Quản lý nhà nước về văn hóa pdf

GIÁO TRÌNH QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ VĂN HÓA - THÔNG TIN Đối tượng: Lớp QLVH Thời gian: 45 tiết Giảng viên soạn và giảng TS Phan Quốc Anh Mục đích – yêu cầu Môn học này nhằm mục đích cung cấp cho sinh viên những kiến thức cơ bản về QLNN nói chung và QLNN trong lĩnh vực VHTT nói riêng - Kiến thức chung về QLNN - Những đặc trưng cơ bản trong QLNN - Chức năng và nội dung QLNN về VHTT - Những cơ quan đảm trách chức năng QLNN Sau khi học môn này, SV có cơ sở để học chuyên sâu các môn QLNN chuyên ngành văn hóa Môn này gồm có 5 bài 1. Đại cương về Quản lý nhà nước về văn hóa 2. Các nguyên tắc quản lý nhà nước về văn hóa 3. Các phương thức quản lý nhà nước về văn hóa 4. Chính sách văn hóa 5. Các cơ quan QLNN về văn hóa

nguon tai.lieu . vn

  1. UỶ BAN NHÂN DÂN TỈNH LÀO CAI TRƯỜNG CAO ĐẲNG CỘNG ĐỒNG BÀI GIẢNG MÔN HỌC/ MÔ ĐUN: Quản lý nhà nước về văn hóa NGÀNH/NGHỀ: Quản lý văn hóa [ Áp dụng cho Trình độ trung cấp.] LƯU HÀNH NỘI BỘ NĂM 2017 1
  2. LỜI GIỚI THIỆU Quản lý nhà nước về văn hóa là sự tác động liên tục, có tổ chức, có chủ đích của Nhà nước bằng hệ thống pháp luật và bộ máy của mình, nhằm phát triển văn hóa, điều chỉnh hoạt động của mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân trong lĩnh vực văn hóa và liên quan, với mục đích giữ gìn và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống của Việt Nam, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Trong quá trình đổi mới thể chế, phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, đã tạo những tiền đề, điều kiện, môi trường,, đồng thời đặt ra những yêu cầu mới đối với văn hóa. Sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước đối với văn hóa, cũng như vai trò của tất cả các chủ thể trong xã hội về văn hóa, đã tạo nên bước phát triển mới của nền văn hóa Việt Nam. 2
  3. MỤC LỤC TRANG 1. Lời giới thiệu 02 2 Chương 1: Khái niệm quản lý văn hóa và đăc điểm quản lý văn hóa 04 3. Chương 2: Quan điểm quản lý văn hóa của ĐCSVN 11 4. Chương 3: Những yêu cầu đối với quản lý văn hóa 38 5. Chương 4: Các nguyên tắc của quản lý văn hóa 43 6. Chương 5 : Các phương thức quản lý văn hóa 20 7.Chương 6 : Phương pháp quản lý văn hóa 45 8.Chương 7: Quản lý văn hóa trong cơ chế thị trường 46 3
  4. Chương 1: Khái niệm quản lý văn hóa và đăc điểm quản lý văn hóa Mục tiêu: - Trình bày và phân tích khái niệm quản lý văn hóa, - Trình bày đặc điểm của quản lý văn hóa - Trình bày phạm vi và phạm vi của quản lý văn hóa Nội dung: 1.1. Khái niệm quản lý. 1.1.1. Định nghĩa: Theo F. Taylor: Quản lý là biết được chính sác điều bạn muốn người khác làm, và sau đó hiểu được rằng họ đã hoàn thành công việc một cách tốt nhất và rẻ nhất. Sau này ông Lerence chủ tịch hiệp hội các nhà kinh doanh Mỹ đã khái quát quan điểm của F. Taylor và cho rằng: Quản lý là thông qua người khác để đạt được mục tiêu của mình. [20, tr.11]. Cùng thời với F. Taylor, nhà quản lý hành chính người Pháp là H. Fayon lại định nghĩa quản lý theo các chức năng của nó. Theo H. Fayon: “Quản lý là dự đoán và lập kế hoạch, tổ chức, điều khiển, phối hợp và kiểm tra.” [15, tr.32] Trong tác phẩm “Những vấn đề cốt yếu của quản lý” Harold Koontz cho rằng: “Quản lý là một dạng thiết yếu, nó đảm bảo phối hợp nỗ lực cá nhân nhằm đạt được mục tiêu của nhóm. Ngoài ra ông còn cho rằng: Mục tiêu của nhà quản lý là nhằm hình thành một môi trường mà trong đó con người có thể đạt được các mục đích của nhóm với thời gian, tiền bạc, và sự bất mãn cá nhân ít nhất. Với tư cách thực hành thì quản lý là một nghệ thuật, còn kiến thức có tổ chức về quản lý là một khoa học” [22. tr.33] Theo Paul Hersey và KenBlanc Heard trong cuốn “Quản lý nguồn nhân lực” thì: Quản lý là một quá trình cùng làm việc giữa nhà quản lý và người bị quản lý nhằm thông qua hoạt động của cá nhân, của nhóm, huy động các nguồn lực khác để đạt mục tiêu của tổ chức.” [12, tr.17]. Ở Việt Nam tác giả Trần Kiểm cho rằng: “Quản lý là những tác hoạch định của chủ thể quản lý trong việc huy động, kết hợp, sử dụng, điều chỉnh, điều phối các nguồn lực [nhân lực, vật lực, tài lực] trong và ngoài tổ chức[ chủ yếu là nội lực] một cách tối ưu nhằm đạt mục đích của tổ chức với hiệu quả cao nhất [17, tr.74]. Vũ Dũng và Nguyễn Thị Mai Lan cho rằng: “ Quản lý là sự tác động có định hướng, có mục đích, có kế hoạch và có hệ thống thông tin của chủ thể đến khách thể của nó” [10] Theo Trần Quốc Thành: “ Quản lý là sựu tác động có ý thức của chủ thể quản lý để chỉ huy, điều khiển, hướng dẫn các quá trình quản lý xã hội, hành vi và hành động của con người nhằm đạt tới mục đích, đúng với ý chí nhà quản lý, phù hợp với quy luật khách quan” [33, tr.11]. Theo Nguyễn Quốc Chí và Đặng Thị Mỹ Lộc: “ Hoạt động quản lý là tác động có định hướng, có chủ đích của chủ thể quản lý [người quản lý] đến khách thể quản lý [ 4
  5. người bị quản lý] trong một tổ chức nhằm làm cho tổ chức vận hành và đạt mục đích của tổ chức” [29, tr.16]. Cho dù cách tiếp cận nào thì bản chất của hoạt động quản lý là cách thức tác động [tổ chức, điều khiển, kiểm tra] hợp quy luật của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý trong một tổ chức nhằm làm cho tổ chức vận hành đạt hiệu quả mong muốn và đạt mục tiêu đã đề ra. Quản lý vừa là một khoa học, vừa là một nghệ thuật – Quản lý là khoa học vì nó là lĩnh vực tri thức được hệ thống hóa và là đối tượng nghiên cứu khách quan đặc biệt. Quản lý là khoa học phân loại kiến thức, giải thích các mối quan hệ giữa chủ thể và khách thể quản lý, dự báo kết quả . – Quản lý là nghệ thuật bởi lẽ nó là hoạt động đặc biệt, trong đó quan hệ quan trọng nhất là con người, đòi hỏi phải vận dụng hết sức khéo léo, linh hoạt những kinh nghiệm đã quan sát được, những tri thức đã được đúc kết. Nghệ thuật đó thể hiện ở thái độ cư xử có văn hoá, khôn ngoan và tế nhị,trong việc vậndụng các nguyêntắc chung vào từng conngườicụthể. Nói cho cùng, nghệ thuật quản lý con người cũng là dựa trên các qui luật tâm lý học . 