Nhà nước La một hiện tượng vĩnh cửu là quan điểm của học thuyết nào

Nhà nước là một hiện tượng xã hội phức tạp, liên quan chặt chẽ tới lợi ích của giai cấp, tầng lợp và dân tộc. Để nhận thức đúng đắn hiện tượng nhà nước cần phải làm sáng tỏ hàng loạt vấn đề liên quan như: nguồn gốc xuất hiện nhà nước, bản chất của nhà nước.v.v.

Trong lịch sử chính trị – pháp lý, ngay từ thời kỳ cổ đại, trung đại và cận đại đã có nhiều nhà tư tưởng đề cập tới vấn đề nguồn gốc của nhà nước. Xuất phát từ các góc độ khác nhau, các nhà tư tưởng trong lịch sử đã có những lý giải khác nhau về vấn đề nguồn gốc của nhà nước.

>> Xem thêm:

Những nhà tư tưởng theo thuyết thần học [đại diện thời trung cổ Ph. Ácvin, thời kỳ tư sản có: Masiten, Koct…] cho rằng: Thượng đế là người sắp đặt mọi trật tự trong xã hội, nhà nước là do thượng đế sáng tạo ra để bảo vệ trật tự chung xã hội. Nhà nước là do đấng tối cao sinh ra, là sự thể hiện ý chí của chúa trời. Do vậy, quyền lực của nhà nước là hiện thân quyền lực của chúa, vì thế nó vĩnh cửu.

Những người theo thuyết gia trưởng [Arixtôt, philmer, Mikhailốp, Merđoóc.v.v…] cho rằng nhà nước ra đời là kết quả của sự phát triển gia đình, là hình thức tổ chức tự nhiên của cuộc sống con người, vì vậy, cũng như gia đình, nhà nước tồn tại trong mọi xã hội, quyền lực nhà nước, về thực chất cũng giống như quyền lực của người đứng đầu trong gia đình, nó chỉ là sự tiếp tục của quyền lực của người gia trưởng trong gia đình.

Vào thế kỷ XVI, XVII, XVIII, cùng với trào lưu cách mạng tư sản, trong lịch sử tư tưởng chính trị — pháp lý đã xuất hiện nhiều quan điểm mới về nhà nước nói chung và về nguồn gốc của nó. Thuyết khế ước xã hội được hình thành trong điều kiện như vậy.

Thuyết khế ước xã hội [đại diện tiêu biểu có: Grooxi, Xpirôza, gốp, Lôre, Rút xô .v.v…] cho rằng nhà nước ra đời là kết quả của một bản hợp đồng [khế ước] được ký kết giữa các thành viên sống trong trạng thái tự nhiên không có nhà nước. Về bản chất, nhà nước phản ánh lợi ích của các thành viên sống trong xã hội, lợi ích của mỗi thành viên đều được nhà nước ghi nhận và bảo vệ.

Với sự ra đời của thuyết khế ước xã hội đánh dấu một bước tiến trong nhận thức của con người về nguồn gốc nhà nước, đó là một cú đánh mạnh vào thành trì xã hội phong kiến, chống lại sự chuyên quyền, độc đoán của chế độ phong kiến. Theo học thuyết, chủ quyền trong nhà nước thuộc về nhân dân, và trong trường hợp nhà nước không làm tròn vai trò của mình, các quyền tự nhiên bị vi phạm thì khế ước sẽ bị mất hiệu lực, nhân dân có quyền lật đổ nhà nước và ký kết khế ước mới. Về mặt lịch sử, thuyết khế ước xã hội về nguồn gốc nhà nước có tính cách mạng và giá trị lịch sử to lớn, nó chứa đựng những yếu tố tiến bộ xã hội, coi nhà nước và quyền lực nhà nước là sản phẩm của sự vận động xã hội loài người. Tuy nhiên, thuyết khế ước xã hội vẫn có những hạn chế nhất định, về căn bản các nhà tư tưởng vẫn đứng trên lập trường quan điểm của chủ nghĩa duy tâm để giải thích sự xuất hiện của nhà nước, bản chất của nhà nước và sự thay thế nhà nước. Nó chưa lý giải được nguồn gốc vật chất và bản chất giai cấp của nhà nước.

