Tại sao gọi là nhạc bolero

Bài : Cát Linh - RFA

Hình : Internet

Người ta thường hay nói “vận mệnh của một đất nước như thế nào thì âm nhạc của đất nước ấy sẽ như thế”. Có lẽ câu nói này sẽ đúng nếu nói về những ca khúc nhạc Việt Bolero nổi tiếng. Trải qua nhiều thập kỷ, các bản nhạc điệu Bolero vẫn còn được nhắc đến rất nhiều trong hoạt động âm nhạc của Việt Nam, thể hiện qua các cuộc thi trong nước mang tên “Thần tượng Bolero”, “Solo cùng Bolero”.

Để hiểu nhiều thêm về lịch sử cũng như những đặc điểm của thể loại này, mời quí vị cùng trò chuyện với nhạc sĩ lão thành Tuấn Khanh, nữ danh ca Thanh Thuý và nghe lại những tác phẩm Bolero nổi tiếng.

“Trời đêm dần tàn

Tôi đến sân ga đưa tiễn người trai lính về ngàn

Cầm chắc đôi tay ghi vào đời tâm tư ngày nay

Gió khuya ôi lạnh sao

Ướt nhẹ đôi tà áo…”

[Tàu đêm năm cũ]

Tầu Đêm Năm Cũ [Trúc Phương] - Thanh Thuý

Ca khúc Tàu đêm năm cũ mà quí vị vừa nghe là một trong hàng nghìn ca khúc nhạc Bolero quen thuộc của nền âm nhạc Việt Nam. Khó mà hình dung được vũ điệu trầm buồn, chầm chậm, gần như gắn liền với đời sống bình dị của người Việt Nam lại có nguồn gốc từ các nước Nam Mỹ. Ở Tây Ban Nha, Bolero được khai sinh vào cuối thế kỷ XVIII, và được xem như là một vũ điệu hàn lâm.

Bolero vào Việt Nam từ khi nào?

Không có nhiều tài liệu cho biết Bolero đã bắt đầu du nhập vào Việt Nam chính xác vào năm nào, nhưng lại nói rằng người đầu tiên mang Bolero vào miền Nam là nhạc sĩ Lam Phương, rồi Trúc Phương, hai nhạc sĩ nổi tiếng với những ca khúc Bolero trữ tình như Nửa đêm ngoài phố, Hai chuyến tàu đêm, Tàu đêm năm cũ…

Riêng cố nhạc sĩ Trúc Phương còn được gọi là ông hoàng của dòng nhạc Bolero.

Thế nhưng, nhạc sĩ lão thành Tuấn Khanh, người còn được biết đến là một ca sĩ với nghệ danh Trần Ngọc, tác giả của bản nhạc Mùa Xuân đầu tiên nổi tiếng được viết từ thập niên 60 ở Sài Gòn cho biết, những tài liệu ấy chưa chính xác lắm.

“Khi ở ngoài Bắc, trước năm 50, 51, 52, 53, 54 bắt đầu di cư vào miền Nam thì chưa có phong trào Bolero, hiếm lắm, tìm mãi mới có 1 bài. Vào đến miền Nam thì thấy bắt đầu từ những người ở Hải Phòng, những nhạc sĩ như Trịnh Hưng, Hoài An, Phó Quốc Thăng, Phó Quốc Lân, rồi Huyền Linh. Khi ở miền Bắc thì chưa nghe được tác phẩm Lam Phương. Ở Hà Nội thì chỉ nghe đài Sài Gòn, chưa thấy Bolero và chưa thấy tác giả Lam Phương. Khi vào đến trong Nam thì những bản nhạc của Trúc Phương nổi lên.”