1.1.2. Vai trò của quản lý. Quản lý nhà nước về văn hóa có các đặc điểm sau: Một là, chủ thể quản lý nhà nước về văn hóa là Nhà nước. Nhà nước Việt Nam được tổ chức thống nhất từ Trung ương đến các địa phương, quyền quản lý được phân cấp: Cấp trung ương, cấp tỉnh [tỉnh và các thành phố trực thuộc Trung ương], cấp huyện [huyện thuộc tỉnh, quận thuộc thành phố], cấp xã [xã thuộc huyện, phường thuộc quận]. Quản lý nhà nước về văn hóa ở cấp nào thì cơ quan nhà nước cấp ấy là chủ thể quản lý. Quản lý nhà nước về văn hóa ở cấp xã thì ủy ban nhân dân xã là chủ thể quản lý nhà nước. Công chức làm công tác văn hóa - xã hội ở cấp xã có trách nhiệm giúp ủy ban nhân dân cấp xã quản lý nhà nước về văn hóa trên địa bàn cấp xã. Hai là, khách thể quản lý nhà nước về văn hóa là văn hóa và các cơ quan, tổ chức, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực văn hóa hoặc có liên quan đến lĩnh vực văn hóa. Văn hóa với tư cách là khách thể quản lý được hiểu theo nghĩa cụ thể là: Các hoạt động văn hóa [trong đó có các dịch vụ văn hóa, hoạt động sáng tạo...] và các giá trị văn hóa [cụ thể là các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể]. Mặt khác, theo sự phân công trong hệ thống các cơ quan nhà nước các cấp, không phải toàn bộ hoạt động văn hóa hiểu theo nghĩa rộng đều do ngành văn hóa quản lý. Văn hóa giáo dục, khoa học công nghệ... do cơ quan giáo dục, khoa học công nghệ quản lý. Ba là, mục đích quản lý nhà nước về văn hóa là giữ gìn và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống của Việt Nam, tiếp thu tinh hoa văn hóa truyền thống của Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Tuy nhiên, trong hoạt động quản lý nhà nước văn hóa ở từng cấp, từng địa phương, từng hoạt động thì mục đích quản lý nhà nước về văn hóa phải được xác định cụ thể sát với yêu cầu nhiệm vụ và hoàn cảnh của địa phương. Ví dụ quản lý nhà 5
  6. nước về Chương trình mục tiêu xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở thì cấp trung ương mục đích là gì; cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã là gì, phải được xác định một cách cụ thể. Có như vậy hoạt động quản lý mới hiệu quả. Bốn là, cơ sở pháp lý của quản lý nhà nước về văn hóa là Hiến pháp, luật và các văn bản quy phạm pháp luật. Như vậy, quản lý nhà nước nói chung và quản lý nhà nước về văn hóa nói riêng có công cụ là hệ thống luật và các văn bản có tính pháp quy. Quản lý bằng pháp luật chứ không phải bằng ý chí của nhà quản lý. Năm là, cách thức quản lý là “sự tác động liên tục, có tổ chức, có chủ đích” chứ không phải là việc làm có tính thời vụ, cũng không phải là sự thụ động của nhà quản lý, càng không phải là hoạt động đơn lẻ, tùy tiện của nhà quản lý. Đối với người làm công tác quản lý nhà nước về văn hóa phải luôn tự đặt câu hỏi và trả lời câu hỏi: Ai là người quản lý? Quản lý ai và quản lý cái gì? Quản lý vì cái gì? Trong tay mình đang có công cụ nào để quản lý? Ngoài 4 câu hỏi cơ bản trên, người quản lý có kinh nghiệm còn biết đặt một số câu hỏi có tính nghiệp vụ khác: Mình đã nắm chắc các công cụ đó chưa? [luật và các văn bản quy phạm pháp luật]. Hoạt động quản lý đang diễn ra trong điều kiện, hoàn cảnh nào? Trách nhiệm và quyền hạn quản lý nhà nước của cấp mình đến đâu?... Người làm công tác quản lý nhà nước về văn hóa dù ở cấp nào cũng cần trả lời các câu hỏi trên một cách thuần thục mới có thể thực thi nhiệm vụ quản lý có hiệu quả. 2.Quản lý văn hóa trong giai đoạn hiện nay Quản lý nhà nước về văn hóa trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường là một trong những lĩnh vực có rất nhiều vấn đề đặt ra. Việc xác định vấn đề nào là trọng tâm trong quản lý nhà nước về văn hóa hiện nay có ý nghĩa quan trọng, làm cơ sở cho việc đưa ra các giải pháp hữu hiệu nâng cao hiệu quả quản lý. Cần quan tâm một số vấn đề sau trong quản lý nhà nước về văn hóa hiện nay: - Trong thực tiễn hoạt động nhiều năm qua, đặc biệt trong thời kỳ đổi mới, một vấn đề lớn đặt ra là: Phát triển văn hóa chưa đồng bộ với phát triển kinh tế dẫn đến nhiều hệ lụy về phát triển xã hội, đồng thời làm cho phát triển kinh tế thiếu bền vững. Nguyên nhân chính của vấn đề đó là: Nhận thức chưa đầy đủ về văn hóa trong hoat động thực tiễn, đặc biệt trong hoạt động quản lý nhà nước về văn hóa. - Đổi mới kinh tế đi trước một bước. Đó là sự sáng tạo trong hoàn cảnh cụ thể ở nước ta chỉ có thể đạt hiệu quả với điều kiện phải nhận thức đúng là: Kinh tế đi trước một bước để tiếp tục đổi mới văn hóa - xã hội đồng bộ cùng với phát triển kinh tế. “Đi trước một bước” không có nghĩa là đổi mới kinh tế xong mới đổi mới văn hóa, “hy sinh văn hóa” để phát triển kinh tế. Trên thực tế, nhiều nơi, nhiều lúc yếu tố văn hóa đã bị coi nhẹ vì phát triển kinh tế. Nhìn tổng thể, đổi mới văn hóa chưa theo kịp đổi mới kinh tế. - Vai trò quản lý nhà nước về văn hóa chưa được nhận thức đúng đắn. Trong xã hội có người cho rằng văn hóa là nhu cầu của con người, nó phát sinh, phát triển theo nhu cầu tự nhiên, hãy để nó phát triển theo quy luật vốn có của nó. Những người có quan niệm như vậy không nhiều, nhưng quan niệm ấy lại là cái cớ để tồn tại những lệch lạc 6
  7. trong nhìn nhận quản lý nhà nước về văn hóa: Quản lý hay không quản lý thì văn hóa cũng cứ phát triển theo đường đi của nó. - Đổi mới nhận thức về quản lý nhà nước bất cập so với phát triển văn hóa. Các hoạt động văn hóa ngày càng đa dạng, các dịch vụ văn hóa cũng phát triển khá mạnh, một mặt đáp ứng nhu cầu của đời sống xã hội, mặt khác cũng gây nhiều hệ lụy với những đánh giá khác nhau, thậm chí trái ngược nhau, gây tâm trạng bất an trong xã hội. Quản lý nhà nước không theo kịp sự phát triển, thêm vào đó tồn tại cách hiểu sai “quản lý đến đâu, phát triển đến đó” dẫn đến nhận thức lệch lạc, quy quản lý nhà nước vào một việc cho và không cho [sinh ra tệ xin - cho với bao hệ lụy đi kèm], dẫn đến cách quản lý hạn chế sự phát triển “không quản lý được thì cấm”! Nói tóm lại, vấn đề nhận thức cho đúng quản lý nhà nước về văn hóa là gì, mục đích, ý nghĩa và cách thức quản lý ra sao, vẫn là những câu hỏi lớn đặt ra cho chúng ta nhiều vấn đề cần nghiên cứu, trao đổi, thảo luận làm sáng tỏ. 3. Đặc điểm về văn hóa khu vực trung du, miền núi, vùng dân tộc thiểu số Ở khu vực trung du, miền núi, vùng cao, các dân tộc cư trú tương đối tập trung. Song nhìn chung các dân tộc sống xen kẽ nhau, không có lãnh thổ riêng biệt như một số nước trên thế giới. Địa bàn cư trú của người Kinh chủ yếu ở đồng bằng, ven biển và trung du; còn các dân tộc thiểu số cư trú chủ yếu ở các vùng trung du, miền núi và vùng cao, một số dân tộc như Khơme, Hoa, một số ít người Chăm sống ở đồng bằng. Các dân tộc thiểu số có sự tập trung ở một số vùng, nhưng không cư trú thành những khu vực riêng biệt mà sống xen kẽ với các dân tộc khác. Cách đây khoảng nửa thế kỷ, Tây Nguyên nói chung, Đắk Lắk nói riêng, hầu hết cư dân vẫn là người tại chỗ, mỗi dân tộc đều có khu vực cư trú riêng, ranh giới giữa các tộc người, giữa các bản làng còn rõ ràng thì nay tình hình đã khác xa và xu hướng này còn tiếp tục gia tăng. Hiện nay, dân tộc Kinh cư trú ở Đắk Lắk chiếm tỷ lệ khá lớn. Cùng với người Kinh, các dân tộc thiểu số ở miền Bắc gần đây cũng di chuyển vào khu vực này [kể cả di chuyển theo kế hoạch và không theo kế hoạch] với số lượng khá lớn. Hiện nay, ở miền núi hầu như không có tỉnh, huyện nào chỉ có một dân tộc cư trú. Nhiểu tỉnh có tới trên 20 dân tộc cư trú như: Lai Châu, Lào Cai, Yên Bái, Hà Giang, Tuyên Quang, Lâm Đồng... Phần lớn các huyện có từ 5 dân tộc trở lên cư trú. Nhiều xã, bản, buôn có tới 3-4 dân tộc cùng sinh sống. Tình trạng cư trú xen kẽ giữa các dân tộc ở nước ta, một mặt có điều kiện để tăng cường hiểu biết lẫn nhau, hoà hợp và xích lại gần nhau; mặt khác cần đề phòng trường hợp do chưa thật hiểu nhau, khác nhau về phong tục tập quán nên xuất hiện mâu thuẫn, tranh chấp về lợi ích nhất là lợi ích kinh tế, dẫn đến va chạm giữa những người thuộc các dân tộc cùng sống trên một địa bàn. Ngày nay, tình trạng cư trú xen kẽ của các dân tộc chủ yếu dẫn tới sự giao lưu kinh tế - văn hóa giữa các dân tộc cũng như sự hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau. Do sống gần nhau, việc kết hôn giữa thanh niên nam, nữ thuộc các dân tộc khác nhau ngày càng phổ biến, càng có thêm điều kiện đoàn kết và hoà hợp giữa các dân tộc anh em. 7
  8. Phần lớn các dân tộc thiểu số ở nước ta cư trú ở vùng trung du, miền núi và vùng cao, chiếm 3/4 diện tích cả nước. Đây là khu vực có tiềm năng phát triển kinh tế to lớn mà trước hết là tiềm lực về tài nguyên rừng và đất rừng. Không những thế, trung du, miền núi còn có vai trò đặc biệt quan trọng về môi trường sinh thái đối với cả nước như điều hòa khí hậu, điều tiết nguồn nước, bảo vệ lớp đất màu trong mùa mưa lũ. Vị trí chiến lược quan trọng của khu vực trung du, miền núi đã được thực tế lịch sử khẳng định. Từ xưa đến nay, các thế lực thù địch bên ngoài đều sử dụng địa bàn miền núi để xâm lược, xâm nhập, phá hoại sự nghiệp dựng nước và giữ nước của nhân dân ta. Rừng núi đã từng là căn cứ địa cách mạng trong kháng chiến chống Pháp, Nhật, Mỹ. Trong giai đoạn hiện nay, miền núi - biên giới là thành lũy vững chắc của Tổ quốc, là địa bàn chiến lược về quốc phòng, an ninh trong việc bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia, chống âm mưu xâm nhập, gây bạo loạn, lật đổ bảo vệ sự nghiệp hòa bình, xây dựng chủ nghĩa xã hội Ở vùng biên giới, một số dân tộc có quan hệ đồng tộc với dân tộc của các nước láng giềng nên khách quan có nhu cầu thăm thân, mở rộng giao lưu kinh tế, văn hóa giữa các dân tộc ở hai bên biên giới. Bởi vậy, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta không chỉ vì lợi ích của các dân tộc thiểu số mà còn vì lợi ích của cả nước, không chỉ là đối nội mà còn là đối ngoại, không chỉ về kinh tế - xã hội, mà cả về chính trị, quốc phòng, an ninh quốc gia. Do những nguyên nhân lịch sử, xã hội và hoàn cảnh tự nhiên nên các dân tộc ở Việt Nam có trình độ phát triển kinh tế - xã hội không đều nhau. Các dân tộc sống ở vùng thấp có trình độ phát triển kinh tế - xã hội cao hơn các dân tộc thiểu số sống ở vùng sâu, vùng xa, vùng cao. Có những dân tộc thiểu số có đời sống kinh tế - xã hội còn thấp kém. Nhiều dân tộc cư trú trên địa bàn có điều kiện tự nhiên hết sức khó khăn, khắc nghiệt. Điều kiện canh tác nương rẫy không ổn định nên đời sống của đồng bào thường bấp bênh. Cuộc sống du canh, du cư thường dẫn tới đói nghèo, bệnh tật. Khu vực trung du, miền núi vùng dân tộc thiểu số là khu vực địa - văn hóa, địa - kinh tế, địa - chính trị... có đặc điểm riêng, khác với khu vực đồng bằng, ven biển, hải đảo. Trong quá trình sinh sống tại các khu vực địa lý khác nhau từ Bắc vào Nam, từ các khu vực rẻo cao, rẻo giữa, cao nguyên hay thung lũng, chân núi, đồng bằng, ven biển, châu thổ..., đồng bào các dân tộc đã sáng tạo ra nhiều giá trị văn hóa vật thể, phi vật thể đặc sắc mang đậm dấu ấn gắn với các điều kiện tự nhiên, vùng địa lý. Đó là những giá trị văn hóa do các cộng đồng dân tộc sáng tạo trong quá trình sinh tồn và phát triển giàu bản sắc riêng, tạo nên tính đa dạng trong tính thống nhất của văn hóa Việt Nam. Cùng với nền văn hóa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, mỗi dân tộc đều có một nền văn hóa mang bản sắc riêng từ lâu đời, phản ánh truyền thống, lịch sử và niềm tự hào dân tộc. Bản sắc văn hóa dân tộc là tất cả những giá trị vật chất và tinh thần, bao gồm tiếng nói, chữ viết, văn học, nghệ thuật, kiến trúc, y phục, tâm lý, tình cảm, phong tục, tập quán, tín ngưỡng... được sáng tạo trong quá trình phát triển lâu dài của lịch sử. Sự phát triển rực rỡ bản sắc văn hóa mỗi dân tộc càng làm phong phú nền văn 8
  9. hóa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Thống nhất trong đa dạng là nét riêng, độc đáo của nền văn hóa các dân tộc Việt Nam. Sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam trong thời kỳ mới phải hướng vào việc củng cố và tăng cường sự thống nhất, nhân lên sức mạnh tinh thần chung của toàn dân tộc. Đồng thời phải khai thác và phát triển mọi sắc thái và giá trị văn hóa của các dân tộc, đáp ứng nhu cầu văn hóa tinh thần ngày càng cao và nhu cầu phát triển từng dân tộc. Vấn đề đặt ra trong quản lý và tổ chức các họat động văn hóa, gia đình, thể thao và du lịch trên địa bàn xã khu vực trung du, miền núi vùng dân tộc đối với công chức làm công tác văn hóa - xã hội cấp xã là rất lớn, phức tạp và khó khăn đòi hỏi người cán bộ không chỉ có trang bị và nâng cao kiến thức, kỹ năng quản lý mà còn phải có tình yêu quê hương, hiểu biết sâu sắc về quê hương bản quán, phong tục tập quán, bản sắc dân tộc và những xu thế biến đổi của thế giới, đất nước, địa phương đặc biệt là trên địa bàn xã trong phạm vi quản lý để kịp thời điều chỉnh những vấn đề đặt ra trong công tác quản lý văn hóa, gia đình, thể thao và du lịch cho phù hợp và ngày càng phát triển, đáp ứng với nhu cầu ngày càng cao của nhân dân trên địa bàn xã. 1.2. Quản lý Văn hóa 1.2.1. Khái niệm văn hóa. Văn hóa là gi? Theo GS.TSKH. Trần Ngọc Thêm, Từ “văn hoá” có nhiều nghĩa, nó được dùng để chỉ những khái niệm có nội hàm hết sức khác nhau. Tuy được dùng theo nhiều nghĩa khác nhau, nhưng suy cho cùng, khái niệm “văn hoá” bao giờ cũng có thể quy về hai cách hiểu chính: theo nghĩa hẹp và theo nghĩa rộng. Theo nghĩa hẹp, văn hoá được giới hạn theo chiều sâu hoặc theo chiều rộng, theo không gian hoặc theo thời gian… Giới hạn theo chiều sâu, văn hóa được hiểu là những giá trị tinh hoa của nó [nếp sống văn hoá, văn hoá nghệ thuật…]. Giới hạn theo chiều rộng, văn hoá được dùng để chỉ những giá trị trong từng lĩnh vực [văn hoá giao tiếp, văn hoá kinh doanh…]. Giới hạn theo không gian, văn hoá được dùng để chỉ những giá trị đặc thù của từng vùng [văn hoá Tây Nguyên, văn hoá Nam Bộ…]. Giới hạn theo thời gian, văn hoá được dùng để chỉ những giá trị trong từng giai đoạn [văn hoá Hoà Bình, văn hoá Đông Sơn…]… Theo nghĩa rộng, văn hoá thường được xem là bao gồm tất cả những gì do con người sáng tạo ra. Năm 1940, Hồ Chí Minh đã viết: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về ăn, mặc, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn” [Hồ Chí Minh 1995: 431]. Federico Mayor, Tổng giám đốc UNESCO, cho biết: “Đối với một số người, văn hóa chỉ bao gồm những kiệt tác tuyệt vời trong các lĩnh vực tư duy và sáng tạo; đối với 9