Ngày nay, trước những căn cứ khoa học và sự thật lịch sử, ngày càng có nhiều nhà tư tưởng tư sản thừa nhận nhà nước là sản phẩm của đấu trang giai cấp, là tổ chức quyền lực của xã hội có giai cấp, nhưng mặt khác họ vẫn không chịu thừa nhận bản chất giai cấp của nhà nước mà coi nhà nước vẫn là công cụ đứng ngoài bản chất giai cấp, không mang tính giai cấp, là cơ quan trọng tài để điều hoà mâu thuẫn giai cấp. Vì thế, trong lịch sử tư tưởng chính trị – pháp lý hiện một số học thuyết khác của các nhà tư tưởng tư sản về nguồn gốc nhà nước như : thuyết bạo lực, thuyết tâm lý xã hội. Thuyết bạo lực cho rằng: nhà nước xuất hiện trực tiếp từ việc sử dụng bạo lực của thị tộ này với thị tộc khác, thị tộc chiến thắng đã lập ra bộ máy đặc biệt [nhà nước] để nô dịch thị tộc chiến bại [đại diện cho những nhà tư tưởng theo học thuyết này là Gumplôvích, E. Đuyrinh, Kauxky].

Thuyết tâm lý lại cho rằng: nhà nước xuất hiện do nhu cầu về tâm lý của con người nguyên thuỷ luôn muốn phụ thuộc vào các thủ lĩnh, giáo sỹ… Vì vậy, nhà nước là tổ chức của những siêu nhân có sự mạng lãnh đạo xã hội [đại diện cho những nhà tư tưởng theo học thuyết này là L.Petơrazitki, Phơređơ…].

Nhìn chung, tất cả các quan điểm trên hoặc do hạn chế về mặt lịch sử, hoặc do nhận thức còn thấp kém, hoặc do bị chi phối bởi lợi ích của giai cấp đã giải thích sai lệch nguyên nhân dẫn đến sự xuất hiện của nhà nước. Các học thuyết đều gặp nhau ở điểm chung là xem xét nhà nước trong sự cô lập với những điều kiện chi phối nó, đặc biệt là không gắn nó với điều kiện vật chất đã sản sinh ra nó. Chính vì vậy, họ đều cho rằng nhà nước là vĩnh hằng, là của tất cả mọi người, không mang bản chất giai cấp, là công cụ để duy trì trật tự xã hội trong tình trạng ổn định, pháp triển và phồn vinh.

  Nhà nước là một hiện tượng xã hội phức tạp; liên quan chặt chẽ tới lợi ích của giai cấp; tầng lợp và dân tộc. Để nhận thức đúng đắn hiện tượng nhà nước cần phải làm sáng tỏ hàng loạt vấn đề liên quan như: nguồn gốc xuất hiện nhà nước; bản chất của nhà nước;…

  Trong lịch sử chính trị – pháp lý; ngay từ thời kỳ cổ đại; trung đại và cận đại đã có nhiều nhà tư tưởng đề cập tới vấn đề nguồn gốc của nhà nước. Xuất phát từ các góc độ khác nhau; các nhà tư tưởng trong lịch sử đã có những lý giải khác nhau về vấn đề nguồn gốc của nhà nước.

  Những nhà tư tưởng theo thuyết thần học [đại diện thời trung cổ Ph. Ácvin; thời kỳ tư sản có: Masiten; Koct;…] cho rằng: Thượng đế là người sắp đặt mọi trật tự trong xã hội; nhà nước là do thượng đế sáng tạo ra để bảo vệ trật tự chung xã hội.

Nhà nước là do đấng tối cao sinh ra; là sự thể hiện ý chí của chúa trời. Do vậy; quyền lực của nhà nước là hiện thân quyền lực của chúa; vì thế nó vĩnh cửu.

  Những người theo thuyết gia trưởng [Arixtôt; Philmer; Mikhailốp; Merđoóc;…] cho rằng nhà nước ra đời là kết quả của sự phát triển gia đình; là hình thức tổ chức tự nhiên của cuộc sống con người. Vì vậy; cũng như gia đình; nhà nước tồn tại trong mọi xã hội; quyền lực nhà nước; về thực chất cũng giống như quyền lực của người đứng đầu trong gia đình; nó chỉ là sự tiếp tục của quyền lực của người gia trưởng trong gia đình.