Cũng chính vào thời điểm này, có hai ca khúc nổi tiếng khắp nơi, từ các phòng trà, vũ trường, các đại nhạc hội, cho đến những con hẻm nhỏ, và các vùng quê hẻo lánh, đó là “Quán nửa khuya” của nhạc sĩ Tuấn Khanh-Hoài Linh và ”Nửa đêm ngoài phố” của nhạc sĩ Trúc Phương. Cả hai ca khúc đều thành công với một sứ giả mang tâm tình của hai người nhạc sĩ đến cho mọi người, đó là danh ca Thanh Thuý.

“Quán nửɑ ƙhuуɑ đèn mờ theo hơi ƙhói

Ƭrút tâm tư νào đêm νắng cɑnh dài

Quãng đời tôi tàu đêm νắng ƙhông người, νẫn lặng trôi …”

[Quán nửa khuya]

“Khi tôi bắt đầu đi hát là năm 1959. Bolero có trước năm 1960. Những bài Bolero, rumber thời gian 1960 đã có rồi, nhưng không nhiều như bây giờ.”

[Danh Ca Thanh Thuý]

Âm hưởng cải lương và thời cuộc

Vì sao Bolero lại buồn đến như vậy? Và có phải vì như thế mà Bolero lại dễ đi vào lòng người hay không?

Quay trở lại thập niên 50, 60, đó là những năm mà người dân miền Bắc Việt Nam phải trải qua cuộc di tản thứ nhất. Những người nhạc sĩ từ Hải Phòng, vượt qua con sông Bến Hải để tìm đến vùng đất mới. Như nhạc sĩ lão thành Tuấn Khanh nhớ lại, đó là những năm tháng khó khăn, cái nghèo nó ám ảnh cả trong giấc ngủ. Người nhạc sĩ miền Bắc, miền Nam chia nhau điếu thuốc. Rồi nỗi nhớ quê hương bên kia bờ Bến Hải làm cho các nhạc sĩ di cư càng mang nhiều tâm sự. Nhưng đó cũng là lúc mà sự sáng tạo của người nghệ sĩ ở đỉnh cao nhất. Rất nhiều ca khúc nổi tiếng ra đời thời gian ấy. Nhưng tất cả, hầu như là những bản nhạc với nhịp 4/4 chậm buồn, buồn đến nao lòng.

“Ai biết ai vì đời cùng ngược xuôi chung lối mòn

Ngày anh hai mươi tuổi, em đôi tám trăng tròn

Đêm lạnh còn chăn đơn gối lẻ

Chưa buồn khi canh vắng khép đôi mi…”

[Bóng nhỏ đường chiều]

“Thời cuộc có nhưng nó ảnh hưởng từ cải lương ấy. Những bài hát cải lương người ta xuống những câu xề, đặc tính của loại nhạc cải lương nó mùi mẫn lắm. Hát như Chế Linh mà hát nhẫn cỏ cho em đấy, hát nghe mùi lắm, gần với giới bình dân. Những tuồng cải lương nào nó cũng có những tình tiết, mà mùi mẫn, mà cũng khóc được.”

Nếu nói đến cải lương thì ai cũng biết ngay nghệ thuật này có nguồn gốc từ miền Tây sông nước. Ông hoàng Bolero Trúc Phương, Lam Phương, Tô Thanh Tùng là những người được sinh ra ở Trà Vinh, Rạch Giá, Kiên Giang, Đồng Tháp.

Dễ nghe, dễ hiểu, dễ đi vào lòng người, Bolero là những câu chuyện kể nhẹ nhàng, chân tình, không có mỹ từ trau chuốt. Nói theo cách của nhạc sĩ Tuấn Khanh, Bolero là loại nhạc bình dân, gần gũi. Những ca khúc Bolero là những câu chuyện buồn vui quen thuộc xảy ra trong đời sống. Mỗi một người dễ dàng chọn cho mình một, hai hoặc nhiều hơn nữa các ca khúc gắn liền với kỷ niệm mình đã đi qua.

Những người yêu âm nhạc, dù không học nhạc bài bản, nhưng chỉ cần biết vài nhạc lý cơ bản cũng có thể có một buổi văn nghệ khi “chén chú, chén anh”.

