Hướng dẫn giám sát liệt mềm cấp năm 2024

Bệnh bại liệt là một nhiễm trùng cấp tính gây ra bởi vi rút bại liệt (một enterovirus). Các biểu hiện bao gồm bệnh nhẹ không đặc hiệu (viêm tủy xám dạng thui chột), đôi khi viêm tủy xám không liệt (bệnh bại liệt không liệt), và ít hơn là liệt mềm của các nhóm cơ khác nhau (bại liệt). Chẩn đoán dựa trên lâm sàng, mặc dù chẩn đoán có thể dựa vào cận lâm sàng. Điều trị là hỗ trợ.

Việc khắp đã gần như đã loại trừ bệnh trên toàn thế giới. Năm 2022, vi rút bại liệt hoang dại loại 1 chỉ lưu hành ở 2 quốc gia (Afghanistan, 2 ca bại liệt; Pakistan, 20 ca). Ngược lại, các đợt bùng phát vi rút bại liệt có nguồn gốc từ vắc xin đã được báo cáo ở thêm 31 quốc gia, bao gồm Hoa Kỳ, Vương quốc Anh, Israel, Malawi, Chad, Cộng hòa Dân chủ Congo và Yemen. (Xem thêm Polio Eradication Initiative.)

  • 1. Link-Gelles R, Lutterloh E, Schnabel Ruppert P, et al: Public Health Response to a Case of Paralytic Poliomyelitis in an Unvaccinated Person and Detection of Poliovirus in Wastewater - New York, June-August 2022. MMWR Morb Mortal Wkly Rep 71(33):1065-1068, 2022 Xuất bản ngày 19 tháng 8 năm 2022. doi:10.15585/mmwr.mm7133e2
  • 2. Ryerson AB, Lang D, Alazawi MA, et al: Wastewater Testing and Detection of Poliovirus Type 2 Genetically Linked to Virus Isolated from a Paralytic Polio Case - New York, March 9-October 11, 2022. MMWR Morb Mortal Wkly Rep. 71(44):1418-1424, 2022 Xuất bản ngày 4 tháng 11 năm 2022. doi:10.15585/mmwr.mm7144e2

Vi rút xâm nhập qua đường phân - miệng hoặc đường hô hấp, sau đó nhân lên ở niêm mạc hầu họng và niêm mạc đường tiêu hóa dưới. Vi rút được tiết vào nước bọt và phân, từ đó nó có thể được truyền sang người khác. Sau đó, vi rút sẽ xâm nhập vào các hạch bạch huyết ở cổ và mạc treo ruột. Khởi đầu là nhiễm vi rút huyết (nhỏ) sau đó vi rút lan sang hệ thống lưới nội mô. Nhiễm trùng có thể xảy ra tại thời điểm này, hoặc vi rút có thể nhân rộng thêm và gây ra nhiễm vi rút máu thứ phát vài ngày, lên đến đỉnh điểm là sự phát triển của các triệu chứng và kháng thể.

Trong nhiễm trùng bại liệt, virus bại liệt xâm nhập vào hệ thần kinh trung ương - cho dù là do vi rút thứ phát hay di trú lên dây thần kinh ngoại biên thì đều không rõ ràng. Tổn thương đáng kể chỉ xảy ra ở tủy sống và não, đặc biệt là trong hệ thần kinh vận động hoặc tự động. Viêm kết hợp các tổn thương do sự xâm nhập của vi rút nguyên phát gây ra. Các yếu tố dẫn đến tổn thương thần kinh nghiêm trọng bao gồm

  • Tăng lão hóa (trong suốt cuộc đời)
  • Phẫu thuật cắt bỏ amidan hoặc tiêm bắp gần đây
  • Mang thai
  • Sự suy giảm chức năng của tế bào B
  • Ảnh hưởng tới vận động xảy ra đồng thời với sự khởi đầu của pha hệ thần kinh trung ương

Vi rút bại liệt có trong cổ họng và phân trong quá trình ủ bệnh, và sau khi xuất hiện triệu chứng, vẫn tồn tại 1 đến 2 tuần ở cổ họng và ≥ 3 đến 6 tuần trong phân.

