Nhà nước đầu tiên của nước ta tên là gì

Nhà nước đầu tiên của nước ta có tên là gì

Nước Việt ta trải qua hơn 4000 năm lịch sử, với 1000 năm chịu dưới ách đô hộ phong kiến Phương Bắc. Để có được sự độc lập và vinh quang dân tộc như hiện nay, ông cha ta đã đổ không biết bao nhiêu máu và nước mắt. Chúng ta cần phải tự hào về lịch sử dân tộc, tự hào về đất nước mà ta đã sống, lớn lên từng ngày. Vậy bạn có biết nhà nước đầu tiên của nước ta có tên là gì? Cùng Eduboston tìm hiểu ngay nhé!

Danh Mục Bài Viết

Nhà nước đầu tiên của nước ta có tên là gì?

Rất nhiều người đều cho rằng tên đầu tiên của nước Việt Nam đó là Đại Cồ Việt, bắt nguồn từ thời vua Đinh Tiên Hoàng dẹp loạn 12 sứ quân. Hoặc là Đại Việt dưới thời vua Ngô, vua Lý,… Tuy nhiên, tất cả đều không đúng.

Nhà nước đầu tiên của nước ta có tên là Văn Lang dưới sự trị vì của 18 vị vua Hùng gắn liền với truyền thuyết Con Rồng Cháu Tiên và truyền thuyết Bánh chưng bánh dày. Vì vậy, điều này lý giải tại sao những người con đất Việt luôn tự hào về nơi mình sinh ra, tự hào là con của cha Lạc Long Quân và mẹ Âu Cơ.

Xem thêm  Trên tình bạn dưới tình yêu nghĩa là gì

Nhà nước đầu tiên của nước ta có tên là Văn Lang

Sự xuất hiện của nhà nước Văn Lang đã chấm dứt thời kỳ mà những người con đất Việt mỗi người một nơi, không có sự thống nhất. Dưới sự lãnh đạo của Vua Hùng, người dân dần biết cày bừa, trồng lúa, nuôi cây, chăn nuôi gia súc và sự xuất hiện của việc trao đổi buôn bán hàng hóa. Từ đây, nước Việt bước sang thời kỳ mới, phát triển và hưng vượng hơn.

Lịch sử dựng nước Văn Lang của vua Hùng

Lịch sử dựng nước Văn Lang chính là thời đại mở đầu của sự phát triển nước Đại Việt và Việt Nam sau này. Đây chính là nền móng cơ bản nhất của đất nước Việt Nam ta với sự phát triển mạnh mẽ như hiện nay. Lúc này, nước ta đang chuyển dần từ thời kỳ thị tộc bộ lạc sang thời kỳ có sự phân hóa giai cấp và xuất hiện nhà nước đầu tiên của dân tộc Việt Nam.

Nhà nước Văn Lang xuất hiện đã bước đầu hình thành tổ chức nhằm giúp đỡ người dân thực hiện công việc làm nông và xây dựng đội ngũ quân sự riêng biệt. Bộ máy nhà nước gồm có Vua Hùng đứng đầu, tiếp đến là những Lạc Hầu, Lạc Tướng và các quan cai quản.

Vua Hùng là người trị vì nhà nước Văn Lang

Văn Lang chính thức được thành lập vào khoảng thế kỉ VIII – VII TCN, ở vùng đồng bằng ven những sông lớn thuộc Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ ngày nay. Tại đây đã xuất hiện những bộ lạc lớn, có sự tương đồng về tiếng nói và phương thức hoạt động kinh tế. Tất cả đều chịu sự lãnh đạo của Vua Hùng.

Sở dĩ có sự hình thành của nhà nước Văn Lang chính là do các lý do sau:

  • Sự phân hóa tầng lớp giàu nghèo rõ rệt, người nghèo bị chèn ép đủ đường phải rơi vào cảnh nô tì.
  • Xung đột giữa những người Lạc Việt với nhau dẫn đến tình trạng “lưỡng bại câu thương”.

Lúc này, vị thủ lĩnh dùng tài năng khuất phục được các bộ lạc và tự xưng là Hùng Vương xuất hiện ở Gia Ninh, đóng đô ở Bạch Hạc [Phú Thọ], đặt tên nước là Văn Lang. Đây chính là nhà nước đầu tiên của nước Việt Nam ta.

