Bạch đức thế tôn là ai

Theo sách sử ghi lại, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là bậc giáo chủ cõi Ta Bà. Ngài từng sống trên trái đất này và đã sáng lập ra Phật Giáo. Thế nhưng, nhiều Phật tử lại chưa biết rõ về lịch sử Phật Thích Ca Mâu Ni cũng như không hiểu tại sao Ngài lại có nhiều tên gọi như vậy. Nhiều người còn nhầm lẫn với các vị Phật khác trong Phật giáo.

Thích Ca Mâu Ni Phật

Phật Thích Ca Mâu Ni là vị Phật có thật trong lịch sử. Ngài chính là hoàng tử Tất Đạt Đa Cồ Đàm của vương quốc Thích Ca, thuộc Ấn Độ ngày nay. Hoàng tử ra đời vào năm 624 TCN. Sau khi thấu rõ những cảnh đời “sinh lão bệnh tử” cũng như sự thanh thản của các vị tu sĩ, ngài đã quyết tâm bước vào con đường tu hành, trải qua muôn sự khó khăn, thử thách và đạt thành chính đạo, trở thành vị Phật đầu tiên đặt mầm móng cho Phật Giáo trở về sau.

Tên gọi khác của Phật Thích Ca Mâu Ni

Phật Như Lai

Phật Như Lai chính là một biệt hiệu khác của Phật Thích Ca.

“Như Lai” được dịch từ chữ “Tathagata” trong tiếng Phạn. Như hay còn gọi là “Như Thực” hay “Chân Như”, là để chỉ cái chân lý tuyệt đối, chân tướng của sự thật, bản thể của vũ trụ vạn hữu. “Lai” còn có nghĩa là đến.

“Như Lai” là chỉ những người đến bằng con đường chân thực, những người đã thấu rõ chân lý, những người đi theo con đường đúng đắn đến được chính giác. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là một trong số những người đến bằng cách như vậy nên được gọi là “Như Lai”.

Từ Như Lai nếu dùng trong phạm vi hẹp thì là một tôn hiệu riêng của đức Phật Thích Ca, nhưng xét rộng ra thì còn được dùng để chỉ tất cả các vị Phật khác nhau như Phật A Di Đà Như Lai, Phật Dược Sư Như Lai,…

Đức Thế tôn

Đức Thế tôn cũng là một tôn hiệu khác của Phật Thích Ca Mâu Ni. Thế Tôn là từ mà đạo Bà La Môn dùng để gọi những vị trưởng giả, đức cao vọng trọng. Các Tăng sĩ cũng như tín đồ Phật giáo sau này cùng dùng cái tên Thế Tôn khi gọi Đức Thích Ca Mâu Ni như một cách bày tỏ lòng cung kính.

Chúng ta vẫn thường nghe “Bạch Thế Tôn…” vô cùng tôn kính. Phật Thích Ca là nhân vật có đức hạnh vẹn toàn, công đức vô lượng, là thầy của mười phương ba cõi, há còn lý do gì mà không phải là Thế Tôn?

Từ khóa:đức phật, đức thế tôn, phật như lai, phật thích ca

Ông Thân Thệ Trí Phương tiếp tục thưa hỏi:

Kính bạch Đức Thế Tôn: Như vậy đạo của Như Lai dạy có sử dụng vật lý nơi thế giới này không?

Đức Phật trả lời:

-Đầu tiên Như Lai thuyết đạo để dạy 5 anh em ông Kiều Trần Như Và 4 người bạn đồng tu, Như Lai sử dụng phật tánh thanh tịnh dạy.

-Còn khi Như Lai dạy các pháp môn: tiểu, trung, đại thừa, niệm phật và niệm chú, Như Lai có lúc sử dụng tánh phật của Như Lai dạy, có lúc Như Lai sử dụng tánh người duyên hợp của vật lý trần gian này để dạy.

Vì sao Như Lai sử dụng 2 thứ tánh như vậy?