  10. những người khác, văn hóa bao gồm tất cả những gì làm cho dân tộc này khác với dân tộc khác, từ những sản phẩm tinh vi hiện đại nhất cho đến tín ngưỡng, phong tục tập quán, lối sống và lao động. Cách hiểu thứ hai này đã được cộng đồng quốc tế chấp nhận tại Hội nghị liên chính phủ về các chính sách văn hoá họp năm 1970 tại Venise” [UNESCO 1989: 5]. Theo Đoàn Văn Chúc cho rằng: Văn hóa – vô sở bất tại: Văn hóa – không nơi nào không có! Điều này cho thấy tất cả những sáng tạo của con người trên nền của thế giới tự nhiên là văn hóa, nơi nào có con người nơi đó có văn hóa. Khi nghiên cứu về bản sắc văn hóa Việt Nam, Trần Ngọc Thêm cho rằng: Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội của mình. Năm 2002, UNESCO đã đưa ra định nghĩa về văn hóa như sau: Văn hóa nên được đề cập đến như là một tập hợp của những đặc trưng về tâm hồn, vật chất, tri thức và xúc cảm của một xã hội hay một nhóm người trong xã hội và nó chứa đựng, ngoài văn học và nghệ thuật, cả cách sống, phương thức chung sống, hệ thống giá trị, truyền thống và đức tin. Cũng chính vì thế văn hóa biểu trưng cho sự phát triển của loài người qua các thế hệ. Một đất nước giàu truyền thống văn hóa là một đất nước giàu có về tinh thầ Văn hóa là sản phẩm của loài người, văn hóa được tạo ra và phát triển trong quan hệ qua lại giữ con người và xã hội. Song, chính văn hóa lại tham gia vào việc tạo nên con người, và duy trì sự bền vững và trật tự xã hội. Văn hóa được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác thông qua quá trình xã hội hóa. Văn hóa được tái tạo và phát triển trong quá trình hành động và tương tác xã hội của con người. Văn hóa là trình độ phát triển của con người và của xã hội được biểu hiện trong các kiểu và hình thức tổ chức đời sống và hành động của con người cũng như trong giá trị vật chất và tinh thần mà do con người tạo ra. Theo Đại từ điển Tiếng Việt – Trung tâm Ngôn ngữ và Văn hóa Việt Nam. Bộ GD- ĐT, NXB Văn hóa Thông tin – 1999 [tr. 1796] thì văn hóa là [1] những giá trị vật chất, tinh thần do con người tạo ra trong lịch sử: nền văn hóa các dân tộc; kho tàng văn hóa dân tộc. [2] Đời sống tinh thần của con người: phát triển kinh tế và văn hóa; chú ý đời sống văn hóa của nhân dân. [3] Tri thức khoa học, trình độ học vấn: trình độ văn hóa; học các môn văn hóa. [4] Lối sống, cách ứng xử có trình độ cao: người có văn hóa; gia đình văn hóa mới. [5] Nền văn hóa một thời kì lịch sử cổ xưa, xác định được nhờ tổng thể các di vật tìm được có những đặc điểm chung: văn hóa Đông Sơn; văn hóa rìu hai vai. Trong từ điển học sinh do NXB Giáo dục ấn hành năm 1971 viết: “Văn hóa” là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần [như trình độ sản xuất, khoa học, văn học nghệ thuật, nếp sống, đạo đức, tập quán…] mà loài người sáng tao ra nhằm phục vụ những nhu cầu của mình trong quá trình lịch sử. Hay là: “Trình độ hiểu biết về những giá trị tinh thần thuộc về một thời kì lịch sử nhất định” 10
  11. 1.2.2. Quản lý văn hóa phạm vi và đối tượng quản lý văn hóa ĐỐI TƯỢNG QUẢN LÝ Bí quyết thành công trong hoạt động của con người là nắm vững tâm hồn của con người như Xôcơrát đã nói: “Ai tự biết mình sẽ sống hạnh phúc”. hoặc Tôn Tân trong binh thư yếu lược có ghi ”Biết mình, biết người thì trăm trận đánh thắng cả trăm” 1. Con người trong quản lý. Con người: – Con: TTTN – Người: TTXH Con người đóng vai trò trong chủ đạo trong hệ thống quản lý. Cần xem xét quản lý theo quan điểm con người và những họat động của họ trên 3 phương diện. – Con người với tư cách là chủ thể quản lý. – Con người với tư cách là đối tượng quản lý – Quan hệ giữa chủ thể và đối tượng quản lý. Đối với sự tồn tại và phát triển của mỗi quốc gia, con người luôn luôn là nhân tố quyết định. Trong hoạt động quản lý nói riêng, trong sự phát triển kinh tế-xã hội nói chung con người người có đức, có tài là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước. Muốn quản lý xã hội khoa học thì trước hết phải quản lý con người một cách khoa học Nếu tác động tốt, hợp qui luật thì con người sẽ trở thành kỳ diệu, mọi tiềm năng của con người được phát huy. Nếu tác động xấu, trái qui luật thì tài năng con người sẽ bị thui chột, tính sáng tạo sẽ bị triệt tiêu, con người sẽ phát triển theo chiều hướng lệch lạc làm tiêu cực hóa nhântố con người gây nên những hậu quả xã hội hết sức năng nề. Trong lãnh đạo quản lý sai lầm nào cũng trả giá, nhưng sai lầm về con người thì lịch sử đã cho những bài học khắc nghiệt Vậy cái gì đã thức đẩy con người hành động. Điều đó phụ thuộc vào ý thức và nhận thức trong định hướng giá trị của mình mà thể hiện bằng hành vi động cơ thúc đẩy có ở mỗi người. Công việc của người quản lý là phải nắm được động cơ thúc đẩy công việc của người dưới quyền . Chương 2: Quan điểm quản lý văn hóa của ĐCSVN Mục tiêu: - Trình bày quản điểm quản lý văn hóa của Đảng cộng sản Việt Nam - Trình bày và phân tích được quan điểm xây dựng nền văn hóa của đất nước trong giai đoạn hiện nay. - Trình bày các quan điểm chỉ đạo cơ bản của Nhà nước về văn hóa 11
  12. - Nêu các giải pháp và nhiệm vụ cơ bản của quản lý Nhà nước về văn hóa. Nội dung: 2.1. Quan điểm quản lí văn hóa trong điều kiện thực tế ở VN 2.1.1. Quan niệm của TG về thị trường Thị trường là nơi chuyển giao quyền sở hữu sản phẩm, dịch vụ hoặc tiền tệ, nhằm thỏa mãn nhu cầu của hai bên cung và cầu về một loại sản phẩm nhất định theo các thông lệ hiện hành, từ đó xác định rõ số lượng và giá cả cần thiết của sản phẩm, dịch vụ. Thực chất, Thị trường là tổng thể các khách hàng tiềm năng cùng có một yêu cầu cụ thể nhưng chưa được đáp ứng và có khả năng tham gia trao đổi để thỏa mãn nhu cầu đó. Theo marketing, thị trường bao gồm tất cả khách hàng hiện có và tiềm năng có cùng một nhu cầu hay mong muốn cụ thể, có khả năng và sẵn sàng tham gia trao đổi để thỏa mãn nhu cầu hoặc mong muốn đó. Thị trường là một tập hợp những người mua và người bán tác động qua lại lẫn nhau, dẫn đến khả năng trao đổi.