Sự phát triển của nhà nước Văn Lang

Thời kỳ đầu nhà nước Văn Lang xuất hiện đã thúc đẩy hoạt động trồng trọt, chăn nuôi cực kỳ phát triển. Sự bất hòa giữa các bộ tộc đều được giải quyết thay vào đó là lòng đoàn kết cùng đưa nhà nước phát triển.

Nhà nước Văn Lang có 18 đời vua Hùng Vương bắt đầu từ năm 2879 tới năm 258 trước Công nguyên. Giai đoạn lịch sử này được chia làm hai giai đoạn: giai đoạn đầu gồm nhà nước Văn Lang và nhà nước Âu Lạc.

Nhà nước Văn Lang đóng đô ở Phú Thọ

Vua Hùng đầu tiên của nước Văn Lang có tên là Chi Cán, hiệu là Kinh Dương Vương húy là Lộc Tục. Kinh Dương Vương trị vì nhà nước Văn Lang trong thời gian 86 năm, bắt đầu từ 2879 – 2794 TCN. Tiếp đến là Chi Khan, hiệu vua là Lạc Long Quân [trị vì từ 2793 – 2525], tên húy Sùng Lãm. Lạc Long Quân lấy con gái vua Đế Lai tên là Âu Cơ. Từ đây, truyền thuyết Con Rồng Cháu Tiên bắt đầu xuất hiện.

Xem thêm  Nsfw là gì viết tắt của từ gì hoặc có nghĩa là gì

Các vua Hùng đã thay nhau trị vì và làm chủ đấu nước Văn Lang. Trải qua 18 đời vua hùng với vị cuối cùng là Hùng Duệ Vương, húy Huệ Lang [trị vì từ 408 – 258 TCN], nhà nước Văn Lang chính thức sụp đổ.

Qua đây, bạn đã biết nhà nước đầu tiên của nước ta có tên là gì. Văn Lang chính là nhà nước đầu tiên của Việt Nam ta. Mặc dù bộ máy nhà nước thô sơ, các cấp quản lý không rõ ràng nhưng đã góp phần không nhỏ xây dựng nền móng nước Việt Nam ta sau này.

Như vậy, đến đây bài viết về “Nhà nước đầu tiên của nước ta có tên là gì” đã kết thúc. Chúc quý độc giả luôn thành công và hạnh phúc trong cuộc sống.

.

Cập nhật lúc: 08:24, 24/04/2018 [GMT+7]

Trong lịch sử dựng nước, thời kỳ các vua Hùng với Nhà nước Văn Lang - nhà nước đầu tiên của Việt Nam được hình thành với những đặc trưng của hình thái nhà nước nguyên thủy, đã để lại dấu ấn về nền văn hóa đặc sắc cho dân tộc.

Người dân viếng Đền thờ Hùng Vương ở tỉnh Phú Thọ. Ảnh: T.THÚY

Theo Đại Việt sử ký toàn thư của sử gia Ngô Sĩ Liên viết ở thế kỷ 15, Lạc Long Quân [theo truyền thuyết là cháu 5 đời của Thần Nông] cùng vợ là Âu Cơ [con gái Đế Lai] sinh được 100 người con trai; 50 người theo cha về bờ Biển Đông, 50 người theo mẹ về núi và suy tôn người con cả lên làm vua lấy hiệu là Hùng Vương, đặt tên nước là Văn Lang, đóng đô ở Bạch Hạc - Phú Thọ.

* Vốn xưng nền văn hiến đã lâu

Nhà nước Văn Lang được hình thành vào khoảng năm 2879 TCN và kết thúc vào năm 258 TCN, có lãnh thổ phía đông giáp Nam Hải [tức Biển Đông], Tây tới Ba Thục, Bắc tới hồ Động Đình, Nam tới nước Hồ Tôn Tinh [còn gọi là nước Hồ Tôn, sau này là Chiêm Thành]; lãnh thổ chia thành 15 bộ, còn gọi là quận. Còn dựa trên các di tích văn hóa đồ đồng đã được phát hiện, cho thấy lãnh thổ nước Văn Lang bao gồm khu vực Bắc bộ và 3 tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh ngày nay, có thể kéo dài tới Quảng Trị.