  Vào thế kỷ XVI; XVII và  thế kỷ XVIII; cùng với trào lưu cách mạng tư sản; trong lịch sử tư tưởng chính trị – pháp lý đã xuất hiện nhiều quan điểm mới về nhà nước nói chung và về nguồn gốc của nó. Thuyết khế ước xã hội được hình thành trong điều kiện như vậy.

Theo Thuyết khế ước xã hội mà đại diện tiêu biểu là: Grooxi; Xpirôza; Gốp; Lôre; Rút xô;… cho rằng nhà nước ra đời là kết quả của một bản hợp đồng [khế ước] được ký kết giữa các thành viên sống trong trạng thái tự nhiên không có nhà nước. Về bản chất nhà nước phản ánh lợi ích của các thành viên sống trong xã hội; lợi ích của mỗi thành viên đều được nhà nước ghi nhận và bảo vệ.

  Với sự ra đời của thuyết khế ước xã hội đánh dấu một bước tiến trong nhận thức của con người về nguồn gốc nhà nước; đó là một cú đánh mạnh vào thành trì xã hội phong kiến; chống lại sự chuyên quyền; độc đoán của chế độ phong kiến. Theo thuyết khế ước; chủ quyền trong nhà nước thuộc về nhân dân và trong trường hợp nhà nước không làm tròn vai trò của mình; các quyền tự nhiên bị vi phạm thì khế ước sẽ bị mất hiệu lực; nhân dân có quyền lật đổ nhà nước và ký kết khế ước mới.

Về mặt lịch sử; thuyết khế ước xã hội về nguồn gốc nhà nước có tính cách mạng và giá trị lịch sử to lớn; nó chứa đựng những yếu tố tiến bộ xã hội; coi nhà nước và quyền lực nhà nước là sản phẩm của sự vận động xã hội loài người.

Tuy nhiên. Thuyết khế ước xã hội vẫn có những hạn chế nhất định; về căn bản các nhà tư tưởng vẫn đứng trên lập trường quan điểm của chủ nghĩa duy tâm để giải thích sự xuất hiện của nhà nước; bản chất của nhà nước và sự thay thế nhà nước nhưng chưa lý giải được nguồn gốc vật chất và bản chất giai cấp của nhà nước.

  Ngày nay; trước những căn cứ khoa học và sự thật lịch sử; ngày càng có nhiều nhà tư tưởng tư sản thừa nhận nhà nước là sản phẩm của đấu trang giai cấp; là tổ chức quyền lực của xã hội có giai cấp; nhưng mặt khác họ vẫn không chịu thừa nhận bản chất giai cấp của nhà nước mà coi nhà nước vẫn là công cụ đứng ngoài bản chất giai cấp; không mang tính giai cấp; là cơ quan trọng tài để điều hoà mâu thuẫn giai cấp. Vì thế; trong lịch sử tư tưởng chính trị – pháp lý hiện một số học thuyết khác của các nhà tư tưởng tư sản về nguồn gốc nhà nước như: thuyết bạo lực; thuyết tâm lý xã hội.

Theo thuyết bạo lực nhà nước xuất hiện trực tiếp từ việc sử dụng bạo lực của thị tộ này với thị tộc khác; thị tộc chiến thắng đã lập ra bộ máy đặc biệt [nhà nước] để nô dịch thị tộc chiến bại [đại diện cho những nhà tư tưởng theo học thuyết này là Gumplôvích; E. Đuyrinh; Kauxky].

Theo thuyết tâm lý nhà nước xuất hiện do nhu cầu về tâm lý của con người nguyên thủy luôn muốn phụ thuộc vào các thủ lĩnh; giáo sỹ;… Vì vậy; nhà nước là tổ chức của những siêu nhân có sứ mạng lãnh đạo xã hội [đại diện cho những nhà tư tưởng theo học thuyết này là L.Petơrazitki; Phơređơ;…].

 Nhìn chung. Tất cả các quan điểm trên hoặc do hạn chế về mặt lịch sử hoặc do nhận thức còn thấp kém hoặc do bị chi phối bởi lợi ích của giai cấp đã giải thích sai lệch nguyên nhân dẫn đến sự xuất hiện của nhà nước.

Các học thuyết đều gặp nhau ở điểm chung là xem xét nhà nước trong sự cô lập với những điều kiện chi phối nó; đặc biệt là không gắn nó với điều kiện vật chất đã sản sinh ra nó.