[1] Thị trường là nơi diễn ra các hoạt động mua và bán một thứ hàng hóa nhất định nào đó. Với nghĩa này, có thị trường gạo, thị trường cà phê, thị trường chứng khoán, thị trường vốn, v.v... Cũng có một nghĩa hẹp khác của thị trường là một nơi nhất định nào đó, tại đó diễn ra các hoạt động mua bán hàng hóa và dịch vụ. Với nghĩa này, có thị trường Hà Nội, thị trường miền Trung. Còn trong kinh tế học, thị trường được hiểu rộng hơn, là nơi có các quan hệ mua bán hàng hóa, dịch vụ giữa vô số những người bán và người mua có quan hệ cạnh tranh với nhau, bất kể là ở địa điểm nào, thời gian nào. Thị trường trong kinh tế học được chia thành ba loại: thị trường hàng hóa - dịch vụ [còn gọi là thị trường sản lượng], thị trường lao động, và thị trường tiền tệ. Các biểu hiện của thị trường  Chợ truyền thống : Nơi người mua và người bán trực tiếp thỏa thuận [mặc cả] giá của hàng hóa  Chợ onlline: Nơi người mua được lựa chọn và so sánh giá cả  Siêu thị: Nơi người bán quyết định giá cả, người mua chỉ được quyền chọn lựa  Chứng khoán: Người mua và người bán đều phải thông qua môi giới trung gian  Đấu giá: Nơi người mua được quyền quyết định giá 2.1.2. Những đặc điểm chung của nền KT thị trường Thị trường thế giới có 4 đặc điểm: - Thị trường thế giới hiện nay là một hệ thống toàn cầu. Trong những năm qua thị trường thế giới có nhiều biến động. 12
  13. -Trong cơ cấu hàng xuất khẩu trên TG, chiếm tỷ trọng ngày càng cao là các sản phẩm công nghiệp chế biến, các mặt hàng nông sản có xu hướng giảm tỷ trọng - Hoạt động buôn bán trên TG tập trung vào các nước TBCN phát triển - Các cường quốc về XNK chi phối mạnh mẽ nền KTTG và đồng tiền của những nước này là ngoại tệ mạnh trong hệ thống tiền tệ thế giới 2.2. Vai trò của VH với sự phát triển KT- XH Vị trí và vai trò của văn hóa trong đổi mới-phát triển: Thực tiễn và những vấn đề đặt ra I. Đánh giá khái quát Trong quá trình đổi mới thể chế, phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, đã tạo những tiền đề, điều kiện, môi trường,, đồng thời đặt ra những yêu cầu mới đối với văn hóa. Sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước đối với văn hóa, cũng như vai trò của tất cả các chủ thể trong xã hội về văn hóa, đã tạo nên bước phát triển mới của nền văn hóa Việt Nam. Những thành tựu cũng như yếu kém, bất cập trong phát triển văn hóa, đã được tổng kết - đánh giá chính thức nêu trong các văn kiện của Đảng [Nghị quyết các Đại hội Đảng và nghị quyết các Hội nghị Trung ương Đảng], Nhà nước. Xin nêu khái quát như sau: 1. Kết quả chủ yếu Sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đã có chuyển biến tích cực, đạt kết quả quan trọng: Tư duy lý luận về văn hóa có bước phát triển; nhận thức về văn hóa của các cấp, các ngành và toàn dân được nâng lên. Đời sống văn hóa của nhân dân ngày càng phong phú, nhiều giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc được phát huy, nhiều chuẩn mực văn hóa, đạo đức mới được hình thành. Văn hóa đã góp phần quan trọng nâng cao dân trí, dân chủ hóa đời sống xã hội, nâng cao tính năng động sáng tạo, tự chủ và tính tích cực xã hội của con người, hình thành các nhân tố mới, giá trị mới của con người Việt Nam. Sản phẩm văn hóa, văn học nghệ thuật ngày càng phong phú, đa dạng; công nghệ thông tin, nhất là thông tin đại chúng có bước phát triển mạnh mẽ. Nhiều phong trào, hoạt động văn hóa đạt được những kết quả cụ thể, thiết thực; phát huy được truyền thống văn hóa gia đình, dòng họ, cộng đồng... Xã hội hóa hoạt động văn hóa ngày càng được mở rộng, góp phần đáng kể vào việc xây dựng các thiết chế văn hóa. Nhiều di sản văn hóa vật thể và phi vật thể được bảo tồn, tôn tạo; nhiều phong tục, tập quán của đồng bào dân tộc thiểu số được nghiên cứu, sưu tầm và phục dựng; hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo và sinh hoạt văn hóa tâm linh của nhân dân được quan tâm. Công tác quản lý nhà nước về văn hóa được tăng cường, thể chế văn hóa từng bước được hoàn thiện. Đội ngũ làm công tác văn hóa, văn nghệ có bước trưởng thành; quyền tự do sáng tạo của văn nghệ sĩ được tôn trọng. Giao lưu và hợp tác quốc tế về văn hóa có nhiều khởi sắc. 13
  14. 2. Những hạn chế, yếu kém So với những thành tựu trên lĩnh vực chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, thành tựu trong lĩnh vực văn hóa chưa tương xứng; chưa đủ để tác động có hiệu quả xây dựng con người và môi trường văn hóa lành mạnh. Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong Đảng và trong xã hội có chiều hướng gia tăng. Đời sống văn hóa tinh thần ở nhiều nơi còn nghèo nàn, đơn điệu; khoảng cách hưởng thụ văn hóa giữa miền núi, vùng sâu, vùng xa với đô thị và trong các tầng lớp nhân dân chậm được rút ngắn. Môi trường văn hóa còn tồn tại tình trạng thiếu lành mạnh, ngoại lai, trái với thuần phong mỹ tục; tệ nạn xã hội, tội phạm có chiều hướng gia tăng . Còn ít những tác phẩm văn học, nghệ thuật có giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật, có một số tác phẩm chạy theo thị hiếu tầm thường, chất lượng thấp, thậm chí có hại. Hoạt động lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật chưa theo kịp thực tiễn sáng tác. Việc bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa hiệu quả chưa cao, nguy cơ mai một chưa được ngăn chặn. Hệ thống thông tin đại chúng phát triển thiếu quy hoạch khoa học, gây lãng phí nguồn lực và quản lý không theo kịp sự phát triển. Một số cơ quan truyền thông có biểu hiện thương mại hóa, xa rời tôn chỉ, mục đích . Cơ chế, chính sách về kinh tế trong văn hóa, văn hóa trong kinh tế, về huy động, quản lý các nguồn lực cho văn hóa chưa cụ thể, rõ ràng. Hệ thống thiết chế văn hóa và cơ sở vật chất, kỹ thuật cho hoạt động văn hóa còn thiếu và yếu, có nơi xuống cấp, thiếu đồng bộ, hiệu quả sử dụng thấp. Công tác quy hoạch, đào tạo, bố trí cán bộ lãnh đạo, quản lý văn hóa các cấp, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao còn nhiều hạn chế, bất cập. Tình trạng nhập khẩu, quảng bá, tiếp thu dễ dãi, thiếu chọn lọc sản phẩm văn hóa nước ngoài đã tác động tiêu cực đến đời sống văn hóa của một bộ phận nhân dân, nhất là lớp trẻ. 3. Nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém Nhiều cấp ủy, chính quyền chưa quan tâm đầy đủ lĩnh vực này; lãnh đạo, chỉ đạo chưa thật quyết liệt. Việc cụ thể hóa, thể chế hóa Nghị quyết của Đảng còn chậm, thiếu đồng bộ và trong một số trường hợp thiếu khả thi. Công tác quản lý nhà nước về văn hóa chậm được đổi mới, có lúc, có nơi bị xem nhẹ, thậm chí buông lỏng; kỷ luật, kỷ cương không nghiêm. Đầu tư cho lĩnh vực văn hóa chưa tương xứng và còn dàn trải. Chưa nắm bắt kịp thời những vấn đề mới về văn hóa để đầu tư đúng hướng và có hiệu quả. Chưa quan tâm đúng mức công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực hoạt động trong lĩnh vực văn hóa, nhất là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp. II. Về vị trí, vai trò của văn hóa đối với sự phát triển Những đánh giá khái quát về sự phát triển văn hóa trong những năm đổi mới như nêu trên là xác đáng. Tuy nhiên, cần làm rõ hơn vai trò của văn hóa đối với sự phát triển của đất nước, trong quá trình đổi mới, làm rõ hơn những vấn đề đặt ra đối với sự phát 14