-Vì là trong hội chúng của Như Lai dạy có rất nhiều tầng lớp người, vì vậy Như Lai phải sử dụng cả 2 tánh để có lợi cho cả 2.

Ông Thân Thệ Trí Phương tiếp tục thưa hỏi:

Kính bạch Đức Thế Tôn tu thanh tịnh thiền là để chúng con trở về nguồn cội của chúng con, còn các pháp môn tu như nói trên có thành tựu được gì không?

Đức Phật dạy:

Này ông Thân Thệ Trí Phương, các pháp môn nói trên đều có kết quả hết, nhưng có kết quả trong vật lý trần gian này, như:

-Tu thiền quán tưởng, người tu muốn cho vật để trước mặt mình, từ nhỏ ra lớn, thành tựu này là cái bóng ảo của vật chất.

-Lý luận để cho mọi người biết, đây là lời nói cho vui tai.

-Tu thiền, nghi, tìm hay kiếm từ vật nhỏ như vi trần, lớn lao như hành tinh, tìm hiểu được cũng là cái hiểu biết trong sinh diệt.

Như Lai nói rõ về các pháp môn này: Đến đời mạt thượng pháp loài người họ tìm ra rất nhiều công thức để chế ra rất nhiều phương tiện, những phương tiện làm ra từ vật chất thì có 2 mặt:

Một là làm lợi ích cho loài người.

Hai là sát hại loài người và muôn vật.

Vì sao vậy?

Vì trong vật chất cấu tạo bởi 2 chiều:

Chiều dương làm lợi ích, chiều âm là sát hai.

Do đó như lai có huyền ký, khi nào mạch nguồn thiền thanh tịnh của Như Lai dạy không còn cũng là lúc loài người rất khốn khổ.

-Tu niệm phật A Di Đà, người tu kiên trì cũng đến được nước Tịnh Độ, nhưng vì cõi nước này do ngài sử dụng phước đức của ngài lập ra nên nó cũng còn trong vòng luân chuyển của vật lý âm dương, không giải thoát được.

Như lai dạy niệm phật a di đà như sau:

+Niệm là nhớ,

A Di Đà là: Vô lượng thọ tức sống hoài, vô lượng quang tức sáng hoài, vô lượng công đức tức giúp vô số người khác hiểu chân thật.

Ba phần nêu trên là của Đức Phật A Di Đà, còn người nào muốn thành phật thì phải có đủ 3 phần vô lượng như của ngài.

Như lai dạy các ông:

Người nào muốn giải thoát phải tự mình biết và thực hành như Đức Phật A Di Đà, chứ đừng đi cầu khẩn người này hay lạy lục ngươi khác, các ông làm chuyện uổng công vô ích.

Vì sao vậy?

+Ai cũng sống trong nhân quả luân hồi thì ai giúp cho mình được, nếu ai đó nói giúp mình thì kẻ đó là đại lừa gạt.

Niệm mật chú: Người niệm được vô niệm là đã thanh tịnh rồi, muốn vượt ra ngoài thế giới này thì cũng phải tạo ra công đức thì mới giải thoát được.

Như lai dạy các ông:

Đừng vì tiền và danh mà bày ra đủ chuyện để lấy tiền người khác rồi phải đi mãi trong luân hồi đó.

Như lai dạy các ông căn bản như sau: phàm sử hữu tướng giai thị hư vọng! cái gì có tướng đều là hư dối.

Tiếp theo Như Lai dạy các ông 2 câu làm chuẩn nữa:

+Tu mà mong cầu người khác giúp là các ông khờ.

+Tu mà học hỏi để hiểu biết, khi đã hiểu biết rồi, tạo ra công đức nữa thì mới giải thoát được.

Ông Thân Thệ Trí Phương đã giác ngộ sâu lời Đức Phật dạy ông liền khóc và trình với Đức Phật:

Đời con đại phúc nên mới gặp được Như Lai, Như Lai dạy con, con đường giải thoát, hôm nay con biết nên con khóc, con khóc vì con không còn mê lầm nữa, nhưng con rất thương cho những người khác không biết họ có biết được như con không?

