Ngũ ngôn cổ thể là gì năm 2024

Cách gieo vần của thể thơ này cũng được chia làm ba loại thường được gọi là cách gieo vần ba tiếng, cách gieo vần tréo và cách gieo vần ôm.Nhưng nhiều khi câu thơ cũng không tuân theo luật đó.

Cách gieo vần

1.Vần ba tiếng (ít dùng)

Sao biếc đầy trời Sầu trông viễn khơi Ðêm mờ im lặng Nhìn hạt sương rơi

2. Vần tréo

Tôi làm con gái Buồn như lá cây Chút hồn thơ dại Xanh xao tháng ngày

3. Vần ôm

Em tan trường về Ðường mưa nho nhỏ Chim non giấu mỏ Dưới cội hoa vàng

II.Thơ Năm Chữ (Ngũ ngôn cổ thể trường thiên) Thơ ngũ ngôn có độ dài ngắn khác nhau nhưng được chia thành nhiều khổ nhỏ, mỗi khổ gồm 4 dòng thơ.

Cũng giống như thơ bốn chữ: nếu chữ thứ hai trong cầu là bằng thì chữ thứ tư là trắc và ngược lại. Nhưng cũng có nhiều trường hợp không phải vậy. Cách gieo vần của thể thơ này cũng được chia làm hai loại thường được gọi là cách gieo vần ôm, và cách gieo vần tréo

Thí dụ: Gieo Vần ôm:

Em có nghe hay chăng Lá thu đang vẫy gọi Rừng thu đang đón mời Em về vơi hoang vắng

Thí dụ: Gieo vần tréo

Trước sân anh thơ thẩn Đăm đăm ngóng nhạn về Mây chiều còn phiêu bạt Lang thang trên đồi quê…

III. Thơ Sáu Chữ Cách gieo vần của thể thơ này được chia làm hai loại: gieo vần ôm, và cách gieo vần tréo còn luật bằng trắc thì chưa thấy được áp dụng theo bất cứ quy định nào.

Thí dụ: Vần ôm

Nếu ngày mai em có tới Mang cho anh đám mây xanh Và một cơn gió trong lành Làm hành trang anh đi tới

Thí dụ: Vần tréo

Quê Hương là gì hả mẹ ? Mà Cô Giáo dạy phải yêu Quê hương là gì hả mẹ ? Mài ai đi cũng nhớ nhiều

(Huyền Kiêu)

IV. Thơ Cổ Song Tứ Lục Bát Hai câu đầu là bốn chữ, câu thứ ba là sáu chữ và câu cuối là tám chữ theo luật như sau:

Đoạn một x B x T(v) x T x B(v) x B x T x B(v) x B x T x B(v) T B(v*)

đoạn hai: x B x T(v*) x T x B(v) x B x T x B(v) x B x T x B(v) T B(v)

Nếu như bắt đầu câu thứ nhất là T B T thì câu 4 chữ thứ hai phải là B T B, nhưng câu thu' ba thứ tư đều là B T B như bình thường

Thí dụ:

Lòng như tơ RỐI Mặn đắng bờ MÔI Mất nhau ta mất thiệt RỒI Còn đây nỗi khổ mình TÔI hận LÒNG*

Tâm còn giao ĐỘNG* Lòng còn Mãi MONG Bóng hình vẫn giữ trong LÒNG Người ơi có thấu lệ ĐONG nhạt NHÒA*

  1. Song Thất Lục Bát Thể thơ Song Thất Lục Bát này là của riêng Việt nam ta, cho nên luật thơ không gò bó theo các kiểu thơ khác .

Thơ Song Thất Lục Bát gồm mỗi đoạn có 4 câu, hai câu đầu là Song Thất, có nghĩa là mỗi câu có 7 chữ, hai câu cuối là Lục, Bát, câu thứ ba sáu chữ, câu thứ 4 tám chữ được xắp theo luật bằng trắc như sau:

x x x x B x T(v) x = tự do x x B x T(v) x B(v) B = thanh bằng x B x T x B(v) T = thanh trắc x B x T x B(v) T B(v) v = vần với nhau

Đây là luật thơ trong một đoạn, để có thể nối thêm đoạn nữa thì có thể theo luật sau: Câu thứ thư của đọan một: x B x T x B(v) T B(v) Câu thứ nhất đoạn hai: x x x x B(v) x T(v) Hoặc Câu thứ thư của đọan một: x B x T x B(v) T B(v) Câu thứ nhất đoạn hai: x x B(v) x x x T(v)

Thí dụ: (các chữ viết HOA là vần với nhau, các chữ có thêm (*) là nối liền hai đoạn)

Thủa trời đất nổi cơn gió BỤI Khách má hồng nhiều NỖI truân CHUYÊN Xanh kia thăm thẳm từng TRÊN Nào ai gây dựng cho NÊN nỗi NÀY *

Trống Trường Thành lung LAY * bóng NGUYỆT Khói Cam Tuyền mời MỊT khúc MÂY Chín tầng gươm báu trao TAY Nửa đêm truyền Hịch đợi NGÀY xuất CHINH*

Nhịp thơ và sự khác biệt với thơ thất ngôn Tàu:

Một số người cho rằng Song Thất Lục Bát là đứa con lai – Hai câu Đường Luật đi trước (Song Thất) là phần Tàu, hai câu Lục Bát đi sau, là phần Ta...