  15. triển văn hóa trong giai đoạn mới. 1. Cách tiếp cận về văn hóa và vai trò của văn hóa 1]. Văn hóa có vị trí và vai trò đặc biệt đối với sự phát triển của một quốc gia. Tuy nhiên, khi nhìn nhận về vị trí và vai trò của văn hóa đối với sự phát triển thường có những cách tiếp cận khác nhau, điều đó một phần quan trọng phụ thuộc vào quan niệm về văn hóa. Hiện nay, theo một số thống kê chưa đầy đủ có khoảng hơn 400 định nghĩa [khái niệm] về văn hóa với những giác độ tiếp cận khác nhau. Năm 2002, Tổ chức văn hóa, khoa học và giáo dục Liên hiệp quốc [UNESCO] đã đưa ra định nghĩa: “Văn hóa nên được đề cập đến như là một tập hợp những đặc trưng về tâm hồn, vật chất, tri thức và xúc cảm của một xã hội hay một nhóm người trong xã hội và nó chứa đựng, ngoài văn học và nghệ thuật, cả cách sống, phương thức chung sống, hệ thống giá trị, truyền thống và đức tin” . Theo định nghĩa của UNESCO, văn hóa chứa đựng cả yếu tố vật chất và phi vật chất, tuy nhiên vai trò chủ yếu của văn hóa là về lĩnh vực tinh thần - phi vật chất [tâm hồn, tri thức, cảm xúc, văn học, nghệ thuật, phương thức chung sống, hệ thống giá trị, đức tin…]. Hơn nữa, theo định nghĩa này văn hóa thuộc phạm trù của cả một xã hội hay một nhóm người, như vậy vai trò của văn hóa trong cá nhân con người và vai trò của văn hóa trong thể chế chính trị - xã hội [nhất là nhà nước] đã không được đề cập tới. 2]. Quan niệm của Đảng ta về văn hóa cũng có những bước phát triển. Năm 1986, Đảng ta kế thừa và phát triển quan điểm về văn hóa của các giai đoạn trước, đưa ra quan điểm: “Văn hóa là nhu cầu thiết yếu của đời sống con người, thể hiện trình độ phát triển chung của đất nước, là lĩnh vực sản xuất tinh thần, tạo ra các giá trị, sản phẩm làm giàu đẹp cuộc sống”. Năm 1998, Nghị quyết T.Ư 5 [khóa VIII] của Đảng về “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, khẳng định “Văn hóa Việt Nam là tổng thể những giá trị vật chất và tinh thần do cộng đồng các dân tộc Việt Nam sáng tạo ra trong quá trình dựng nước và giữ nước…, là kết quả giao lưu và tiếp thu tinh hoa của nhiều nền văn minh thế giới để không ngừng hoàn thiện mình. Văn hóa Việt Nam đã hun đúc nên tâm hồn, khí phách, bản lĩnh Việt Nam, làm rạng rỡ lịch sử vẻ vang của dân tộc”. “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội”. Nghị quyết Trung ương 9 [khóa XI] “Về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước” đã nhấn mạnh “Xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển bền vững đất nước. Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội”. Tiếp tục phát triển các quan điểm trước đây về phát triển văn hóa, Đại hội XII của 15
  16. Đảng đã nhấn mạnh quan điểm văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, sức mạnh nội sinh hun đúc nên phẩm chất, cốt cách con người Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước. Nhấn mạnh xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong bối cảnh kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Như vậy, quan niệm của Đảng ta về văn hóa cũng khảng định “Văn hóa là tổng thể những giá trị vật chất và tinh thần”, nhưng đồng thời khẳng định vai trò của văn hóa “là nhu cầu thiết yếu của đời sống con người”, “ là lĩnh vực sản xuất tinh thần, tạo ra các giá trị, sản phẩm làm giàu đẹp cuộc sống”, “là nền tảng tinh thần của xã hội, sức mạnh nội sinh”, “là mục tiêu, động lực phát triển bền vững đất nước”. Đồng thời chỉ rõ vị trí của văn hóa - “Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội”. Ở đây có thể nêu lên hai nhận xét: Thứ nhất, Đảng ta vẫn xếp văn hóa thuộc lĩnh vực tinh thần, và do đó vai trò của văn hóa chủ yếu thuộc lĩnh vực tinh thần. Thứ hai, mặt khác, khi khẳng định văn hóa “là sức mạnh nội sinh” của sự phát triển, và “Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội ”, đã cho thấy trên thực tế vị trí và vai trò của văn hóa chưa được nhận thức và coi trọng đúng mức, văn hóa chưa được tiếp cận là nội dung mang tính bản chất, hữu cơ của chính các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, vẫn còn được coi là yếu tố “bên ngoài, bên cạnh” tác động qua lại với các lĩnh vực kinh tế, chính trị và xã hội. Khi chưa nhận thức rõ văn hóa là một trong những nền tảng cốt lõi, cơ bản, mang tính bản chất của sự phát triển của cả kinh tế, chính trị và xã hội, thì trên thực tế chưa xác định đúng vị trí và vai trò của Văn hóa. Và khi đó văn hóa chưa thể đóng vai trò là sức mạnh nội sinh của sự phát triển. 3]. Để xác định đúng vị trí và vai trò của văn hóa đối với sự phát triển, cần thiết phải nhận thức sâu sắc quan niệm của Hồ Chí Minh về văn hóa. Năm 1943 Người nêu lên quan niệm tổng quát về văn hóa là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do loài người sáng tạo ra, Người viết: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoại hằng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hoá. Văn hoá là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”. Quan niệm tổng quát của Hồ Chí Minh về văn hóa cho thấy, văn hóa không chỉ là lĩnh vực tinh thần, văn hóa chính là đời sống lao động sáng tạo gắn với phương thức tổ chức đời sống của xã hội loài người, văn hóa vừa là nhân tố bản chất bên trong vừa là kết quả trực tiếp của quá trình phát triển con người, của nền sản xuất xã hội và của các hình thức tổ chức tồn tại và phát triển của mỗi quốc gia, của xã hội loài người. Hay nói một cách khái quát, văn hóa là phương thức tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Có thể chính vì vậy mà cách đây 7 thập kỷ, từ những ngày đầu cách mạng mới thành công, Hồ Chí Minh đã nói đến nguyên lý “Văn hoá soi đường quốc dân đi”. Rõ ràng Người đã xác định rất sâu sắc vai trò của văn hóa đối với sự phát 16
