Thời hiệu khởi kiện đã hết có nên khởi kiện hay không

Trả lời:

Đã có một thời kỳ Tòa án trả lại đơn khởi kiện nếu đã hết thời hiệu khởi kiện. Đó là thời kỳ thi hành Bộ Luật tố tụng dân sự năm 2004 (điểm a khoản 1 Điểu 168). Ở thời kỳ này, Tòa án không thụ lý vụ việc dân sự nếu thấy đã hết thời hiệu khởi kiện.

Đến thời kỳ thi hành Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 sửa đổi, bổ sung năm 2011 (có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2012) thì không còn quy định trả lại đơn khởi kiện khi đã hết thời hiệu khởi kiện. Từ thời điểm này, Tòa án vẫn thụ lý vụ việc dân sự dù khi nhận đơn khởi kiện đã nhận thấy có dẫu hiệu hết thời hiệu khởi kiện. Sau khi đã thụ lý, nếu xác định đúng là đã hết thời hiệu khởi kiện thì Tòa án mới đình chỉ giải quyết vụ việc dân sự. Quy định này xuất phát từ thực tế là cần thụ lý mới có điểu kiện xác định những yếu tố khách quan có thể được trừ thời gian tính thời hiệu hoặc xác định những yếu tố bắt đầu lại thời hiệu được quy định trong Bộ luật dân sự.

Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 cũng quy định như Bộ luật tố tụng dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2011. Ngoài ra, trong thời kỳ này còn có những quy định mới về thời hiệu. Khoản 2 Điều 149 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định:

“Tòa án chỉ áp dụng quy định về thời hiệu theo yêu cầu áp dụng thời hiệu của một bên hoặc các bên với điêu kiện yêu cấu này phải được đưa ra trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ, việc.

Người được hưởng lợi từ việc áp dụng thời hiệu có quyền từ chối áp dụng thời hiệu, trừ trường hợp việc từ chối đó nhằm mục đích trốn tránh thực hiện nghĩa vụ”.

Tương ứng với quy định về có yêu cầu áp dụng thời hiệu của Bộ luật dân sự nêu trên, Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 cũng có quy định mới tại điểm e khoản 1 Điều 217 về một trong những trường hợp Tòa án đình chỉ giải quyết vụ án dân sự là:

“Đương sự có yêu cầu áp dụng thời hiệu trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ án và thời hiệu khởi kiện đã hết”.

Quyền yêu cầu áp dụng thời hiệu là một quyền quan trọng của đương sự. Tuy nhiên, đương sự có rất nhiều quyền, Tòa án không thể phổ biến lại mọi quyền của đương sự. Do đó, chỉ những quyển mà pháp luật quy định Tòa án phải phổ biến thì Tòa án mới có nghĩa vụ phải phổ biến.

Ví dụ:

- Khoản 6 Điều 48 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 có quy định Thẩm phán: “Giải thích, hướng dẫn cho đương sự biết để họ thực hiện quyền được yêu cầu trợ giúp pháp lý theo quy định của pháp luật về trợ giúp pháp lý”.

- Khoản 6 Điều 239 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 có quy định: “Chủ tọa phiên tòa hỏi những người có quyền yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch xem họ có yêu cầu thay đổi ai không”.

Không có quy định nào về việc Tòa án phải giải thích về thời hiệu cho đương sự. Do vậy, Tòa án không có nghĩa vụ phải giải thích về quyền này. Trong thực tiễn xét xử thì các Tòa án cũng không giải thích cho đương sự về quyền yêu cầu áp dụng thời hiệu.

Mọi vướng mắc pháp lý liên quan đến việc chia tài sản thừa kế, vui lòng liên hệ trực tiếp:Dịch vụ luật sư tư vấn pháp luật thừa kế trực tuyến qua tổng đài điện thoại, gọi ngay số:1900.6162

Luật Minh Khuê(tổng hợp & phân tích)

Thời hiệu khởi kiện là thời hạn mà chủ thể được quyền khởi kiện để yêu cầu Toà án giải quyết vụ án dân sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm; nếu thời hạn đó kết thúc thì mất quyền khởi kiện. Theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 192 BLTTDS thì đối với những tranh chấp có quy định về thời hiệu khởi kiện, sau khi thụ lý vụ án có đủ căn cứ xác định tranh chấp của vụ án đó đã hết thời hiệu khởi kiện thì Tòa án ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án.

