Cơ thể giun đất lưỡng tính vậy giun đất có hình thức sinh sản như thế nào

Giun đất là loài động vật có ở khắp nước ta, thức ăn chính của giun là mùn hữu cơ. Giun đất không chỉ là thức ăn của gà vịt mà còn có vai trò duy trì độ mềm xốp và dinh dưỡng trong đất rất lợi cho ngành nông nghiệp. Bài viết sau sẽ giúp bạn hiểu rõ hơn về đặc điểm, vòng đời và lợi ích của giun đất đối với cây trồng. Hãy cùng Vườn Sài Gòn tìm hiểu nhé!

Giun đất còn có tên gọi khác thổ long, địa long, giun khoang, trùn hổ, trùn đất.

Tên khoa học: Lumbricus

Giun đất sợ ánh sáng nên hiếm khi chui ra khỏi mặt đất, chỉ khi mưa lớn khiến bùn đất trũng xuống và mất độ xốp giun mới bò lên để hô hấp.

Giun đất

Giun đất là loài động vật ruột khoang, sinh sống ở các vùng đất ẩm, xốp và mát.

Trung bình, giun đất dài khoảng 10 – 34cm, rộng từ 5 – 15mm, thân có màu nâu hồng hoặc nâu đen.

Hai bên thân và mặt bụng của giun đất có 4 đốt lông ngắn và cứng, thân có nhiều đốt, có thể co giãn được nhằm giúp giun đất dễ chui rúc trong đất.

Bề mặt da mềm, ẩm ướt và có chức năng hô hấp.

Giun đất là loài động vật lưỡng tính, tuyến sinh dục tập trung ở một số đốt trên thân. Tuy nhiên giun đất không tự thụ tinh mà thực hiện thụ tinh chéo.

Đặc điểm sinh học giun đất

Tế bào da của giun rất mỏng, thường xuyên tiết ra chất nhờn để bảo vệ cơ thể và thích ứng với điều kiện chui rúc trong môi trường tối và ẩm thấp đo đó giun rất nhạy, phản ứng mạnh với ánh sáng, nhiệt độ và biên độ nhiệt độ cao, độ mặn và điều kiện khô hạn.

Giun là loài lưỡng tính. Trên mỗi con giun đều có cả bộ phận sinh dục đực [tinh hoàn] và bộ phận sinh dục cái [buồng trứng].

Khi sinh sản, hai con giun chập phần đầu vào nhau trao đổi tinh dịch

Sau khi hai cơ thể ghép đôi tách nhau được 2, 3 ngày, thành đai sinh dục bong ra, tuột về phía trước, nhận trứng và tinh dịch trên đường đi.

Khi tuột khỏi cơ thể, đai thắt hai đầu lại thành kén. Trong kén, sau vài tuần, trứng nỡ thành giun non.

Đặc điểm sinh sản giun đất

  • Làm tơi xốp cho đất, giúp độ giữ nước trong đất tốt hơn.
  • Tạo khoảng không trong đất giúp rễ cây có thể tiếp xúc được với nhiều Oxi.
  • Chất thải từ giun đất là một loại phân bón tự nhiên rất tốt cho cây trồng.
  • Phân của giun đất có thể giúp cây trồng tránh được một số loại sâu bọ có hại.

Cảm ơn các bạn đã cùng Vườn Sài Gòn tìm hiểu về giun đất.

Giun đất hay trùn đất là tên thông thường của các thành viên lớn nhất của phân lớp Oligochaeta [thuộc một lớp hoặc phân lớp tùy theo tác giả phân loại] trong ngành Annelida. Chúng có cấu trúc cơ thể ống trong ống, được phân đoạn bên ngoài với phân đoạn bên trong tương ứng và thường có các lông cứng trên tất cả các phân đoạn.[1]

Giun đất

Lumbricus terrestris, giun đất thường gặp ở châu Âu

Phân loại khoa họcGiới [regnum]AnimaliaNgành [phylum]AnnelidaLớp [class]ClitellataBộ [ordo]HaplotaxidaPhân bộ [subordo]LumbricinaCác họ

  Acanthodrilidae
  Ailoscolecidae
  Alluroididae
  Almidae
  Criodrilidae
  Eudrilidae
  Exxidae
  Glossoscolecidae
  Lumbricidae
  Lutodrilidae
  Megascolecidae
  Microchaetidae
  Ocnerodrilidae
  Octochaetidae

  Sparganophilidae

Giun đất thường sống ở những khu vực đất ẩm ướt, ruộng đồng, nương rẫy, đất hoang sơ,...[2] nơi có nhiều mùn hữu cơ và chúng ăn mùn hữu cơ.[3] Các chất hữu cơ này bao gồm chất thực vật, động vật nguyên sinh sống, luân trùng, tuyến trùng, vi khuẩn, nấm và các vi sinh vật khác.[4] Hệ tiêu hóa của giun đất chạy dọc theo chiều dài cơ thể.[5] Chúng có vai trò to lớn đối với ngành nông nghiệp do chúng làm đất tơi xốp và tăng độ phì nhiêu của đất. Giun đất còn là thức ăn cho gia súc và gia cầm.