Những chàng nghệ sĩ hát rong thường chọn loại nhạc này để mưu sinh trên đường phố. Có lẽ cho đến mấy mươi năm sau, cũng khó ai quên được hình ảnh những người hát rong với cây guitar cũ kỹ, kiếm sống nơi các bến phà, bến xe ở Sài Gòn những năm 80 bằng những ca khúc Bolero buồn bã. Chẳng biết có phải họ đang kể lại câu chuyện của chính đời mình hay không, chỉ cần biết là cả người nghe và người hát đều tìm thấy cái tình của họ, cuộc sống của họ trong đấy.

“Có những đêm dài, anh ngồi nhìn hỏa châu rơi

Nghe vùng tâm tư cháy đỏ xoay ngang lưng trời

Những đóm mắt hỏa châu bừng lên trong màn tối

Như mắt em sáng ngời, theo anh đi ngàn lối

Những đêm không ngủ anh ngồi tâm sự cùng hỏa châu rơi…”

[Những đóm mắt hoả châu]

Ca sĩ Ánh Tuyết từng nhận xét rằng Bolero dễ hát nhưng không phải ai hát cũng hay. Nhạc sĩ Tuấn Khanh đã thốt lên rằng không ai có thể thay thế những dòng nức nở của danh ca Thanh Thuý hay tiếng hát sầu muộn của Giao Linh khi thể hiện các ca khúc Bolero.

“Đúng là thế. Hát Bolero ai cũng hát được, chỉ có hát hay và dở thôi. Nhưng hát được hay, ngọt ngào, đi vào lòng người thì không phải ai cũng hát được như thế, phải có những người hợp. Ca sĩ cũng thế thôi, phải hát hợp những loại nhạc nào chứ không phải có giọng hay thì hát bài nào cũng hay. Cũng như giọng hát của Thái Thanh, mà hát bản nào uốn quá thì nghe cũng không được thích. Nhưng bài nào cũng uốn, hát như khóc như bài Kỷ vật cho em, Bà mẹ Giao Linh thì không ai hát bằng Thái Thanh cả. Cái loại Bolero thì phải thật sến, thứ thiệt đó, phải tuỳ người, chứ không phải người nào cũng hát được.”

Riêng nữ danh ca Thanh Thuý thì bà cho rằng, đối với người ca sĩ, quan trọng là họ có đặt được tâm hồn của mình vào bài hát để diễn đạt cái vui cái buồn mà tác giả ca khúc mong muốn hay không.

“Nếu mà nói kén thì cũng không đúng. Nói khó thì cũng không khó, dễ thì cũng không dễ. Là vì sao? Mình hát mình làm sao mình đặt tâm trạng mình vào bài hát đó, đó là cái khó. Nếu là một ca sĩ chuyên nghiệp thì điệu nào cũng hát được hết. Mình đưa mình vô bài hát, hát đúng với ý của tác giả mong muốn, đó là chuyện không phải dễ.”

“Ai cho tôi tình yêu

Của ngày thơ ngày mộng

Tôi xin dâng vòng tay mở rộng

Và đón người đi vào tim tôi

Bằng môi trên bờ môi…”

[Ai cho tôi tình yêu]

Như thế, có thể hình dung Bolero như một cô gái nhẹ nhàng, nũng nịu, dễ khóc, chan hoà, gần gũi với mọi người. Nhưng không phải vì thế mà ai cũng có thể dễ dàng thấu hiểu nỗi niềm của cô gái ấy.

“Hồn lỡ sa vào đôi mắt em

Chiều nao xõa tóc ngồi bên rèm

Thầm ước nhưng nào đâu dám nói

Khép tâm tư lại thôi

Đường hoa vẫn chưa mở lối…”

[Về đâu mái tóc người thương]

Nếu hát Bolero dễ mà khó thì sáng tác nhạc Bolero cũng phải tùy do trường phái của người nhạc sĩ. Đối với Văn Cao, Phạm Duy, Đoàn Chuẩn-Từ Linh hay Trịnh Công Sơn thì không có tác phẩm nào được viết với thể loại Bolero.