Có thể nói, Nhà nước Văn Lang là dạng nhà nước sơ khai, không thể xếp vào dạng nào trong 5 hình thái nhà nước của lịch sử phát triển thế giới; sự phân hóa xã hội và phân chia giai cấp chưa rõ rệt, nhưng chắc chắn đã hình thành sự phân tầng. Quyền lực của giai cấp thống trị chưa thấy xuất hiện ở thời đại này, thể hiện qua việc phong tục thuần hậu, mộc mạc, “vua tôi cùng đi cày, cha con tắm chung sông không chia giới hạn, không phân biệt uy quyền, thứ bậc” [Lịch triều hiến chương loại chí].

Trong hội thảo về văn hóa Hùng Vương năm 2011, có học giả Trung Quốc cho rằng Hùng Vương là người… Trung Quốc, bởi người Việt không có họ Hùng. Đây là lập luận “cưỡng từ đoạt lý”. Theo các nhà ngôn ngữ học, “Hùng” xuất phát từ “Kun” của người Mường, từ “Khun” trong tiếng Môn - Khmer và tiếng Thái, nhằm để chỉ tù trưởng hoặc thủ lĩnh. Vua Hùng hay Hùng Vương là từ chỉ chức danh của người tù trưởng bộ lạc Văn Lang - bộ lạc lớn mạnh nhất trong tất cả các bộ lạc định cư vùng Bắc bộ và Bắc Trung bộ thời bấy giờ, cơ sở tiền đề hình thành Nhà nước Văn Lang. Cách biến âm này có thể thấy ở tên gọi của vùng đất Mê Linh vốn có từ gốc là Mling - tên của một loài chim được tôn là vật tổ [totem] của bộ lạc.

Dưới Hùng Vương có các lạc hầu, lạc tướng. Nước Văn Lang có 15 bộ [trước là 15 bộ lạc], tổ chức hành chính dưới bộ là các công xã nông thôn [gọi là kẻ, chiềng, chạ] mà đứng đầu là bố chính. Tuy nhiên, nhà vua không áp đặt quản lý ở các đơn vị hành chính cơ sở mà do dân suy cử những người, dòng họ có thế lực, có uy tín. Như vậy, so với chế độ công xã nguyên thủy, với xã hội của các thị tộc trước đó, Nhà nước Văn Lang đã đưa toàn bộ các bộ lạc Việt cổ bước sang một thời đại mới, phù hợp với tiến trình phát triển của thế giới.

Về 18 đời vua Hùng kéo dài trong 2.622 năm, nhà sử học Nguyễn Khắc Thuần cho rằng 18 vua Hùng không phải là 18 người cụ thể, mà là 18 chi [nhánh/ngành]; mỗi chi có nhiều vị vua thay phiên nhau trị vì và dùng chung vương hiệu. Thậm chí con số 18 có thể chỉ nên hiểu là con số tượng trưng ước lệ, vì 18 là bội số của 9 - vốn là con số thiêng trong văn hóa người Việt.

* Những thành tựu rực rỡ

Thời đại Văn Lang có sự phát triển mạnh về nông nghiệp. Theo Khâm định Việt sử thông giám cương mục, cư dân Văn Lang đã biết trồng lúa nước, theo nước triều lên xuống mà làm ruộng, gọi là ruộng Lạc; biết khắc phục thiên nhiên [truyền thuyết Sơn Tinh, Thủy Tinh], sử dụng dụng cụ nông nghiệp [cày, cuốc, mai, thuổng] và dùng sức trâu bò thay sức người, nhờ vậy người dân có cuộc sống vật chất và tinh thần khá phong phú. Với nguồn lương thực chính là thóc gạo [gạo nếp và gạo tẻ], dân Văn Lang đã biết lấy ống tre thổi cơm [cơm lam], làm bánh [sự tích bánh chưng, bánh giầy]; ngoài ra còn có khoai, sắn, thực phẩm có các loại cá, gia súc, gia cầm, rau củ. Đặc biệt, thời này người dân đã biết làm mắm và nước mắm, cũng biết lấy gạo làm rượu, men rượu được chế biến từ lá, vỏ, rễ một số loại cây, giống như rượu cần ngày nay.

Dâng lễ vật, hương hoa ở đền thờ Hùng Vương phường Bình Đa, TP.Biên Hòa.