Chính vì vậy; họ đều cho rằng nhà nước là vĩnh hằng; là của tất cả mọi người; không mang bản chất giai cấp; là công cụ để duy trì trật tự xã hội trong tình trạng ổn định; pháp triển và phồn vinh.

Học thuyết Mác – Lênin về nguồn gốc nhà nước

  Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin đã kế thừa có chọn lọc những hạt nhân hợp lý của các nhà tư tưởng trước đó; lần đầu tiên đã giải thích đúng đắn nguồn gốc xuất hiện nhà nước. Dựa trên quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử đã chứng minh nhà nước không phải là hiện tượng vĩnh cửu; bất biến. Nhà nước là phạm trù lịch sử; có quá trình phát sinh; phát triển; tiêu vong. Nhà nước chỉ xuất hiện khi xã hội loài người phát triển đến một giai đoạn nhất định và sẽ tiêu vong khi những điều kiện khách quan cho sự tồn tại của nó mất đi.

Chế độ cộng sản nguyên thủy; tổ chức thị tộc – bộ lạc và quyền lực xã hội

  Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin; chế độ cộng sản nguyên thủy là hình thái kinh tế – xã hội đầu tiên của xã hội loài người. Trong xã hội chưa phân chia giai cấp; chưa có nhà nước. Nhưng trong xã hội này lại chứa đựng những nguyên nhân làm xuất hiện nhà nước. Bởi vậy; việc nghiên cứu những đặc điểm của xã hội cộng sản nguyên thủy làm tiền đề cần thiết cho việc lý giải nguyên nhân xuất hiện của nhà nước và hiểu rõ bản chất của nó là hết sức cần thiết.

  Nghiên cứu đặc điểm của xã hội cộng sản nguyên thủy phải xuất phát từ cơ sở kinh tế của nó. Xã hội cộng sản nguyên thủy được xây dựng trên nền tảng của phương thức sản xuất cộng sản nguyên thủy mà đặc trưng là chế độ công hữu về tư liệu sản xuất và phân phối bình đẳng của cải.

Trong chế độ cộng sản nguyên thủy; do trình độ phát triển của lực lượng sản xuất còn thấp kém; công cụ lao động còn thô sơ; sự hiểu biết về thế giới tự nhiên của người lao động còn lạc hậu; vì thế con người để kiếm sống và bảo vệ mình phải dựa vào nhau cùng chung sống; cùng lao động; cùng hưởng thành quả của lao động chung. Trong điều kiện đó nên không ai có tài sản riêng; không có người giàu; người nghèo; xã hội chưa phân chia thành giai cấp và không có đấu tranh giai cấp.

  Từ chế độ kinh tế như vậy đã quyết định tổ chức xã hội của xã hội cộng sản nguyên thủy. Hình thức tổ chức xã hội và cách thức quản lý của xã hội cộng sản nguyên thủy rất đơn giản. Tế bào của xã hội cộng sản nguyên thủy là thị tộc. Thị tộc là kết quả của quá trình tiến hoá lâu dài được xuất hiện khi xã hội đã phát triển tới một trình độ nhất định. Đây là một bước tiến trong lịch sử nhân loại.

Thị tộc là một tổ chức lao động và sản xuất; một bộ máy kinh tế xã hội. Thị tộc được tổ chức trên cơ sở huyết thống; ở giai đoạn đầu do những điều kiện về kinh tế; hôn nhân chi phối; vì thế thị tộc được tổ chức theo chế độ mẫu hệ. Dần dần cùng với sự phát triển của kinh tế; sự thay đổi của xã hội và hôn nhân; chế độ mẫu hệ được thay thế bởi chế độ phụ hệ.

  Trong thị tộc mọi thành viên đều tự do; bình đẳng; không một ai có đặc quyền; đặc lợi gì. Mặc dù trong xã hội cũng đã có sự phân chia lao động nhưng đó là sự phân chia trên cơ sở tự nhiên; theo giới tính hoặc lứa tuổi chứ chưa mang tính xã hội.

  Thị tộc là hình thức tự quản đầu tiên trong xã hội. Để tổ chức và điều hành hoạt động chung của xã hội; thị tộc cũng đã có quyền lực và một hệ thống quản lý công việc của thị tộc. Quyền lực trong chế độ cộng sản nguyên thủy mới chỉ là quyền lực xã hội do toà xã hội tổ chức ra và phục vụ cho lợi ích của cả cộng đồng.