  17. triển của đất nước. Ngoài nghĩa tổng quát về văn hóa, Hồ Chí Minh cũng nói về văn hóa theo nghĩa hẹp là những giá trị tinh thần: “Trong công cuộc kiến thiết nước nhà, có bốn vấn đề cần chú ý đến, cũng phải coi là quan trọng ngang nhau: chính trị, kinh tế, xã hội, văn hoá. Nhưng văn hoá là một kiến trúc thượng tầng [báo Cứu quốc, tháng 8- 1945]; hoặc theo nghĩa rất hẹp, văn hoá đơn giản chỉ là trình độ học vấn của con người, Người yêu cầu mọi người “phải đi học văn hóa”, “xóa mù chữ”...Có thể thấy nghĩa hẹp và nghĩa rất hẹp về văn hóa trong quan niệm của Hồ Chí Ninh cũng nằng trong quan niệm phổ quát của Người về văn hóa. Cùng cách tiếp cận về văn hóa với Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng cho rằng “văn hóa…bao gồm tất cả những gì không phải là thiên nhiên mà có liên quan đến con người trong suốt quá trình tồn tại, phát triển, quá trình con người làm nên lịch sử…, bao gồm cả hệ thống giá trị: tư tưởng và tình cảm, đạo đức với phẩm chất, trí tuệ và tài năng, sự nhạy cảm và sự tiếp thu cái mới từ bên ngoài, ý thức bảo vệ tài sản và bản lĩnh của cộng đồng dân tộc, sức đề kháng và sức chiến đấu bảo vệ mình và không ngừng lớn mạnh” . Theo quan niệm này, văn hóa là những gì không phải là thiên nhiên và do con người sáng tạo nên. Tuy nhiên, với sự phát triển của loài người, nhất là về khoa học - công nghệ, thiên nhiên “hoang sơ” không có dấu chân người cũng không còn nữa. Vì vậy, thiên nhiên ngày nay cũng có thể nói là thiên nhiên văn hóa rồi, con người và thiên nhiên hòa quyện với nhau trở thành một thực thể văn hóa. Điều đó đang nói lên một vai trò rất mới của văn hóa – văn hóa sinh thái. Chính vì vậy, Liên hợp quốc đã đưa ra khái niệm phát triền bền vững là phát triển bền vững cả về kinh tế, chính trị - xã hội, văn hóa và môi trường sinh thái. Có thể nói quan niệm phát triển bền vững là một giá trị văn hóa tổng hợp của sự phát triền trong thời đại ngày nay, và trở thành một giá trị nhân loại. 2. Nhận thức về “Văn hóa là sức mạnh nội sinh của sự phát triển” Khi đã khẳng định “Văn hóa là sức mạnh nội sinh của sự phát triển” thì cần nhận thức sâu sắc rằng, để trở thành sức mạnh nội sinh văn hóa phải ở “bên trong” và là một yếu tố - nội dung mang tính bản chất của kinh tế, chính trị, xã hội và môi trường sinh thái. Văn hóa không thể nhìn nhận chỉ như những yếu tố “bên ngoài, bên cạnh” tác động qua lại với kinh tế, chính trị, xã hội và môi trường sinh thái, mặc dù văn hóa được nhìn nhận có tính độc lập tương đối với các lĩnh vực này. Khi đã nhận thức “Văn hóa là sức mạnh nội sinh của sự phát triển” thì một vấn đề cần được trả lời tiếp là văn hóa nằm ở đâu ? trong các chủ thể nào ? của chủ thể nào ? trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội và môi trường sinh thái. Cần phải thấy rằng văn hóa nằm trong tất cả các chủ thể, các thiết chế, các tổ chức, các đối tượng chịu sự tác động qua lại của các chủ thể với con người và hoạt động của con người trong xã hội. Có thể nêu lên các chủ thể cơ bản của văn hóa là: Quốc gia - Dân tộc; Hệ thống chính trị; Đảng và các tổ chức trong hệ thống của Đảng; Nhà nước và các tổ chức trong hệ thống quyền lực nhà nước; Hệ thống các tổ chức chính trị - xã hội; các tổ chức xã hội, xã hội nghề nghiệp;Hệ thống các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế khác; Hệ thống các đơn vị sự 17
  18. nghiệp; Các gia đình, dòng họ; Các cộng đồng người, tộc người; Các cá nhân;… Khi xác định “Văn hóa là sức mạnh nội sinh của sự phát triển” thì tất yếu phải làm rõ sức mạnh nội sinh mang tính bản chất cốt lõi của văn hóa trong các chủ thể này trong quá trình vận động và phát triển. Bản chất văn hóa cốt lõi trong các chủ thể đó lại phụ thuộc một cách căn bản vào chức năng và vai trò xã hội của từng chủ thể. Có chủ thể có chức năng và vai trò là lãnh đạo - quản lý xã hội [như các tổ chức Đảng cầm quyền và tổ chức Nhà nước], có chủ thể hoạt động theo cơ chế tự chủ trong xã hội trong khuôn khổ pháp luật, có chủ thể có vị trí là người “bị lãnh đạo - quản lý”…Điều đó cho thấy trong mỗi chủ thể có hai chức năng văn hóa khác nhau : chức năng văn hóa là sức mạnh nội sinh cho hoạt động và phát triển của chính chủ thể đó, và chức năng văn hóa tác động [tương tác] với các chủ thể khác trong xã hội. Hai chức năng văn hóa này trong mỗi chủ thể liên quan mật thiết - biện chứng với nhau tạo thành bản chất văn hóa của chủ thể; đồng thời bản chất văn hóa của mỗi chủ thể lại tương tác hữu cơ với bản chất văn hóa của các chủ thể khác trong xã hội theo những phương thức khác nhau: thuận chiều, lệch chiều, ngược chiều, cộng hưởng, thúc đẩy hay kìm hãm, hạn chế, áp đặt…Quá trình tương tác này tạo thành bản chất văn hóa ở cấp độ hệ thống cao hơn, rộng hơn, lên tới cấp Quốc Gia - Dân tộc, kết nối với quốc tế. Xét trên bình diện Quốc gia - Dân tộc thì bản chất - vị trí - vai trò - chức năng văn hóa của hai chủ thể là Đảng cầm quyền và Nhà nước có tầm quan trọng “áp đặt” và chi phối mạnh nhất đối với tất các chủ thể khác trong xã hội, vì hai chủ thể này có vai trò lãnh đạo - quản lý sự phát triển của xã hội. Điều này không đồng nghĩa với việc bản chất - vị trí - vai trò - chức năng văn hóa của hai chủ thể là bất kỳ Đảng cầm quyền nào và Nhà nước nào, khi nào và luôn luôn có tác động tích cực, thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Điều này còn phụ thuộc một cách quyết định vào bản chất và giá trị văn hóa mà Đảng cầm quyền và Nhà nước “đặt ra” cho xã hội, định hướng phát triển xã hội. Trên thế giới, không ít Đảng cầm quyền cùng với Nhà nước do Đảng đó lãnh đạo đã bị thất bại [mất quyền lãnh đạo, hay để đất nước rơi vào trì trệ, khủng hoảng sau một thời gian cầm quyền có thể là rất dài trong hàng nhiều thập kỷ], một trong những lý do cơ bản là Đảng cầm quyền và Nhà nước đó đã đưa ra những giá trị văn hóa - giá trị xã hội không phù hợp [hay mâu thuẫn] với yêu cầu khách quan của sự phát triển, mâu thuẫn [có khi tạo nên sự xung đột] với những giá trị văn hóa của các chủ thể khác trong xã hội, nhất là giá trị văn hóa của con người, của gia đình, các cộng đồng và hệ thống các doanh nghiệp. Khi đó văn hóa không tạo được [và không là] sức mạnh nội sinh của sự phát triển của từng chủ thể, và nhất là không tạo được sức mạnh nội sinh cho sự phát triển của toàn bộ hệ thống xã hội - của quốc gia. Bởi vì mọi điều áp đặt các giá trị trái quy luật có thể đưa lại sức mạnh nhất thời, nhưng rồi sẽ phải “trả giá” bằng những thất bại, nếu không có sự điều chỉnh kịp thời. Về điều này rất cần nhớ lời F. Engghen đã nói : Một dân tộc đi xâm lược dân tộc khác, bằng bạo lực có thể áp đặt quyền cai trị lên dân tộc đó, nhưng sẽ không đồng hóa được dân tộc đó nếu dân tộc đi xâm lược có trình độ văn hóa thấp hơn, mà ngược lại, sẽ bị dân tộc bị xâm lược đồng hóa ngược lại. Trong lịch sử hơn một ngàn năm bị Bắc thuộc của dân tộc ta cũng nói lên điều này 18