Cư dân Văn Lang có tập quán ở nhà sàn, nhuộm răng đen, ăn trầu [sự tích trầu cau], xăm mình. Theo Lĩnh Nam chích quái, dân ở rừng núi xuống sông ngòi đánh cá thường bị giao long [thuồng luồng] làm hại nên tâu lại với Hùng Vương. Hùng Vương bảo dân ta ở núi là loài rồng cùng với thủy tộc có khác, bọn chúng ưa đồng mà ghét dị cho nên mới xâm hại. Bèn dạy dân lấy mực xăm hình thủy quái trên người, tránh được nạn giao long cắn hại. Tục xăm mình của người Việt cổ bắt đầu từ đây.

Ban đầu, người dân Văn Lang lấy vỏ cây làm áo mặc, phụ nữ mặc áo váy, nam giới đóng khố; biết dệt cỏ ống làm chiếu nằm, sau đó biết sáng chế dụng cụ xe sợi bằng đất nung - tiền đề của việc dệt vải. Cả nam lẫn nữ đều thích dùng đồ trang sức. Người dân cũng biết gác cây làm nhà để tránh thú dữ, giống nhà sàn hiện nay. Tín ngưỡng phổ biến của cư dân Văn Lang là sùng bái tự nhiên, thờ thần Mặt Trời [ngôi sao nhiều cánh ở giữa mặt trống đồng là tượng trưng cho thần Mặt Trời], thần Sông, thần Núi… Người Việt cũng có tín ngưỡng phồn thực thể hiện niềm tin của con người trong nguyện cầu được sinh sôi nảy nở, phát triển giống nòi, ước mong sản xuất phồn thịnh, mùa màng được bội thu, nhưng không thờ sinh thực khí. Ngoài ra, người Việt cổ còn có tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, sùng kính các vị anh hùng, người có công với làng nước [thờ Thánh Gióng, thần Tản Viên…], mà đỉnh cao là tục thờ cúng Hùng Vương. Ngày giỗ Tổ Hùng Vương mùng 10-3 âm lịch là ngày lễ truyền thống của Việt Nam được giữ gìn, kế thừa đến tận ngày nay.

Một thành tựu lớn khác là người dân biết sử dụng đồ đồng. Tư liệu khảo cổ cho thấy giai đoạn cực thịnh của nền văn hóa Đông Sơn là trong thời đại Hùng Vương. Khu vực phía Bắc nước ta vốn có nhiều mỏ kim loại như: vàng, bạc, chì, sắt, đồng. Một số mỏ nông và lộ thiên, dễ khai thác thủ công, là điều kiện phù hợp để phát triển một nền văn hóa đồ đồng rực rỡ mà đỉnh cao là trống đồng cùng các loại thạp, thố với tỷ lệ hợp kim nguyên liệu lý tưởng và hoa văn sắc sảo miêu tả chân thật sinh hoạt của con người thời kỳ này như lễ “khánh thành” trống đồng, lễ chiêu hồn, đám tang, lễ cầu mùa, giã gạo, đánh trống, bơi chải...

 Trống đồng Đông Sơn hiện đã tìm thấy được ở nhiều nơi, là bằng chứng khắc họa tiêu biểu cho nền văn hóa thời đại Hùng Vương. Trên mặt trống chạm khắc những hình người thổi kèn, diễn tấu các loại chuông nhạc, lục lạc, khèn, trống đồng, vũ công đầu đội mũ lông chim trĩ, chim công [một loài chim tiêu biểu của vùng nhiệt đới] hoặc đeo mặt nạ.

Sự có mặt của trống đồng Đông Sơn ở một số nước trong khu vực như: Thái Lan, Malaysia, Indonesia cũng như phát hiện về những lưỡi qua đồng thời Chiến quốc [Trung Quốc] ở nhiều di tích văn hóa Đông Sơn; đồng thời ghi chép trong Thông giám cương mục là năm Mậu Thân thứ 5 đời Đường Nghiêu [năm 2353 TCN], Hùng Vương sai sứ sang tặng vua Nghiêu con rùa thần dài hơn 3 thước, trên lưng có văn khoa đẩu ghi việc từ khi trời đất mới mở mang trở về sau; vua Nghiêu sai chép lấy gọi là Quy lịch; năm 1110 TCN Hùng Vương cũng sai sứ qua Trung Quốc, tặng Thành Vương nhà Chu chim trĩ trắng, cho thấy nền móng ngoại giao giữa Nhà nước Văn Lang với các triều đại phong kiến phương Bắc cùng sự giao thương, trao đổi hàng hóa giữa cư dân Văn Lang với các quốc gia quanh vùng.

Thanh Thúy

Video liên quan

Chủ Đề