  Hệ thống quản lý các công việc của thị tộc bao gồm:

  Hội đồng thị tộc là tổ chức quyền lực tổ chức quyền lực cao nhất của thị tộc gồm những thành viên lớn tuổi của thị tộc. Hội đồng thị tộc quyết định tất cả các vấn đề quan trọng của thị tộc như tổ chức lao động sản xuất; giải quyết các tranh chấp nội bộ; tiến hành chiến tranh;… Những quyết định của hội đồng thị tộc là bắt buộc đối với tất cả mọi người.

  Hội đồng thị tộc bầu ra người đứng đầu thị tộc như tù trưởng; thủ lĩnh quân sự để thực hiện quyền lực; quản lý các công việc chung. Những người đứng đầu thị tộc có quyền lực rất lớn; quyền lực này được tạo trên cơ sở uy tín cá nhân; họ có thể bị bãi miễn bất kỳ lúc nào nếu không còn uy tín và không được tập thể cộng đồng ủng hộ nữa. Những tù trưởng và thủ lĩnh quân sự không có bất kỳ một đặc quyền và đặc lợi nào so với các thành viên khác trong thị tộc.

  Như vậy. Trong xã hội cộng sản nguyên thủy đã tồn tại quyền lực; nhưng quyền lực này không phải là quyền lực đặc biệt do một giai cấp hay một cá nhân tổ chức ra; mà đó là quyền lực xã hội được tổ chức và thực hiện trên cơ sở dân chủ thực sự. Quyền lực xuất phát từ xã hội và phục vụ lợi ích của cả cộng đồng.

  Cùng với tiến trình phát triển của xã hội; do sự thay đổi của các hình thức hôn nhân với sự cấm đoán hôn nhân trong nội bộ thị tộc đã hình thành nên chế độ hôn nhân ngoại tộc. Các thị tộc mà giữa chúng có quan hệ hôn nhân với nhau đã hợp thành bào tộc.

Cùng với hôn nhân; nhiều yếu tố khác tác động đã làm cho một số bào tộc liên kết với nhau thành bộ lạc và đến giai đoạn cuối của chế độ cộng sản nguyên thủy thì các liên minh bộ lạc đã hình thành. Về cơ bản; tính chất của quyền lợi; cách thức tổ chức quyền lực trong bào tộc; bộ lạc; liên minh bộ lạc vẫn dựa trên cơ sở những nguyên tắc tổ chức quyền lực trong xã hội thị tộc. Tuy nhiên; ở mức độ nhất định; sự tập trung quyền lực đã cao hơn.

Sự tan rã của tổ chức thị tộc và sự xuất hiện nhà nước

Xã hội cộng sản nguyên thủy chưa biết đến nhà nước nhưng chính trong lòng nó đã nảy sinh những tiền đề vật chất cho sự ra đời của nhà nước. Những nguyên nhân làm chế độ xã hội cộng sản nguyên thủy tan rã đồng thời là những nguyên nhân xuất hiện nhà nước.

Đóng vai trò quan trọng trong việc làm tan rã chế độ cộng sản nguyên thủy chuyển chế độ cộng sản nguyên thủy lên một hình thái kinh tế xã hội mới cao hơn đó là sự phân công lao động xã hội.

Lịch sử xã hội cổ đại trải qua ba lần phân công lao động xã hội; đó là:

[1] chăn nuôi tách khỏi trồng trọt;

[2] thủ công nghiệp tách khỏi nông nghiệp;

[3] thương nghiệp xuất hiện.

Việc con người thuần dưỡng được động vật đã làm hình thành một ngành nghề mới; ở những nơi có điều kiện tốt cho chăn nuôi những đàn gia súc được phát triển đông đảo; với sự phát triển mạnh nghề chăn nuôi đã tách khỏi trồng trọt.

Sau lần phân công lao động đầu tiên; cả chăn nuôi và trồng trọt đều phát triển với sự ứng dụng của chăn nuôi vào trồng trọt. Sản xuất phát triển kéo theo nhu cầu về sức lao động; để đáp ứng nhu cầu này thay vì việc giết tù binh trong chiến tranh như trước kia; bây giờ tù binh đã được giữ lại để biến thành nô lệ.

