Những loại thuốc gây thai chết lưu
Thuốc được sử dụng ở hơn một nửa số trường hợp mang thai, và tỷ lệ sử dụng đang gia tăng. Các loại thuốc được sử dụng phổ biến nhất bao gồm thuốc chống nôn, chống acid, thuốc giảm đau, thuốc kháng histamine, thuốc kháng sinh, thuốc lợi tiểu, thuốc ngủ, thuốc an thần và các loại thuốc xã hội và thuốc bất hợp pháp. Mặc dù có xu hướng này nhưng vẫn còn thiếu các hướng dẫn sử dụng thuốc trong quá trình mang thai dựa trên bằng chứng. Cho đến gần đây, FDA đã phân loại thuốc không kê đơn (OTC) và các loại thuốc kê đơn thành 5 loại về độ an toàn để sử dụng trong thời kỳ mang thai (A, B, C, D, X). Tuy nhiên, một vài nghiên cứu đối chứng có ý nghĩa của thuốc điều trị đã được thực hiện ở phụ nữ có thai. Hầu hết các thông tin về an toàn sử dụng thuốc trong thai kỳ đều bắt nguồn từ các nghiên cứu trên động vật, các nghiên cứu không đối chứng và theo dõi sau khi đưa ra thị trường. Do đó, hệ thống phân loại của FDA có thể nhầm lẫn và khó áp dụng thông tin sẵn có cho các quyết định lâm sàng. Vào tháng 12 năm 2014, FDA đã phản hồi bằng cách yêu cầu loại bỏ các nhóm A, B, C, D, và X khi mang thai khỏi nhãn của tất cả các loại thuốc. Thông tin theo yêu cầu của FDA có 3 tiểu mục:
Riêng tiểu mục về mang thai và cho con bú mỗi loại bao gồm 3 phân nhóm (tóm tắt nguy cơ, cân nhắc lâm sàng, và dữ liệu) cung cấp thông tin chi tiết hơn. Quy tắc cuối cùng không áp dụng cho thuốc không kê đơn (không kê đơn). Trong khi mang thai, thuốc thường được sử dụng để điều trị một số rối loạn nhất định. Nói chung, khi lợi ích vượt quá những nguy cơ đã biết, các loại thuốc điều trị rối loạn có thể được cân nhắc sử dụng trong thời kỳ mang thai. Không phải tất cả các loại thuốc mẹ sử dụng đều đi qua rau thai đến bào thai. Một số loại thuốc qua rau thai có thể có tác dụng độc trực tiếp hoặc có tác động gây quái thai. Thuốc mà không qua rau thai vẫn có thể gây hại cho bào thai bằng cách
Các loại thuốc được truyền qua rau thai tương tự như cách các loại thuốc này vượt qua các rào cản biểu mô khác (xem Hấp thu Hấp thu thuốc Sự hấp thu thuốc được xác định bởi tính chất hóa lý, công thức và đường dùng của thuốc. Các dạng thuốc (ví dụ, viên nén, viên nang, dung dịch) bao gồm hoạt chất cùng với các tá dược được sản... đọc thêm ). Cho dù thuốc đi vào rau thai nhanh hay nhanh chóng tùy thuộc vào trọng lượng phân tử của thuốc, mức độ gắn kết với một chất khác (ví dụ protein vận chuyển), vùng có sẵn để trao đổi qua gai rau và lượng thuốc chuyển hóa bởi rau thai. Hầu hết các loại thuốc có trọng lượng phân tử < 500 dalton dễ dàng vượt qua rau thai và đi vào tuần hoàn của bào thai. Các chất có trọng lượng phân tử cao (ví dụ, thuốc có liên quan đến protein) thường không vượt được qua rau thai. Ngoại lệ là globulin miễn dịch Gc có thể được sử dụng để điều trị các rối loạn như giảm tiểu cầu tự miễn của bào thai. Nói chung, tạo sự cân bằng giữa máu mẹ và các mô của thai nhi mất ít nhất 30 đến 60 phút; tuy nhiên, một số loại thuốc không đạt được nồng độ tương tự trong tuần hoàn của mẹ và của thai nhi. Tác dụng của một loại thuốc đối với thai nhi được xác định phần lớn bởi tuổi thai nhi khi tiếp xúc, khả năng thấm của nhau thai, các yếu tố của người mẹ, hiệu lực của thuốc và liều lượng thuốc. Tuổi thai ảnh hưởng đến loại tác dụng của thuốc:
Các yếu tố của người mẹ bao gồm những yếu tố ảnh hưởng đến sự hấp thụ, phân bố, chuyển hóa của thuốc. Ví dụ, buồn nôn và nôn có thể làm giảm sự hấp thu của một loại thuốc uống. Mặc dù mối quan tâm rộng rãi về an toàn khi dùng thuốc, việc tiếp xúc với thuốc điều trị chiếm < 2 đến 3% các dị tật bẩm sinh thai nhi; hầu hết các dị tật là do các nguyên nhân di truyền, môi trường nhiều nhân tố hoặc không rõ. Vắc-xin khác nên được chỉ định riêng cho những trường hợp phụ nữ có thai có nguy cơ cao bị phơi nhiễm và khả năng các phản ứng có hại từ vắc xin thấp. Có thể tiêm vắc xin phòng bệnh tả Phòng ngừa Bệnh tả là một bệnh nhiễm trùng cấp tính ở ruột non do vi khuẩn gram âm Vibrio cholerae tiết ra độc tố gây tiêu chảy nhiều nước, dẫn đến mất nước, thiểu niệu và trụy tuần hoàn. Sự lây... đọc thêm , viêm gan A Vắc-xin viêm gan A (HepA) Cả hai loại vắc-xin viêm gan A đều có tác dụng bảo vệ lâu dài chống lại viêm gan A. Để biết thêm thông tin, hãy xem Khuyến nghị về vắc-xin viêm gan A của Ủy ban Tư vấn về Thực hành Tiêm chủng... đọc thêm , viêm gan B Vắc-xin viêm gan B (HepB) Vắc-xin viêm gan B có hiệu quả từ 80 đến 100% trong việc ngăn ngừa lây nhiễm hoặc viêm gan B trên lâm sàng ở những người đã hoàn tất liệu trình tiêm vắc-xin. Để biết thêm thông tin, hãy xem... đọc thêm , sởi, quai bị Vắc-xin sởi, quai bị và rubella (MMR) Vắc-xin sởi, quai bị và rubella (MMR) có hiệu quả bảo vệ chống lại cả 3 bệnh nhiễm trùng. Những người được tiêm vắc-xin MMR theo lịch tiêm vắc-xin của Hoa Kỳ được coi là được bảo vệ suốt đời... đọc thêm , dịch hạch, bại liệt Vắc-xin bại liệt Tiêm chủng mở rộng gần như đã xóa sổ bại liệt trên toàn thế giới. Nhưng các trường hợp vẫn xảy ra ở các khu vực chưa được tiêm chủng đầy đủ, chẳng hạn như châu Phi cận Sahara và miền nam châu... đọc thêm , bệnh dại Phòng ngừa , thương hàn Tiêm chủng Sốt thương hàn là bệnh toàn thân do chủng vi khuẩn gram âm Salmonella enterica týp huyết thanh Typhi (S. Typhi) gây ra. Các triệu chứng là sốt cao, mệt lả, đau bụng, và hồng ban... đọc thêm và sốt vàng Phòng ngừa trong thời kỳ mang thai nếu có nguy cơ nhiễm bệnh là đáng kể. Phụ nữ có thai đang dùng thuốc chống trầm cảm nên được hỏi về các triệu chứng trầm cảm tại mỗi lần khám thai, và nên làm xét nghiệm thích hợp kiểm tra thai nhi. Các đánh giá thai nhi bao gồm:
Một số thuốc kháng vi rút (ví dụ: zidovudine và ritonavir để điều trị nhiễm HIV) đã được sử dụng an toàn trong thai kỳ trong nhiều năm. Tuy nhiên, một số thuốc kháng vi rút có thể có những nguy cơ đáng kể cho thai nhi. Thuốc kháng vi rút cúm cần phải được bắt đầu càng sớm càng tốt, không cần đợi kết quả xét nghiệm để xác định chẩn đoán, vì điều trị trong vòng 48 giờ sau khi phát bệnh là hiệu quả nhất. Tuy nhiên, điều trị tại bất kỳ thời điểm nào trong quá trình nhiễm bệnhg sẽ làm giảm nguy cơ bị các biến chứng nặng. Các nghiên cứu lâm sàng có đối chứng về zanamivir và oseltamivir chưa được thực hiện ở phụ nữ có thai; tuy nhiên, nhiều nghiên cứu quan sát cho thấy rằng việc sử dụng các loại thuốc này trong thời kỳ mang thai không làm tăng nguy cơ bị các tác dụng bất lợi. Có ít dữ liệu hơn về độ an toàn của peramivir trong thai kỳ và không có dữ liệu về baloxavir ở phụ nữ mang thai. Các chuyên gia chăm sóc sức khỏe cần phải cho phụ nữ mang thai biết các triệu chứng và dấu hiệu của bệnh cúm là gì và khuyên họ tìm cách điều trị ngay khi các triệu chứng bắt đầu. Acyclovir (uống và bôi tại chỗ) có vẻ an toàn trong thai kỳ.