Nhưng không phải ca khúc Bolero nào cũng bắt buộc phải sầu bi, dang dở. Nữ danh ca Thanh Thuý khẳng định rằng với bà, không có thể loại nhạc nào là nhạc sến, chỉ có vài ca khúc có lời sến, nhưng không nhiều. Không phải bản nhạc Bolero nào cũng mang mong ước nhà mình chung vách, anh khoét bức tường anh qua thăm em. Mùa xuân đầu tiên của nhạc sĩ Tuấn Khanh là một Bolero mà ông gọi là “có hậu” và “Bolero mà không phải Bolero”.

“Bao nhiêu thương nhớ gom nhặt đầy anh trở về thăm em

Bao lần ngồi thâu đêm nghe mùa Xuân vừa đến

Em ơi hoa thắm rơi ngập đường trời nắng xế vương vương

Lòng nhớ tới em luôn khi chiều tàn chim gọi đàn…”

[Mùa xuân đầu tiên]

Chính vì vậy, nhạc sĩ Nguyễn Ánh 9 trong một lần trả lời phỏng vấn trong nước có nói rằng, với ông, Bolero là một thể loại nhạc trữ tình. Tuỳ vào người nghe mà dòng nhạc này được gọi là “nhạc vàng’ hay “nhạc sến”.

Và quan trọng hơn là, cho dù là thể loại nào cũng có một giá trị của riêng nó.

Bài đọc thêm

Bài bolero đầu tiên trong âm nhạc Việt

Bài : Vũ Đức Sao Biển

Audio : NGV

Một câu hỏi đặt ra là nhạc sĩ nào đưa dòng âm nhạc ấy vào nền âm nhạc Việt để viết bài bolero đầu tiên.

Bolero phát xuất từ Tây Ban Nha, do nhạc sĩ Sebastiano Carezo sáng tạo năm 1780, vốn là điệu nhạc nhảy. Điệu nhạc du nhập các nước châu Âu, được các nhạc sĩ viết nhạc cổ điển như Chopin [Ba Lan, 1810 - 1849], Bizet [Pháp, 1838 - 1875] và Debussy [Pháp, 1862 - 1918] sử dụng viết các chương trong các hòa tấu khúc và nhạc kịch của mình. Trong nhạc cổ điển, bolero được viết đầy tính quy luật, tính hàn lâm nên không được quan tâm nhiều. Ngược lại, bolero du nhập các quốc gia vùng Caribe và Nam Mỹ được đón nhận nồng nhiệt bởi nó gần gũi với kiểu chơi nhạc lãng mạn, phóng khoáng của người Mỹ Latin. Nó trở thành âm nhạc của quần chúng.

Bolero Mỹ Latin là một thứ giai điệu phóng khoáng và trữ tình. Nhạc sĩ hai nước Cuba và Mexico có công phát triển bolero, biến tấu nó với các điệu thức tương tự viết theo phép ký âm 4/4, tạo ra hẳn một dòng nhạc bolero mới; xôn xao hơn, rực rỡ hơn, lãng mạn hơn và đậm chất Latin. Dòng nhạc bolero này bao gồm các điệu bolero, rumba, rumba bolero, mambo, calypso, baiao; kể cả tango, tango habanera, chachacha. Mẫu số chung là kiểu viết nhạc 4/4 tương tự nhau; chỗ khác nhau là cách chơi, cách xử lý ca khúc.