Đức Phật khen ông Thân Thệ Trí Phương:

Ông là 1 cư sỹ mà biết thương người như vậy, Như Lai huyền ký cho ông nhiều đời sau sẽ thành phật hiệu là Vô Tân Ý Quang Như Lai.

Ông Thân Thệ Trí Phương vui mừng đảnh lễ Đức Phật rồi lui ra.

Trích trong quyển “Đức Phật dạy tu thiền tông”- NXB Tôn Giáo Hà Nội 2012

FacebookTwitterGoogle+Pin It

Ông Thực Lực thưa hỏi: – Kính bạch Đức Thế Tôn, cho con hỏi 2 câu:

1/- Vị Phật đầu tiên nơi trái đất này danh hiệu là gì?

2/- Đức Thế Tôn là vị Phật thứ mấy ở trái đất này. Kính xin Đức Thế Tôn dạy con: ☆Đức Phật dạy câu 1: – Này ông Thực Lực, vị Phật đầu tiên ở trái đất này là Oai Âm Vương. ☆Đức Phật dạy câu 2: – Này ông Thực Lực, Như Lai cũng không tính hết được, Như Lai nói như sau cho ông nghe:

– Ở trái đất này, cứ 10 ngàn năm có 1 người, có nhiệm vụ dạy đạo nơi thế giới này, khi Tùng Shop Hà Nội viên mãn được trở về Phật giới, gọi là thành Phật.

– Mà Tánh Phật của Như Lai vào thế giới này, khi trái đất này vừa đạt chuẩn sự sống. – Như Lai đã sống nơi trái đất và Tam giới này đúng 7 tỷ, 8 trăm triệu năm, là nói con số chẵn. – Vậy, ông thử tính xem, Như Lai và vị được trở về Phật giới là vị thứ mấy từ khi trái đất này được Ban bệ Trời Tứ Thiên Vương cho hình thành đạt chuẩn sự sống? Ông thử tính xem: – Cứ 10 ngàn năm có 1 vị Phật ra đời dạy công thức trở về Phật giới: 1/- 10 ngàn năm có 1 vị Phật dạy Giải thoát. 2/- 100 ngàn năm có 10 vị Phật dạy Giải thoát. 3/- 1 triệu năm có 100 vị Phật dạy Giải thoát. 4/- 1 tỷ năm có 1.000 vị Phật dạy Giải thoát. Mà Như Lai sống ở trái đất và Tam giới này 7 tỷ, 800 triệu, 900, 60 ngàn năm mới thành là người Đại Toàn năng toàn giác. Như vậy, Như Lai là vị Phật thứ 7 ngàn 8 trăm 9 mươi, lẻ 6 vị được thành Phật ở trái đất này. Đức Phật dạy: – Này ông Thực Lực, ông muốn ghi danh hết những vị Phật nói trên không, Như Lai kể cho ông ghi? Ông Thực Lực thưa: – Kính bạch Đức Thế Tôn: Con không thể ghi được, con xin cám ơn Đức Thế Tôn dạy con.

Ông Thực Lực lạy tạ Đức Phật rồi lui ra.

Cách đây 2645 năm, Bồ tát Hộ Minh từ cung trời Đâu Suất thị hiện giáng trần qua hiện tướng của Thái tử Tất Đạt Đa con Đức vua Tịnh Phạn và hoàng hậu Maya.

Năm 29 tuổi, Thái tử xuất gia, 35 tuổi thành đạo có tôn hiệu là Thích Ca Mâu Ni. Sau 45 năm giáo hóa độ sinh, vào năm 80 tuổi Ngài vào vô dư Niết bàn.

Sự hiện hữu của Đức Thế Tôn trên đời đã mở ra một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của nhân bản hướng đến sự tự do, bình đẳng và từ bi đích thực cho con người và muôn loài. Đây được xem là sự kiện hi hữu của thế gian mà kinh điển ghi nhận là “Một vị thánh xuất hiện ở đời, vì hạnh phúc và an lạc cho số đông, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư thiên và loài người” [Tăng Chi I, chương 1, phẩm Một người].