Trẻ sơ sinh có mẹ hút thuốc lá cũng có nhiều khả năng bị dị tật bẩm sinh, vô sọ, dị tật tim bẩm sinh, các khe hở vòm miệng, hội chứng đột tử ở trẻ sơ sinh Hội chứng tử vong đột ngột ở trẻ sơ sinh (SIDS) Hội chứng tử vong đột ngột ở trẻ sơ sinh là cái chết bất ngờ và không tiên lượng được ở trẻ sơ sinh hoặc trẻ nhỏ trong khoảng từ 2 tuần đến 1 năm tuổi, trong đó khám nghiệm tử vong, khám nghiệm... đọc thêm , thiếu hụt thể chất và giảm trí tuệ, và các vấn đề về hành vi. Ngừng hút thuốc Bỏ hút thuốc Hầu hết người hút thuốc đều muốn bỏ thuốc. Những biện pháp can thiệp hiệu quả bao gồm tư vấn cai thuốc lá và điều trị bằng varenicline, bupropion, hoặc chế phẩm thay thế nicotine. Khoảng 70%... đọc thêm lá hoặc hạn chế hút giúp giảm các nguy cơ đó. Tiếp xúc với khói thuốc thụ động cũng có thể có hại cho thai nhi. Rượu Ngộ độc rượu và hội chứng cai Rượu (ethanol) là một chất ức chế thần kinh trung ương (CNS). Uống lượng lớn nhanh có thể gây suy hô hấp, hôn mê và tử vong. Uống lượng lớn trong thời gian dài làm tổn thương gan và các cơ quan... đọc thêm là chất phổ biến nhất gây quái thai. Uống rượu trong thời kỳ mang thai làm tăng nguy cơ sảy thai tự nhiên. Nguy cơ có thể liên quan đến lượng rượu tiêu thụ. Việc uống rượu thường xuyên làm giảm trọng lượng của trẻ khi sinh khoảng từ 1 đến 1,3 kg. Uống rượu thường xuyên, có thể chỉ khoảng 45 mL cồn nguyên chất (tương đương khoảng 3 ly) mỗi ngày, có thể gây ra hội chứng rượu ở bào thai. Hội chứng Rối loạn cồn trong thai nhi Tiếp xúc với rượu trong tử cung làm tăng nguy cơ sảy thai tự nhiên, giảm cân thai nhi, và có thể gây hội chứng rượu cồn thai, một nhóm biến đổi thể chất và nhận thức bất thường. Khi sinh, trẻ... đọc thêm Hội chứng này xảy ra ở 2,2/1000 trẻ sinh sống; nó bao gồm chậm phát triển bào thai, các khuyết tật trên sọ mặt, tim mạch, và rối loạn chức năng thần kinh. Đây là nguyên nhân hàng đầu gây ra tình trạng khuyết tật về trí tuệ và có thể gây tử vong sơ sinh.
Ma tuý đá dùng để chỉ một nhóm thuốc gây nghiện được làm từ nhiều chất amphetamine; những loại thuốc này có xu hướng sử dụng tăng lên trong thai kỳ. Mặc dù các tác dụng phụ chưa được tìm hiểu nhiều, co thắt mạch của thai nhi và thiếu oxy thì có nguy cơ thai chết lưu, rau bong non, và có thể là dị tật bẩm sinh. Chất ma túy gây ảo giác tùy thuộc vào loại thuốc có thể làm tăng nguy cơ sau đây:
Thuốc gây mê hoặc thuốc ngủ bao gồm methylenedioxymethamphetamine (MDMA, hoặc thuốc lắc), rohypnol, ketamine, methamphetamine, và LSD (lysergic acid diethylamide). Sử dụng opioid trong thời kỳ mang thai làm tăng nguy cơ bị các biến chứng thai kỳ, chẳng hạn như
Heroin làm tăng nguy cơ sinh con nhỏ hơn so với tuổi thai. Mặc dù tiêu thụ caffeine với số lượng lớn có thể làm tăng nguy cơ chu sinh là không rõ ràng. Việc tiêu thụ caffein với một lượng nhỏ (ví dụ, 1 cốc cà phê/ngày) có vẻ ít hoặc không gây nguy hiểm cho thai nhi, nhưng một số dữ liệu, không tính đến việc sử dụng thuốc lá và rượu, cho thấy rằng tiêu thụ một lượng lớn (> 7 cốc cà phê/ngày) làm tăng nguy cơ thai lưu, đẻ non, sinh nhẹ cân và sảy thai tự nhiên. Thức uống có chất cafeein theo lý thuyết ít gây nguy hiểm cho thai nhi.
|