Chúng là loài động vật không xương sống, thuộc Ngành Giun đốt. Giun đất là các loài lưỡng tính và có một bộ phận đặc trưng gọi là bao sinh dục. Chúng sử dụng bộ phận này trong quá trình giao phối. Sau khi giao phối thành công, bao này sẽ chứa đầy trứng đã thụ tinh và sẽ được giun "tháo" ra, từ đó nở ra thế hệ giun tiếp theo. Giun đất có khả năng phục hồi lại toàn bộ cơ thể đã mất nếu như phần đầu còn nguyên vẹn, nhưng không như mọi người vẫn lầm tưởng, chúng không có khả năng tạo ra các cá thể mới khi bị chia nhỏ thành nhiều đoạn.

Trùn đất [earthworms] là tên gọi chung cho tất cả các loại trùn sinh sống trên địa cầu này. Trên thế giới hiện có khoảng 4.400 loài trùn đất khác nhau đã được định danh. Dựa vào kích thước và tập tính loài, chúng được phân thành 3 nhóm chính:  EPIGEIC [eisenia foetida, eudrilus eugenie [nigerian], perionyx excavatus etc.], ENDOGEIC [pentoscolex sps. eutopeius sps. drawida sps etc.] và ANECEIC [polypheretima elongata, lampito maruti etc.].

Gồm các loài như Eisenia foetida, Eudrilus eugenie [nigerian], Perionyx excavatus [trùn quế]…. tập tính ăn của chúng thường là trên bề mặt đất với tất cả các loại chất hữu cơ, xác và chất thải động vật. Chúng phân huỷ chất hữu cơ nhưng không có vai trò cải tạo đất. Chính những tập tính ăn tạp như vậy nên nhóm trùn này thường thì cung cấp đạm rất cao, bên cạnh đó vì chúng thường sống trên bề mặt đất nên tiếp xúc với rất nhiều kẻ thù, vì thế mà trong cơ thể trùn chứa hàm lượng enzym rất cao. Đây là nhóm trùn dùng để làm thức ăn cho gia súc, gia cầm, thủy,hải sản… Bên cạnh đó, ngày nay ở các nước tiên tiến trên thế giới như: Canada, Mỹ, Úc, Nhật…người ta sử dụng nhóm trùn này để xử lý chất thải nông nghiệp và công nghiệp nhằm tránh gây ô nhiễm môi trường.

Gồm các loài như Lumbricus, Polypheretima elongata, Lampito maruti…. Chúng sống theo hàng thẳng đứng trong lòng đất, có khi đào hang sâu trong lòng đất cả 3m. Chúng ăn cả chất hữu cơ và khoáng chất trong đất, sau đó thải phân trên khắp hang chúng đi. Vào ban đêm chúng lên trên mặt đất để ăn và bắt cặp, chúng có quai hàm rất lớn và nghiền nát tất cả các chất thải hữu cơ. Vì thế chúng rất có lợi cho việc cải tạo đất, bên cạnh đó, vì nhóm trùn này rất lớn nên người ta còn sử dụng làm mồi câu cá.

Gồm các loài như Pentoscolex sps. Eutopeius sps. Drawida sps… Đây là giống trùn có tập tính ăn các khoáng chất trong đất hơn là chất hữu cơ, chúng di chuyển hàng ngang trong đất vì thế chúng không có tác dụng trong phân hủy chất hữu cơ và thường xuyên di chuyển từ nơi này đến nơi khác. Giống trùn này cũng dùng để sử lý đất nhưng không tốt bằng Aneceic.

Ở Việt Nam, theo Trung tâm nghiên cứu động vật đất [Trường Đại học Sư phạm Hà Nội] thì chúng ta đã tìm ra trên 170 loài. Chúng phân bố rất rộng và có nhiều đặc tính khác nhau. Một số loài sống trong nước, còn đa số sống ở những nơi đất ẩm hoặc những chỗ có thảm thực vật dày. Có những loài rất nhỏ, cơ thể chỉ nặng khoảng 10 mg. Trong lúc đó, ở Australia có loài trùn đất khổng lồ dài tới 1,4m và nặng gần nửa cân! Tuy nhiên, điều mà bà con ta quan nhất là nên nuôi loài nào.