Cách đây 2645 năm, Bồ tát Hộ Minh từ cung trời Đâu Suất thị hiện giáng trần qua hiện tướng của Thái tử Tất Đạt Đa con Đức vua Tịnh Phạn và hoàng hậu Maya.

Hi hữu với tâm từ bi vô lượng

Trong một buổi lễ hạ điền diễn ra vào đầu năm, cả Đức vua và vương triều đều tập trung vào nghi thức cày cấy thì Thái tử Sĩ Đạt Ta đã nhìn thấy những loài côn trùng đau quằn quại bởi những luống cày xới lên, những con chim sẻ sà xuống gắp đi. Ngài bèn tìm đến gốc cây hồng táo để tĩnh tọa, trầm tư lẽ tử sinh. Một hoàng nhi chỉ vừa bảy tuổi thay vì nô đùa, vui chơi với lễ hội, vô tư với vụ mùa đầu xuân thì ở đây Ngài đã nhìn thấy tận gốc rễ khổ đau của kiếp sống. Cái đau khổ của sự giành giật, mạnh được yếu thua ngay cả những loài côn trùng nhỏ bé nhất.

Ngang qua ánh sáng duyên khởi, nhân loại dần nhận ra rằng, sự sống của con người không tách rời sự sống của muôn loài, từ chim muôn thú rừng cho đến cỏ cây hoa lá. Môi trường có sự tương tác kỳ diệu với con người. Môi trường tốt sẽ dẫn đến cuộc sống tốt, sông ngòi biển cả, núi rừng, cây cối, chim muôn thú rừng được bảo vệ thì con người sẽ đảm bảo được sức khỏe, ít bệnh tật, sống trường thọ, ít gặp tai ương. Môi trường bị tàn phá, động vật bị sát hại thì cuộc sống con người sẽ rơi vào khủng hoảng, khó khăn. Và dịch bệnh Covid-19 đang chính là một minh chứng cho điều ấy. Đó là hệ quả tất yếu của sự tàn phá môi trường, sát hại sinh thú do chính con người  tạo nên mà nhân loại đang phải đối mặt.

Khi lớn khôn, trong một cuộc dạo chơi bốn cửa thành, thay vì thưởng ngoạn, vui chơi thì Thái tử lại tỏ ra ưu tư khi nhìn thấy tứ tướng vô thường – sinh, lão, bệnh, tử –  khiến ngài xúc động mạnh mẽ. Ngay lúc đó, Ngài suy nghĩ rồi đây ta cũng sẽ già, bệnh và chết như bao người. Từ đó, Ngài để tâm đến việc tìm đạo để cứu đời.

Tà kiến thì thấy có một đối tượng ngoài mình an bài, định đoạt số phận của mình. Chính kiến sẽ thấy rằng không ai khác hơn chính ta là người quyết định cho ta ngay kiếp sống này và tương lai.

Hi hữu với sự từ bỏ vĩ đại

Là một hoàng thái tử ở trên ngôi cao địa vị, ở trong cung vàng điện ngọc với cung phi mỹ nữ bao quanh vậy mà Ngài từ khước mọi quyền lực, danh vọng, hạnh phúc thế gian, từ giã mẹ cha, cáo biệt vương triều đi thẳng vào rừng để tìm đạo mong độ mình, cứu đời. Danh vọng, địa vị, quyền lực, tài sản, hạnh phúc gia đình … là những thứ mà thế gian khát khao tìm cầu, lịch sử nhân loại đã chứng minh bao nhiêu cuộc chiến tranh, bao nhiêu sự giành giật gây chết chóc, tang thương cũng không có gì ngoài những thứ tham này. Ấy vậy mà Ngài đã rũ bỏ một cách nhẹ nhàng như bụi trần vướng áo, như gió qua cành khô. Một sự từ bỏ vĩ đại mà mấy ai thực hiện được!