Nói chung, theo quy định của Điều 427 Bộ luật dân sự thì thời hiệu khởi kiện để yêu cầu Toà án giải quyết tranh chấp hợp đồng dân sự là hai năm, kể từ ngày quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân, các chủ thể khác bị xâm phạm. Cho nên, khi giải quyết các tranh chấp về hợp đồng dân sự phải xem xét tranh chấp đó có còn thời hiệu khởi kiện không. Khi xét thời hiệu khởi kiện cần chú ý các vấn đề sau đây:

a. Thời điểm bắt đầu tính thời hiệu khởi kiện

Thời điểm bắt đầu tính thời hiệu khởi kiện là ngày bắt đầu tính thởi hiệu khởi kiện.

Thời điểm bắt đầu thời hiệu khởi kiện trong chấp hợp đồng dân sự như sau:

  • Đối với nghĩa vụ dân sự mà các bên có thoả thuận hoặc pháp luật có quy định thời hạn thực hiện, nếu hết thời hạn đó mà bên có nghĩa vụ không thực hiện, thì ngày hết hạn thực hiện nghĩa vụ là ngày xẩy ra xâm phạm;
  • Đối với nghĩa vụ dân sự mà các bên không thoả thuận hoặc pháp luật không quy định thời hạn thực hiện, nhưng theo quy định của pháp luật các bên có thể thực hiện nghĩa vụ hoặc yêu cầu thực hiện nghĩa vụ bất cứ lúc nào nhưng phải thông báo cho nhau biết trước trong một thời gian hợp lý, nếu hết thời hạn đã được thông báo đó bên có nghĩa vụ không thực hiện, thì ngày hết thời hạn đã được thông báo là ngày xảy ra xâm phạm;
  • Trường hợp khi hết hạn thực hiện nghĩa vụ dân sự, các bên có thoả thuận kéo dài thời hạn thực hiện nghĩa vụ đó, thì việc xác định ngày quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm căn cứ vào ngày chấm dứt thoả thuận của các bên.
  • Trong quá trình thực hiện hợp đồng mà có vi phạm nghĩa vụ trong hợp đồng, thì ngày vi phạm nghĩa vụ là ngày xảy ra xâm phạm, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác. Nếu một bên đơn phương đình chỉ hợp đồng thì ngày đơn phương đình chỉ hợp đồng là ngày bị xâm phạm.
  • Trong qua trình thực hiện hợp đồng, nếu hành vi vi phạm nghĩa vụ xảy ra ở nhiều thời điểm khác nhau, thì thời điểm bắt đầu thời hiệu khởi kiện được tính kể từ thời điểm xảy ra hành vi vi phạm cuối cùng.
  • Trong các trường hợp nếu các bên có thoả thuận khác về thời điểm bắt đầu thời hiệu khởi kiện, thì thời điểm bắt đầu thời hiệu khởi kiện được xác định theo thoả thuận của các bên.

b. Thời gian không tính vào thời hiệu khởi kiện vụ án tranh chấp hợp đồng dân sự

Thời gian không tính vào thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự là khoảng thời gian xảy ra một trong các sự kiện sau đây:

- Sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan làm cho chủ thể có quyền khởi kiện, quyền yêu cầu không thể khởi kiện, yêu cầu trong phạm vi thời hiệu.

  • Sự kiện bất khả kháng là sự kiện xảy ra một cách khách quan không thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép.
  • Trở ngại khách quan là những trở ngại do hoàn cảnh khách quan tác động làm cho người có quyền, nghĩa vụ dân sự không thể biết về việc quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm hoặc không thể thực hiện được quyền hoặc nghĩa vụ dân sự của mình;

- Chưa có người đại diện trong trường hợp người khởi kiện, chưa thành niên, mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự;

- Chưa có người đại diện khác thay thế hoặc vì lý do chính đáng khác mà không thể tiếp tục đại diện được trong trường hợp người đại diện của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự chết.

c. Tính lại thời hiệu khởi kiện

Thời hiệu khởi kiện không chỉ bắt đầu tính từ ngày người khởi kiện biết quyền và lợi ích của mình bị xâm phạm, theo Điều 162 BLDS 2005 thì thời hiệu khởi kiện được tính lại từ khi :

  • Bên có nghĩa vụ đã thừa nhận một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ của mình đối với người khởi kiện.
  • Bên có nghĩa vụ thực hiện xong một phần nghĩa vụ của mình đối với người khởi kiện.
  • Các bên đã tự hoà giải với nhau.