Bolero du nhập Việt Nam những năm 1950. Nền tân nhạc non trẻ của Việt Nam đã nhanh chóng thẩm thấu điệu thức ấy, biến nó thành hẳn một dòng nhạc tình ca. Một nhạc sĩ tài hoa kiêm nhà nghiên cứu âm nhạc đã viết thành công bài rumba bolero đầu tiên, sau này trở thành bài tình ca nổi tiếng trong thế kỷ 20. Đó là nhạc sĩ Lê Trọng Nguyễn với ca khúc Nắng chiều.

Lê Trọng Nguyễn [ 1926 - 2004 ]

Nhạc sĩ Lê Trọng Nguyễn tên thật là Lê Trọng, sinh năm 1926 tại Quảng Nam, hội viên của Hội Tác giả, nhạc tác gia và nhà xuất bản âm nhạc Pháp [Société des Auteurs, Compositeurs et Editeurs de Musique - SACEM]. Chữ “Nguyễn” trong bút danh của ông là họ của người mẹ. Nhà ông là Trường tư thục Hoàng Hồ nằm trên đường Nhật Bản [cũ], sau này đổi tên là đường Cường Để và nay là đường Trần Phú trong khu phố cổ Hội An [Quảng Nam].

Lê Trọng Nguyễn viết Nắng chiều năm 1952. Hình tượng gợi cảm xúc trong ca khúc này là một cô gái dịu dàng người gốc Quy Nhơn [Bình Định] đang ở cùng cha mẹ tại Hội An. Ca khúc được thu thanh lần đầu tiên năm 1953 bằng đĩa than 33 tours do Hãng đĩa Việt Nam [Sài Gòn] sản xuất với tiếng hát của danh ca Minh Trang. Chính Lê Trọng Nguyễn soạn hòa âm và phối khí cho dàn nhạc chơi bài này.

Thật không ngờ, bài tình ca viết với điệu thức rumba bolero đầu tiên lại có sức chinh phục và cuốn hút người nghe đến vậy. Nắng chiều được phát liên tục trên Đài phát thanh Sài Gòn, Đài Pháp Á [đường Hàm Nghi, Sài Gòn] và Đài phát thanh Huế. Lúc bấy giờ, người ta chỉ được nghe nhạc qua sóng phát thanh từ radio; nhà nào sang lắm mới có được máy pick up hát đĩa than. Nhiều thế hệ ca sĩ sau bà Minh Trang như Quỳnh Giao, Mai Hương, Kim Tước, Hà Thanh và các ông Anh Ngọc, Ngọc Long cùng hát Nắng chiều và cũng được người yêu nhạc tán thưởng.

Lê Trọng Nguyễn viết Nắng chiều đúng quy chuẩn của một ca khúc, xét về mặt nhạc pháp. Ca khúc được viết với cung sol trưởng; mỗi ô nhịp 4/4 rất ít nốt nên tiết tấu khoan thai, vận dụng nhịp ngoại tài tình, chuyển âm giai rất phong phú. Đặc biệt, đoạn điệp khúc được ông biến tấu qua mi thứ - âm giai tương đương cùng bộ khóa, nên giai điệu ca khúc rất mềm mại và đẹp. Âm hình cấu tạo của ca khúc gồm đoạn A [A1 + A2] + B [B1 + B2] + A’ [giống như A2]. Cấu trúc ca khúc cổ điển nhưng nội dung lại hàm chứa nét nhạc hiện đại và lãng mạn như phong cách rumba bolero Mỹ Latin.

Ca từ của Nắng chiều giàu tính văn học, giàu chất thơ, tỏ rõ tác giả là con người từng thẩm thấu một cách sâu đậm văn chương Việt Nam: “Qua bến nước xưa lá hoa về chiều/Lạnh lùng mềm đưa trong nắng lưa thưa/Khi đến cuối thôn chân bước không hồn/Nhớ sao là nhớ đến người ngày xưa… Anh nhớ xót xa dưới tre lá ngà/Gợn buồn nhìn anh, em nói mến anh/Mây lướt thướt trôi khi nắng vương đồi/Nhớ em dịu dàng nắng chiều ngừng trôi "