Suy nghĩ này có nhiều người phản đối... đối với họ Song Thất Lục Bát là của Việt Nam hoàn toàn...

Thật vậy, nhịp điệu của thơ Tàu khác với thơ Ta

1. Hãy để ý hai câu thơ Đường Luật:

Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà Cỏ cây chen lá đá chen hoa

(Đèo Ngang – Bà Huyện Thanh Quan)

Nhịp của thơ là 2-2-3, 2-2-3

Bước tới / Đèo Ngang / bóng xế tà Cỏ cây / chen lá / đá chen hoa

2. Hãy để ý đến hai câu Song Thất

Chàng tuổi trẻ vốn dòng hào kiệt Xếp bút nghiên theo việc đao cung

(Chinh Phụ Ngâm – Đoàn Thị Điểm)

Nhịp của thơ là 3-2-2, 3-2-2

Chàng tuổi trẻ / vốn dòng / hào kiệt Xếp bút nghiên / theo việc / đao cung

VI. Lục Bát Liên Hoàn Lục Bát là loại thơ một câu sáu chữ rồi đến một câu tám chữ cứ thế nối liền nhau. Bài thơ lục bát thông thường được bắt đầu bằng câu lục và kết thúc bằng câu bát. Đôi khi cũng có trường hợp kết thúc bằng câu lục để đạt tính cách lơ lửng, hiểu ngầm, hay hầu đạt tính cách đột ngột.

Lục Bát là thể thơ thông dụng nhất, vì cách làm và gieo vần tương đối đơn giản. Lục= sáu chữ - chữ thứ 2 Bằng, thứ 4 Trắc, thứ 6 Bằng Bát= tám chữ - chữ thu 2 Bằng, thứ 4 Trắc, thứ 6 Bằng, thứ 8 Bằng

Trong thơ lục bát, chữ thứ sáu của câu Lục, vần với chữ thứ sáu của câu Bát. Chữ thứ tám của câu Bát vần với chữ thứ sáu của câu Lục kế tiếp và cứ theo quy luật đó cho đến hết bài thơ. (Chữ thứ 6 và thứ 8 của câu bát nên thay đổi, hễ chữ này không dấu thì chữ kia có dấu hyền hay ngược lại ).

Ngồi chờ hết cả đêm nay x B x T x B(v) Chỉ mong anh được xuân này bình yên x B x T x B(v) x B(v) Cớ sao anh lại không lên x B x T x B(v) Vô tình anh lại bỏ quên tim này x B x T x B(v) x B(v)

Tuy nhiên vẫn có những trường hợp ngoại lệ 1.Chữ thứ 2 câu lục có thể là trắc, khi ấy nhịp thơ ngắt ở giữa câu

Người nách (T) thước, kẻ tay đao Đầu trâu mặt ngựa, ào ào như sôi (Nguyễn Du)

2.Chữ cuối câu lục có thể vần với tiếng 4 câu bát, khi đó chữ 2 và 6 của câu bát sẽ đổi ra trắc. Câu thơ sẽ ngắt nhịp ở giữa câu bát

Đêm nằm gối gấm không êm Gối lụa (T) không mềm bằng gối (T) tay em Hoặc Con cò mà đi ăn đêm Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao

VII. Đường Luật ( Thất ngôn bát cú ) Bài viết đầu đã có nói đến tuy nhiên tôi thấy bài này khá hay, có thể nêu thêm để bổ sung cho ý của bài viết trên nên tiếp tục đăng vào đây, thông cảm nha !

Thơ Đường được bắt đầu từ bên trung hoa, thời Nhà Đường bên Trung Hoa rất xem trọng các văn hào, và cũng vì lẽ đó nên các quan trong chiều bắt buộc phải biết làm thơ, cho nên trong thời nhà Đường có rất nhiều thi sĩ nổi tiếng. Đặc biệt hơn nữa, các thi hào thời nhà Đường đã phát triển một lối làm thơ riêng biệt mà ngày nay chúng ta được biết là Thơ Đường.