  19. : Dưới các lũy tre làng của Việt Nam chứa đựng những giá trị văn hóa - sức mạnh nội sinh mà phong kiến Phương Bắc không thể xóa đi được, không thể đồng hóa được. Đó chính là sức mạnh nội sinh cho sự đấu tranh, chiến đẩu giành lại, gìn giữ, bảo vệ nền độc lập và phát triển trường tồn của dân tộc Việt Nam. 3. Văn hóa của Đảng cầm quyền - Nhà nước và hệ giá trị phát triển Trong thời đại ngày nay, văn hóa của Đảng cầm quyền và Nhà nước có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển của một quốc gia. Văn hóa đó được thể hiện ở những giá trị cả trong nội dung - cơ chế vận hành nội bộ hệ thống Đảng và Nhà nước và trong nội dung và cơ chế tương tác [mang tính chất lãnh đạo - quản lý - quản trị] với xã hội trên nhiều bình diện và cấp độ khác nhau. Có thể nêu lên những giá trị trong các nội dung chính sau : - Các giá trị phát triển thể hiện trong cương lĩnh, định hướng chiến lược vả mục tiêu phát triển đất nước, trong đó chứa đựng hệ thống các quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm và lợi ích của tất cả các chủ thể, nhất là của con người, công dân; - Thể hiện ở các giá trị được chế định trong Hiến pháp và hệ thống pháp luật; - Thể hiện ở chất lượng hệ thống thể chế, cơ chế, chính sách phát triển; - Thể hiện ở chất lượng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của hệ thống tổ chức - bộ máy và đội ngũ cán bộ, công chức; - Thể hiện ở nội dung và cơ chế tương tác [lãnh đạo, quán lý, quản trị] đối với xã hội; - Thể hiện ở tính liêm chính và trách nhiệm giải trình của hệ thống Đảng và Nhà nước, của đội ngũ cán bộ, công chức. Văn hóa được thể hiện ở nhiều phương diện khác nhau, nhưng có thể thấy được thể hiện tập trung nhất là ở Hệ các giá trị phát triển. Nền văn hóa của một quốc gia có hệ giá trị chung của tất cả các chủ thể tạo nên đặc trưng của nền văn hóa quốc gia - dân tộc. Nhưng trong đó mỗi chủ thể xã hội có hệ giá trị đặc trưng riêng của mình, có thể có những giá trị thống nhất với hệ giá trị văn hóa chung của dân tộc, có thể có những giá trị không thống nhất, khác biệt [thậm chí mâu thuẫn] với hệ giá trị văn hóa chung của dân tộc, với hệ giá trị văn hóa của các chủ thể khác. Hệ giá trị văn hóa của mỗi chủ thể chứa đựng hai loại giá trị : loại những giá trị thể hiện bản chất bên trong [sự vận động bên trong] của mỗi chủ thể, những giá trị này của chủ thể được thể hiện [giới thiệu] ra thành “ta là ai” trong mắt của các chủ thể khác và trong xã hội; và loại những giá trị tương tác với các với các chủ thể khác và với toàn xã hội theo chức năng xã hội của mình. Về nguyên tắc, có sự thống nhất biện chứng giữa hai loại giá trị đó trong mỗi chủ thể và thể hiện bản chất thực tế của mỗi chủ thể. Tuy nhiên, trong những điều kiện, hoàn cảnh khách quan và chủ quan nào đó, hai loại giá trị đó của một chủ thể có thể có những giá trị không thống nhất với nhau, thậm chí mâu thuẫn với nhau. Đây là vấn đề phức tạp. Điều này được thể hiện rõ nhất ở những giá trị văn hóa của Đảng cầm quyền và Nhà nước : Đảng và Nhà nước thường “cầm chịch” đưa ra những giá trị con người, giá trị xã hội, giá trị văn hóa, giá trị phát triển tốt đẹp của nước. Những giá trị đó thường được nêu trong cương lĩnh của Đảng, được chế định cả trong Hiến pháp, hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách và mục tiêu phát triển quốc 19
  20. gia. Nhưng trên thực tế, ở không ít Đảng cầm quyền và Nhà nước lại có tình trạng một bộ phận đại diện “dung dưỡng”, bao che, hay bất lực trước sự phát triển của những “giá trị văn hóa tiêu cực” ở những mức độ khác nhau [có người gọi là phản văn hóa] trong hệ thống Đảng và Nhà nước, như : mất dân chủ, quan liêu, cửa quyền, xa dân, đặc quyền đặc lợi, tham nhũng, lợi ích nhóm, “chủ nghĩa tư bản thân hữu”, chạy chức chạy quyền, “mua quan bán tước”…Những giá trị tiêu cực đó của Đảng cầm quyền và Nhà nước thường có những tác động hết sức xấu đối với sự phát triển của xã hội, vì một mặt nó trái với những giá trị tốt đẹp được tuyên bố, được chế định về mặt pháp lý và đạo đức; mặt khác, các giá trị tiêu cực đó thường được “nuôi dưỡng”, “bảo kê” bằng những thể chế “lãnh đạo - quản lý” quan liêu nhưng lại nhân danh Đảng - Nhà nước để tồn tại và lan tỏa trong xã hội [ví dụ những “lỗ hổng” về mặt thể chế và cơ chế dẫn đến tình trạng tham nhũng, “chủ nghĩa tư bản thân hữu”, hệ thống “giấy phép con” tồn tại trái với yêu cầu khách quan của sự phát triển, đề bạt và sử dụng cán bộ, công chức không theo thực đức - thực tài…]. Có thể nói, hiện tượng tồn tại các giá trị mâu thuẫn nhau, khoảng cách “giữa lời nói và việc làm” có thể xảy ra trong tất cả các chủ thể ở mức độ khác nhau, ngay trong mỗi con người. Chức năng là “sức mạnh nội sinh của sự phát triển” của văn hóa mạnh hay yếu, bền vững hay không phụ thuộc một cách căn bản vào: mức độ thống nhất giữa hai loại giá trị đó trong mỗi chủ thể, và mức độ thống nhất giữa hai loại giá trị đó của tất cả các chủ thể trong toàn bộ hệ thống xã hội - toàn bộ dân tộc, đặc biệt là sự thống nhất giữa các giá trị của Đảng cầm quyền - Nhà nước với toàn xã hội. Để nhận thức rõ hơn tầm quan trọng về mối quan hệ giữa các giá trị văn hóa của Đảng cầm quyền và Nhà nước với toàn bộ xã hội trong việc tạo lập sức mạnh nội sinh của sự phát triển, có thể nhìn rộng ra thực tiễn lãnh đạo - cầm quyền của những đảng trên thế giới. Cũng có những nước qua bầu cử dân chủ và công khai để lựa chọn những người [thực chất là đại diện cho các đảng] được dân chúng tín nhiệm nhất đứng ra thành lập chính phủ [cầm quyền]; có những Đảng được đa số dân chúng tín nhiệm trao cho cầm quyền ổn định trong nhiều thập kỷ và đất nước rất phát triển. Nguyên nhân cơ bản là đảng đó đã đưa ra được cương lĩnh tranh cử với những giá trị phát triển đáp ứng [trùng với] những giá trị mong muốn và kỳ vọng của đa số dân chúng trong mỗi kỳ tranh cử. Và điều quan trọng là Đảng đó đã cầm quyền bằng hành động thực tế xây dựng một Nhà nước [chính phủ] hiện thực hóa các giá trị đó trong cuộc sống, một Nhà nước liên chính, có năng lực lãnh đạo và quản lý cao , “nói đi đôi với làm”, không tạo nên sự “xung đột” rộng lớn về mặt giá trị của Đảng cầm quyền và nhà nước với các chủ thể khác trong xã hội; mà ngược lại, tạo nên sự đồng thuận - liên kết giữa các giá trị của Đảng cầm quyền và Nhà nước với các chủ thể khác trong xã hội, tạo nên động lực nội sinh tổng hợp mạnh mẽ cho sự phát triển bền vững. Trên thực tế cũng có không ít đảng được dân chúng tín nhiệm trao cho cầm quyền, nhưng trong quá trình cầm quyền cùng với Nhà nước do Đảng đó lãnh đạo đã không hiện thực hóa được những giá trị tốt đẹp nêu trong cương lĩnh tranh cử, hoặc không đáp ứng được những giá trị mới nảy sinh trong quá trình phát triển, hoặc bộc lộ những 20

nguon tai.lieu . vn

Video liên quan

Chủ Đề