Cho nên, khi xét về thời hiệu khởi kiện đối với các tranh chấp hợp đồng dân sự trong trường hợp quyền và lợi ích hợp pháp của người khởi kiện đã bị xâm phạm đã quá 2 năm mới làm đơn khởi kiện, thì cần xác định thời điểm bắt đầu tính thời hiệu khởi kiện, xem có thuộc trường hợp được tính lại thời hiệu khởi kiện không? Có khoảng thời gian nào thuộc trường hợp trở ngại khách quan hay bất khả kháng không? Trên cơ sở xem xét một cách toàn diện xác định thời hiệu khởi kiện còn hay đã hết.

2. Những tranh chấp liên quan đến hợp đồng dân sự nhưng không áp dụng thời hiệu

Bộ luật tố tụng dân sự sửa đổi năm 2011 đã quy định các tranh chấp về quyền sở hữu tài sản; tranh chấp về đòi lại tài sản do người khác quản lý, chiếm hữu; tranh chấp về quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện. Để hướng dẫn thi hành những tranh chấp không áp dụng thời hiệu khởi kiện, Nghị quyết 03/2012/NQ-HĐTP đã hướng dẫn: Đối với tranh chấp dân sự phát sinh từ giao dịch dân sự (hợp đồng vay tài sản, hợp đồng gửi giữ tài sản, thuê tài sản, thuê khoán tài sản, hợp đồng gia công, hợp đồng vận chuyển, hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất, hợp đồng thuê quyền sử dụng đất, hợp đồng thuê lại quyền sử dụng đất), thì giải quyết như sau:

  • Đối với tranh chấp phát sinh từ giao dịch dân sự thì áp dụng thời hiệu quy định trong văn bản quy phạm pháp luật tương ứng đối với loại giao dịch đó.
  • Đối với tranh chấp về quyền sở hữu tài sản, về đòi lại tài sản, đòi lại quyền sử dụng đất do người khác quản lý, chiếm hữu thông qua giao dịch dân sự thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện.

Như vậy, đối với những tranh chấp phát sinh từ hợp đồng dân sự, tùy theo yêu cầu của đương sự giải quyết như sau:

  • Nếu họ tranh chấp về quyền và nghĩa vụ mà các bên đã thỏa thuận trong hợp đồng thì, thì áp dụng thời hiệu (như đã phân tích phần trên).

Ví dụ: Tranh chấp về hợp đồng thuê nhà thì thời hiệu khởi kiện đối với hợp đồng cho thuê tài sản được xác định theo quy định tại Điều 427 của Bộ luật dân sự năm 2005 là 02 năm.

  • Nếu họ khởi kiện đòi lại tài sản, đòi lại quyền sử dụng đất do người khác chiếm hữu thông qua hợp đồng dân sự thì không áp dụng thời hiệu.

Ví dụ 1: Ngày 01-01-2008, A cho B vay 500 triệu đồng, thời hạn vay là 1 năm. Đến ngày 01-01-2009, B không trả tiền gốc và tiền lãi. Đến ngày 03-4-2011, A khởi kiện yêu cầu buộc B trả lại khoản tiền gốc và tiền lãi. Đối với yêu cầu thanh toán khoản tiền lãi thì Tòa án không giải quyết vì đã hết thời hiệu khởi kiện. Đối với yêu cầu thanh toán khoản tiền gốc thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện, Tòa án thụ lý giải quyết theo thủ tục chung.

Ví dụ 2: Trường hợp người cho thuê tài sản mà có tranh chấp về hợp đồng thuê tài sản thì thời hiệu khởi kiện đối với hợp đồng cho thuê tài sản được xác định theo quy định tại Điều 427 của Bộ luật dân sự năm 2005. Đối với tranh chấp về đòi lại tài sản cho thuê do người khác đang quản lý, chiếm hữu thì căn cứ hướng dẫn tại điểm a khoản 3 Điều 159 của BLTTDS và điểm b khoản 3 của Điều này không áp dụng thời hiệu khởi kiện.

Ví dụ 3: Đối với tranh chấp quyền sở hữu trí tuệ mà có tranh chấp về việc ai có quyền sở hữu đối với quyền sở hữu trí tuệ đó thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện. Nếu tranh chấp các giao dịch về quyền sở hữu trí tuệ thì áp dụng thời hiệu tương ứng đối với giao dịch quyền sở hữu trí tuệ đó..