Vào những ngày mưa to hoặc những hôm trở trời, thường thấy có những con giun [trùn] lớn bò lên mặt đất. Chúng to bằng ngón tay út và dài như chiếc đũa. Đây là các bác “thợ cày” rất quý của chúng ta. Người ta gọi đó là giun khoang. Suốt ngày chúng đào bới trong đất để kiếm thức ăn. Hoạt động làm cho đất tơi xốp tạo nhiều biến đổi có lợi cho cây trồng. Cơ thể giun là một ống tròn, một đầu là miệng và đầu kia là hậu môn. Chúng ngoạm đất vào mồm rồi nuốt chửng. Khi đi qua ống tiêu hóa, các chất hữu cơ, chất mùn sẽ được chúng đồng hóa, hấp thụ. Sau đó, các chất còn lại sẽ bị tống ra ngoài qua hậu môn. Đó là phân giun [phân trùn – vermicast]. Phân giun là một loại đất rất tốt. Chúng tơi xốp và giữ được ẩm. Mặt khác, các dạng phân lân và phân kali khó tiêu, sau khi đi qua bụng giun đã trở thành những dạng dễ tiêu mà cây hấp thụ được. Tuy nhiên, loài giun này chưa phải là đối tượng để nuôi. Các loài giun đất dùng để nuôi phải có hàm lượng đạm cao, có tốc độ sinh trưởng nhanh, sống được trong những điều kiện chật hẹp và mau chóng thích nghi với những môi trường mới.

Trong hàng nghìn loài giun, người ta chỉ tìm được 6 – 7 loài nên nuôi. Mỗi nước lại thích nuôi một loài riêng. Tuy nhiên, loài giun quế hay còn gọi là giun đỏ [Perionyx escavatus] được nhiều nơi ưa nuôi. Ở nước ta, chúng tôi cũng khuyến khích nên nuôi loài giun này. Hiện tại Trại trùn quế SFARM đã phát triển việc chăn nuôi giun quế ở quy mô công nghiệp, tạo ra nguồn phân giun ổn định phục vụ cho trồng trọt.

Quá trình đi chuyển của giun đất gồm 3 bước:

  1. Thu mình làm phông đoàn đầu, thun đoạn đuôi.
  2. Giun chuẩn bị bò.
  3. Dùng toàn thân và vòng tơ làm chỗ dựa, vươn đầu về phía trước.

Giun đất ăn vụn thực vật và mùn đất. Hệ tiêu hoá chia làm nhiều phần, thức ăn lấy từ miệng, chứa ở diều, nghiền nhỏ ở dạ dày cơ, được tiêu hoá nhờ enzim tiết ra từ ruột tịt và hấp thu qua thành ruột.

Sự trao đổi khí [hô hấp] được thực hiện qua da.

Giun đất có tác dụng đào bới làm xốp đất. Phân giun đất là thứ phân bón sạch, rất tốt cho thực vật. Giun còn là phương tiện xử lí rác làm sạch môi trường. Giun đất có thể ăn vì nó có 70 phần trăm là đạm. Giun đất có thể làm thuốc chữa bệnh.

Chúng còn có thể làm thức ăn cho gia súc, gia cầm. Chúng cho đất loại phân tốt.

  1. ^ Edwards, Clive A.; Lofty, J. R. [1977]. Biology of Earthworms. London: Chapman & Hall. tr. preface. ISBN 0-412-14950-8.
  2. ^ Coleman, David C.; Crossley, D.A.; Hendrix, Paul F. [2004]. Fundamentals of Soil Ecology. Amsterdam; Boston: Elsevier Academic Press. tr. 170. ISBN 0-12-179726-0.
  3. ^ Bonkowski, Griffiths, and Ritz [tháng 11 năm 2000]. “Food preferences of earthworms for soil fungi”. Pedobiologia. 44–6 [6]: 667. doi:10.1078/S0031-4056[04]70080-3.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả [liên kết]
  4. ^ Lofty, Clive A.; Lofty, J. R. [1977]. Biology of Earthworms. London: Chapman & Hall. tr. 80. ISBN 0-412-14950-8.
  5. ^ Edwards, Clive A.; Lofty, J.R. [1977]. Biology of Earthworms. London: Chapman & Hall. tr. 19. ISBN 0-412-14950-8.

Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Giun đất.

Lấy từ “//vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Giun_đất&oldid=68266352”

Video liên quan

Chủ Đề