ huy và cấp dưới, không nên có một đời sống quá chênh lệch: người trên thì ăn ở quá sang trọng, còn người lính thì ăn ở quá kham khổ, lương bổng quá ít ỏi. Tất nhiên không thể san bằng quyền lợi được, nhưng chỉ nên làm thế nào chợ chênh lệch đừng quá cách biệt, lộ liễu quá, để người dưới có thể thấy được rõ ràng sự bất công, sanh ra buồn phiền mà thiếu hăng hái trong nhiệm vụ. Tóm lại, nếu một quân đội nào áp dụng được Lục Hòa, thì quân đội ấy sẽ là một sức mạnh vô song, vì mọi phần tử đều đồng tâm nhất trí, đoàn kết chặt chẻ, muôn người như một. Ngày nay ở các nước tân tiến trên thế giới như Anh, Mỹ, Đức, quyền lợi của công nhân mỗi ngày mỗi được tôn trọng, bảo đảm; dịa vị của người thợ được nâng cao. Chẳng hạn, họ được giới chủ nhân xây cất nhà cho ở, lương bổng cao, đời sống vợ con được sung túc, và được hưởng nhiều bảo đảm xã hội. Có nhiều xí nghiệp đi xa hơn, để cho công nhân được chia lời cuối năm, có phần hùn ở trong công ty và cử đạidiện sung vào Ban Giám Đốc để điều khiển xí nghiệp. Đời sống vật chất và tinh thần của công nhân như thế, là đã được nâng cao nhiều lắm so với các nước hậu tiến. Nhưng chúng ta có thể ước âo hơn nữa, nếu Lục Hòa được áp dụng ở những nơi ấy. Chẳng hạn, nhà cửa của công nhân có thể cao ráo, rộng rãi hơn nữa, gia đình công chung sống với nhau trong hòa khí, chủ nhân không khinh rẻ công nhân, công nhân không thù ghét chủ nhân; hai bên đều tuân theo kỷ luật đã ấn định, giới chủ nhân không bóc lột công nhân, công nhân không yêu sách quá đáng; không có những sự sa thải vô lý, hay đình công ngang ngược. Công nhân được có thì giờ học tập và trau dồi kiến thức, để sự chênh lệch và hiểu biết giữa chủ và người làm công đừng quá xa vời. Một truyền thống rất tốt đẹp ở các nhà buôn Trung Hoa, mà nhà buôn Việt Nam ta cần bắt chước là tinh thần bình đẳng và nếp sống hòa đồng giữa chủ và người làm công. Chúng ta thường thấy trong các nhà hàng Trung Hoa, chủ và người làm công đều sống một đời sống chung cùng gần giống nhau: cùng ăn, cùng ở, cùng làm, cùng hưởng những lợi tức kiếm được. Khi ăn, thì chủ nhân và người làm công từ lớn đến nhỏ đều ngồi quanh một bàn; có khi vì bận việc, chủ ăn sau người làm công, và các món ăn đều giống nhau, ai ăn được bao nhiêu thì cứ lấy. Khi làm, thì mọi người cùng làm không quản khó nhọc, có khi chủ lại còn đánh trần ra làm việc nặng nhọc hơn người làm công nữa. Chủ và người làm công rất tin cậy nhau, nói năng thì rất cởi mở, không kiểu cách, không dối trá, không lỗ mãng. Về quyền lợi thì người làm công ngoài số lương tháng, cuối năm còn chia một phần lợi tức của nhà hàng. Nhờ cách đối xử bình đẳng, nếp sống đoàn kết như thế, nên công việc làm ăn của hãng mỗi ngày mỗi phát đạt, và có thể cạnh tranh một cách thắng lợi với bất cứ nhà buôn Việt Nam nào. Nhưng nếu họ áp dụng được pháp Lục Hòa sâu rộng hơn thì kết quả càng khả quan hơn nữa. Chẳng hạn như lợi tức, cuối năm được chia đừng quá chênh lệch. Lời lẽ nhã nhặn, vui vẻ hơn nữa, kiến thức của người làm công được nâng cao lên nữa, chủ nhân cần khuyến khích và dành thì giờ cho công nhân học tập để đời sống tinh thần của họ được sáng sủa hơn. Tóm lại, trên đây là một thí dụ, nêu lên để thấy rõ giá trị của pháp Lục Hòa, khi được áp dụng trong một đời sống tập thể. Chúng ta còn có thể áp dụng Lục Hòa trong những đoàn thể khác nữa, như ở các nông trại, ở trong giới văn nghệ sĩ, ở trong các cô nhi, dưỡng lão viện, trong các trại giáo huấn, hướng nghiệp v.v... Lục Hòa càng được áp dụng trong nhiều đoàn thể, nhiều ngành hoạt động của xã hội bao nhiêu, thì sự xung đột, sự hiềm khích lại càng bớt đi chừng ấy, đời sống lại càng được yên vui đẹp đẽ thêm chừng ấy. Một xã hội lấy Lục Hòa làm mực thước cho đời sống, thì xã hội ấy sẽ là xã hội hoàng kim, một xã hội đại đồng, một xã hội lý tưởng mà nhân loại đang hoài bão, ước mong. Đấy, ý nghĩa và công năng của chữ Lục Hòa trong đại Phật. |