Hi hữu với tâm bình đẳng

Xã hội Ấn Độ cổ đại lúc bấy giờ, con người được phân chia thành bốn giai cấp rõ rệt. Nhưng Đức Thế tôn thì thiết lập một lối sống mới, lối sống đặt trên nền tảng bình đẳng giữa con người với con người, bình đẳng giữa nam và nữ, không có giai cấp trong dòng máu cùng đỏ và dòng nước mắt cùng mặn. Nhân phẩm con người không nằm ở sắc tộc, màu da, tư tưởng, tướng nam hay tướng nữ, nó nằm ở nhân cách đạo đức và lối sống thiện lành. Tôn giả Đại Ca Diếp [Mahakassapa] là giáo chủ của một tôn giáo thờ lửa, Vô Não [Angulimala] là tên sát nhân, Ưu Ba Ly [Upali] là người gánh phân, Ambapālī vốn là một kỹ nữ danh tiếng, Cấp Cô Độc [Anāthapiṇḍika] là một tỷ phú, Kỳ Bà [Jīvaka] là lương y tài danh… Dẫu mỗi người với thành phần địa vị, xã hội khác nhau nhưng khi đã dự vào hội chúng của Đức Thế Tôn thì như nước trăm sông đổ vào biển cả, nước hòa làm một, không giữ tên tuổi của từng dòng sông. “Này các Tỷ-kheo, phàm có các con sông lớn nào, ví như sông Hằng, sông Yamunà, sông Aciravati, sông Mahi, các con sông ấy khi chảy đến biển liền bỏ tên họ cũ, trở thành biển lớn. Này các Tỷ-kheo, đây là vi diệu chưa từng có”. [Tiểu bộ kinh 1, Kinh Phật Tự Thuyết, Chương Bốn – Phẩm Meghiya] 

Con người sống phải có đức tin nhưng không phải đức tin mù quáng mà là đức tin có trí tuệ, có sự thẩm xét nơi chính chúng ta.

Từ hiện sinh đến đản sinh

Hi hữu với tính nhân bản

Đất nước Ấn Độ là một trong những chiếc nôi văn minh của nhân loại với hàng trăm học thuyết, tư tưởng, tôn giáo đều lấy Phạm thiên [Brahma] thượng đế, thần linh làm đối tượng tôn kính, làm trung tâm lẽ sống. Đức Thích Ca Mâu Ni lại lấy đối tượng con người làm trọng tâm [Nhân vi tối thắng].

Đức Phật dạy rằng mỗi người tự quyết định chọn con đường mình đi và nhận lấy kết quả thiện ác, tốt xấu do chính mình tạo ra. “Trong tất cả các pháp, tâm làm chủ tâm tạo tác tất cả” [ Pháp Cú 1-2]. “Tâm làm chủ, tâm tạo tác” ở đây được hiểu là mình quyết định cho cuộc sống sướng khổ, buồn vui của chính mình mà không ai khác. Nếu có một sự giải thoát hay ràng buộc nào thì sự giải thoát, buộc ràng đó chính là do ta tạo nên. Tà kiến thì thấy có một đối tượng ngoài mình an bài, định đoạt số phận của mình. Chính kiến sẽ thấy rằng không ai khác hơn chính ta là người quyết định cho ta ngay kiếp sống này và tương lai. Nói cách khác, ta sống thuận với qui luật khách quan [nhân quả], ta có tuệ giác để chọn lựa tương lai tốt xấu của mình ngay nơi suy nghĩ, lời nói và hành động của mình. Ta là chủ nhân ông tạo nghiệp và chính ta thừa tự nghiệp quả ấy. Chính nghiệp là nơi ta nương tựa, đưa ta đi đến tái sinh. “Con người là chủ nhân của nghiệp, là thừa tự của nghiệp. Nghiệp là thai tạng, nghiệp là quyến thuộc, nghiệp là điểm tựa, nghiệp phân chia các loài hữu tình; nghĩa là có liệt, có ưu. [Trung Bộ Kinh, Tiểu Nghiệp phân biệt số 135].