Bạn để ý đấy, một bài tình ca rất lãng mạn nhưng không hề có động từ “yêu” hay danh từ “người yêu” nào trong đó. Ngay cô gái ngày ấy cũng chỉ được mô tả là “Gợn buồn nhìn anh em nói mến anh” chứ không nói “yêu anh”, bởi nói “yêu anh” thì nghe phàm tục quá! Đúng ra, có một chỗ tác giả viết “Hình bóng yêu kiều kề hoa tím, biết đâu mà tìm” nhưng “yêu kiều” ở đây là tính từ mất rồi. Tình ý của ca khúc thật nhẹ nhàng nhưng quá đỗi sâu lắng, say đắm, nhớ nhung.

Bản nhạc được các nhà xuất bản An Phú [Sài Gòn], Tinh Hoa [Sài Gòn] và Tinh Hoa [Huế] in ra nhiều lần thành bài rời; mỗi lần in khoảng 3.000 bản. Năm 1958, nữ ca sĩ Nhật Bản Satsuki Midori gặp Lê Trọng Nguyễn và đã dịch bài hát sang ca từ tiếng Nhật với tựa đề Việt Nam tình ca, thu thanh ở Tokyo. Năm 1960, nữ ca sĩ Đài Loan Kỷ Lộ Hà cũng đã gặp ông, hát và thu thanh với ca từ tiếng Quan thoại do Thận Chi viết; tựa đề ca khúc là Tịch dương. Cả hai nữ danh ca này có vẻ như rất mến mộ Lê Trọng Nguyễn. Sau đó, Nắng chiều còn được dịch qua tiếng Anh, tiếng Thái và tiếng Khmer với nhiều ca sĩ hát, trở thành một bài Á châu tình ca!

Vậy đó, Nắng chiều với phong cách rumba bolero đầu tiên đã trở thành bài tình ca đẹp nửa sau thế kỷ thứ 20 trong âm nhạc Việt Nam. Nó thoát hẳn phong cách xôn xao, rực rỡ và khá nhanh của dòng bolero Mỹ Latin; tạo nên một phong cách bolero Việt Nam chậm và kể lể [lento recitativo], chậm và diễn cảm [lento expressivo]. Về sau này, Lê Trọng Nguyễn tiếp tục lối sáng tác ấy để viết hai ca khúc Bến giang đầu [Nắng chiều 2] và Chim chiều không tổ. Hai ca khúc này đều viết với cung re trưởng; chất bolero thật đậm nét. Ông còn là người dung nạp tài hoa các điệu nhạc đặc trưng của Mỹ và đảo Hawaii như jazz, blue, boston rock, slow để viết những bài tình ca khác.

Các nhạc sĩ hòa âm sau này đã hòa âm cho ca sĩ hát Nắng chiều với các điệu khác nhau như rumba, bolero, calypso, baiao hoặc nhanh hơn chút nữa thì chachacha. Từ năm 1955 trở đi, miền Nam phát triển một hệ tình ca mới chủ yếu sử dụng dòng bolero làm chủ đạo. Nhạc sĩ Trúc Phương [Nguyễn Thiện Lộc] đẩy bolero chậm lại hơn nữa, dung hợp với phong cách dân ca Nam bộ sáng tác một loạt bài tình ca bolero cung thứ với ca từ rất lạ, được xem là “vua bolero” Sài Gòn. Nhiều nhạc sĩ khác cũng đồng thời dùng bolero viết tình ca, hình thành hẳn một dòng nhạc bolero trữ tình, đặc sắc, gần gũi với đông đảo người nghe nhạc.

Vũ Đức Sao Biển

Audio : Nắng Chiều [ Lê Trọng Nguyễn ] Satsuki Midori

Nắng Chiều [ Lê Trọng Nguyễn ] - Ngọc Lan

Trở lại Trang Chính

Video liên quan

Chủ Đề