Như vậy. Sau lần phân công lao động đầu tiên; xã hội đã có những xáo trộn đáng kể; xuất hiện chế độ tư hữu; xã hội phân chia thành giai cấp chủ nô và nô lệ. Sự xuất hiện chế độ tư hữu còn làm thay đổi đáng kể quan hệ hôn nhân: hôn nhân một vợ một chồng đã thay thế hôn nhân đối ngẫu và chế độ phụ hệ thay cho chế độ mẫu hệ.

Việc tìm ra kim loại và chế tạo công cụ bằng kim loại tạo khả năng tăng năng suất lao động đã dẫn đến việc thủ công nghiệp tách khỏi trồng trọt thành một nghề độc lập. Quá trình phân hoá xã hội đẩy nhanh; sự phân biệt giàu nghèo; mâu thuẫn giai cấp ngày càng trở nên sâu sắc.

Với việc xuất hiện nhiều ngành nghề chuyên môn trong sản xuất đã làm phát sinh nhu cầu trao đổi hàng hoá trong xã hội. Sự phát triển nghề sản xuất hàng hoá dẫn đến sự phát triển của thương nghiệp và thương nghiệp đã tách ra thành một ngành hoạt động độc lập. Lần phân công lao động này đã làm thay đổi sâu sắc xã hội; với sự ra đời của tầng lớp thương nhân mặc dù họ là những người không trực tiếp tiến hành lao động sản xuất nhưng lại chi phối toàn bộ đời sống sản xuất của xã hội; bắt những người lao động; sản xuất lệ thuộc vào mình.

Qua ba lần phân công lao động xã hội đã làm cho nền kinh tế xã hội có sự biến chuyển sâu sắc; sản phẩm làm ra ngày càng nhiều; xuất hiện sản phẩm dư thừa kéo theo hiện tượng chiếm của cải dư thừa làm của riêng. Quá trình phân hoá tài sản làm xuất hiện chế độ tư hữu và kéo theo là sự phân chia giai cấp trong xã hội.

Tất cả những yếu tố trên đã làm đảo lộn đời sống thị tộc; phá vỡ tính khép kín của thị tộc. Tổ chức thị tộc với hệ thống quản lý trước đây trở nên bất lực trước tình hình mới. Để điều hành xã hội mới cần phải có một tổ chức mới khác về chất. Tổ chức đó phải do những điều kiện nội tại của nó quy định; nó phải là công cụ quyền lực của giai cấp nắm ưu thế về kinh tế và nhằm thực hiện sự thống trị giai cấp; dập tắt các xung đột giai cấp; giữ cho các xung đột đó nằm trong vòng trật tự; đó chính là nhà nước.

Như vậy. Nhà nước xuất hiện trực tiếp từ sự tan rã của chế độ cộng sản nguyên thủy. Tiền đề kinh tế cho sự xuất hiện nhà nước là sự xuất hiện chế độ tư hữu về tài sản trong xã hội. Tiền đề kinh tế là cơ sở vật chất tạo ra tiền đề xã hội cho sự ra đời của nhà nước – đó là sự phân chia xã hội thành các giai cấp mà lợi ích cơ bản giữa các giai cấp và các tầng lớp này là đối kháng với nhau đến mức không thể điều hoà được.

Ở các nước phương Đông; nhà nước xuất hiện khá sớm; khi chế độ tư hữu và sự phân chia giai cấp trong xã hội chưa ở mức cao. Nguyên nhân thúc đẩy sự ra đời của các nhà nước phương Đông là do nhu cầu trị thủy và chống giặc ngoại xâm.

Ở Việt Nam; nhà nước xuất hiện và khoảng thiên niên kỷ II trước công nguyên. Cũng như các nhà nước phương Đông khác; sự phân chia giai cấp trong xã hội cổ Việt Nam chưa đến mức gay gắt. Trong bối cảnh xã hội lúc bấy giờ; nhu cầu xây dựng; quản lý những công trình trị thủy đảm bảo nền sản xuất nông nghiệp và tổ chức lực lượng chống giặc ngoại xâm đã thúc đẩy quá trình liên kết các tộc người và hoàn thiện bộ máy quản lý. Kết quả này đã cho ra đời nhà nước Việt Nam đầu tiên – Nhà nước Văn Lang của các Vua Hùng.

Video liên quan

Chủ Đề