Hi hữu với tự do tư tưởng

Con người sống phải có đức tin nhưng không phải đức tin mù quáng mà là đức tin có trí tuệ, có sự thẩm xét nơi chính chúng ta. Tín mà thiếu tuệ sẽ dễ rơi vào cuồng tín và tà kiến. Giáo pháp do Đức Thế tôn thuyết giảng có những đặc tính: “Thiết thực hiện tại, vượt thoát thời gian, đến để mà thấy, chỉ có bậc trí mới thấu hiểu, có khả năng hướng thượng và đưa người tu đạt đến quả Thánh”. Với 6 đặc tính này cho ta có cái nhìn toàn triệt về pháp bằng trí tuệ mà không phải niềm tin vô căn cứ. Từ đó biết được con đường đúng sai, kết quả thiện ác mà thực hành: “Này các người Kâlâma, đừng tin vì nghe nói lại, đừng tin vì theo phong tục, đừng tin vì nghe tin đồn, đừng tin vì kinh điển truyền tụng, đừng tin vì lý luận, đừng tin vì công thức, đừng tin vì có suy tư đầy đủ về những dữ kiện, đừng tin vì có thẩm sát và chấp nhận lý thuyết, đừng tin vì thấy thích hợp, đừng tin vì Sa môn là thầy mình. Nhưng này các người Kâlâma, khi nào các người tự biết rõ: Các pháp này là thiện, các pháp này là không đáng chê, các pháp này được người trí khen ngợi, các pháp này nếu thực hiện và chấp nhận thì dẫn đến hạnh phúc an vui, thời này các người Kâlâma, các người hãy đạt đến và an trú. [Kinh Tăng Chi Bộ I]

Mỗi Tăng Ni, Phật tử chúng ta hãy không ngừng nghỉ việc đem Đạo Từ bi toả sáng khắp muôn nơi

Ý nghĩa biểu tượng của ngày Đức Phật đản sinh

Hướng về Đại lễ Vesak PL. 2565 với ba sự kiện lớn kỷ niệm Đức Thế Tôn đản sinh, Thành đạo và Niết bàn, ôn lại vài dấu son trong cuộc đời và đạo nghiệp của Ngài để nhắc nhở chúng ta rằng, tuệ giác sáng ngời của bậc Đạo sư vẫn còn đó cho chúng ta. Mỗi người hãy thực tập giáo pháp và đem giáo pháp vào đời, giúp cuộc đời chuyển hoá đem lại hạnh phúc an lạc và lợi ích cho chư thiên và loài người mà Đức Thế Tôn hằng nhắc nhở chúng ta.

Đại lễ Phật đản năm nay đúng vào dịp kỷ niệm 40 năm thành lập GHPGVN [1981 -2021]. Đây là sự  kiện trọng đại của nền Phật giáo có hơn hai nghìn năm lịch sử, là sự kết tinh của quá trình tu tập, hành đạo của 09 Giáo hội, Hệ phái Phật giáo kết thành. Có thể nói, đây là cuộc thống nhất Phật giáo kỳ vĩ ngang tầm với kỳ thống nhất dưới triều Trần, do chính Sơ tổ Trúc Lâm hợp nhất ba Thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi, Vô Ngôn Thông và Thảo Đường thành một Giáo hội duy nhất. Vì thế, mỗi Tăng Ni, Phật tử chúng ta hãy không ngừng nghỉ việc đem Đạo Từ bi toả sáng khắp muôn nơi như huấn thị của Thế Tôn: “Này các Tỳ kheo, hãy lên đường thuyết pháp vì hạnh phúc, vì an lạc cho chúng sinh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư Thiên và loài người.” [Kinh Đại Bổn, Trường Bộ 1], như một việc làm có ý nghĩa để dâng lên Ngài như lời tri ân trong mùa Đản sinh này.

Video liên quan

Chủ Đề