1. Thơ đường có 2 loại : chính cách và thiên cách *Chính cách : là những bài thơ mà tác giả tuân thủ triệt để thanh Bằng - Trắc quy định của từng câu

Thể thơ đường luât chính cách được chia làm hai loại - Trắc thể chính cách

Bước tới đèo Ngang bóng xế tà ( T B T ) Cỏ cây chen đá, lá chen hoa ( B T B ) Lom khom dưới núi, tiều vài chú ( B T B ) Lác đác bên sông, rợ mấy nhà ( T B T ) Nhớ nước đau lòng con quốc quốc ( T B T ) Thương nhà mỏi miệng cái gia gia ( B T B ) Dừng chân đứng lại: trời non nước ( B T B ) Một mảnh tình riêng: ta với ta ( T B T ) (Bà Huyện Thanh Quan)

- Bằng thể chính cách

Quanh năm buôn bán ở nom sông ( B T B ) Nuôi đủ năm con với một chồng ( T B T ) Lặn lội thân cò khi quãng vắng ( T B T ) Eo sèo mặt nước buổi đò đông ( B T B ) Một duyên hai nợ âu đành phận ( B T B ) Năm nắng mười mưa dám quản công ( T B T ) Cha mẹ thói đời ăn ở bạc, ( T B T ) Có chồng hờ hững cũng như không ( B T B ) (Tú Xương)

*Thiên cách : là những bài thơ mà tác giả áp dụng luật " Nhất tam ngũ bất luận". _ Nhưng từ trước đến giờ không mấy ai theo một cách triệt để. Luật " Bất Luận" luôn luôn được áp dụng, không nhiều thì ít. Giá trị của Luật Bất Luận là làm cho ngòi bút của thi nhân được thêm phần phóng túng.

2. Bố Cục Của Thơ Đường Luật Trong thơ Đường Luật, mỗi một câu đều có chức năng của nó: Câu 1 và 2 là phá đề và thừa đề. Câu 3 và 4 là Thực hay Trạng, dùng để giải thích hoặc đưa thêm chi tiết bổ nghĩa đề bài cho rõ ràng Câu 5 và 6 là Luận, dùng để bàn luận cho rộng nghĩa hay cũng có thể dùng như câu 3 và 4 Câu 7 và 8 là Kết, kết luận ý của bài thơ

Những chữ cuối của câu số 1, 2, 4, 6, và 8 là những chữ mang vần trong bài thơ và thuờng thì mang thanh BẰNG và bắt buộc phải vần với nhau theo cùng một âm, những chữ này có thể mang thanh Trắc, nhưng chưa bao giờ thấy cả.

Những chữ cuối của những câu 3, 5,và 7 mang thanh Trắc và không phải vần với nhau (nếu chữ cuối của những câu 1, 2, 4, 6, và 8 là thanh Trắc thì có lẽ chữ cuối của những câu này mang thanh Bằng)

Cũng giống như Thất Ngôn Tứ Tuyệt, luật bằng trắc trong Đường Thi Chính cách cũng chỉ áp dụng cho những chữ 2, 4, và 6 trong mỗi câu mà thôi. Điểm khó nhất trong Đường Thi là câu số ba và câu số bốn, bởi vì hai câu này được gọi là hai câu Thực và hai câu năm và câu sáu là hai câu Luận, hai cặp câu này luôn luôn đối nhau, Danh Từ đối Danh Từ, Động Từ đối Động Từ, Tính Từ đối Tính Từ, quan trọng hơn cả là hai câu 5,6 phải đối ý với hai câu 3,4 hoặc bổ sung cho ý của câu 3,4 .

Điểm cao nhất của Đường Thi là có thể Hoạ Thơ với người khác, nghĩa là sẽ dùng lại tất cả những chữ mang Vần của bài thơ muốn họa tức là bài thơ của người đầu tiên ( thường được gọi là bài Xướng Thi) để diễn tả theo ý thơ của mình.

VIII. Bát Ngôn Bài viết đầu đã có nói đến tuy nhiên tôi thấy bài này khá hay, có thể nêu thêm để bổ sung cho ý của bài viết trên nên tiếp tục đăng vào đây, thông cảm nha !

Thơ bát ngôn ( tám chữ ) thường làm theo lối liên vận hoặc cách vận. - Liên vận: câu đầu thường không bắt vần, từ câu hai trở đi mới cặp vần. Cứ hai câu bằng rồi đến hai câu trắc hay ngược lại. Cách chia thành từng đoạn 4 câu trong thể liên vận chỉ là hình thức vì câu đầu đoạn sau vẫn cần vần với câu cuối đoạn trước.

Thôi thì gió mang niềm riêng đi cất Để từng ngày tiếp nối những sầu vương Cuối cuộc đời chào biệt thú đau thương Tan muôn ngã theo mây ngàn, gió nhé!

- Cách vận: câu lẻ vần với câu lẻ và câu chẳn vần với câu chẳn. Như vậy một đoạn 4 câu cần hai vần, nhưng ngược lại các đoạn không cần nối vần với nhaụ.

Em không đến, làm sao ta biết được Đời sống này, hạnh phúc có hay không? Mưa đã đến, cọng cỏ xanh mọng nước Riêng trời ta, mây xám vẫn mênh mông

Một biến dạng của thơ tám chữ cách vận là trong 1 đoạn 4 câu chỉ cần câu 4 vần với câu 2; còn hai câu lẻ mang vần trắc là đủ.