Các triệu chứng và dấu hiệu của bệnh bại liệt

  • Bại liệt thể nhẹ
  • Viêm tủy xám có liệt hoặc không liệt

Bại liệt thể nhẹ

Hầu hết nhiễm trùng toàn thân, đặc biệt ở trẻ nhỏ, số ít, đều có sốt nhẹ từ 1-3 ngày, mệt mỏi, nhức đầu, đau họng và nôn mửa từ 3 đến 5 ngày sau khi phơi nhiễm. Không có triệu chứng thần kinh hoặc dấu hiệu, và khám lâm sàng thường chỉ phát hiện được triệu chứng sốt.

Bệnh bại liệt thể liệt và bệnh bại liệt không do liệt

Bệnh bại liệt thể liệt xảy ra ở < 1% trong số tất cả các nhiễm trùng vi rút bại liệt. Bệnh có thể biểu hiện như là một bệnh hai pha ở trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ với giai đoạn liệt xảy ra vài ngày sau khi thuyên giảm các triệu chứng bại liệt thể nhẹ. Ủ bệnh thường là từ 7 đến 21 ngày.

Nuốt khó, chảy nước mũi, và nói giọng mũi là những dấu hiệu đầu tiên liên quan đến thanh quản, nhưng một số bệnh nhân bị liệt họng và không thể kiểm soát được bài tiết ở miệng. Cũng như liệt hệ vận động, ảnh hưởng đến hành não có thể xấu đi hơn 2 đến 3 ngày và ở một số bệnh nhân, ảnh hưởng đến các trung tâm hô hấp và tuần hoàn của não bộ, dẫn đến bù trừ ở hệ hô hấp. Thỉnh thoảng, suy hô hấp phát triển khi cơ hoành hoặc các cơ liên sườn bị ảnh hưởng.

  • Chọc dò tủy sống
  • Nuôi cấy (phân, dịch hầu họng và dịch não tuỷ)
  • Phản ứng chuỗi sao chép ngược polymerase (RT-PCR)
  • Xét nghiệm huyết thanh học đối với các type huyết thanh bại liệt, nhóm enterovirus khác và vi rút West Nile

Khi không có biểu hiện của hệ thần kinh trung ương, bại liệt không triệu chứng (thể nhẹ) giống như các bệnh nhiễm vi rút khác và thường không được nghĩ tới hoặc chẩn đoán trừ khi trong vùng dịch tễ.

Viêm tủy xám không liệt giống như các loại vi rút gây viêm màng não khác. Ở những bệnh nhân này, chọc dịch tủy sống thường được thực hiện; dịch não tủy thường có glucose bình thường, protein tăng nhẹ và số lượng tế bào từ 10 đến 500/mcL (chủ yếu là bạch cầu lympho). Việc phát hiện vi rút trong dịch hầu họng, phân, dịch não tủy hoặc biểu hiện tăng nồng độ kháng thể xác định nhiễm vi rút bại liệt nhưng thường không cần thiết ở những bệnh nhân không biến chứng.

  • Bệnh thường không gây sốt.
  • Yếu cơ đối xứng.
  • Bất thường về cảm giác xảy ra ở 70% bệnh nhân
  • Protein dịch não tuỷ thường tăng cao và số lượng tế bào dịch não tuỷ bình thường.

Các dữ liệu dịch tễ học (ví dụ như lịch sử tiêm chủng, đi du lịch gần đây, tuổi, mùa) có thể giúp gợi ý nguyên nhân. Do việc xác định vi rút bại liệt hoặc một loại vi rút đường ruột khác là nguyên nhân gây ra tình trạng liệt mềm cấp tính có vai trò rất quan trọng vì lý do sức khỏe cộng đồng, do đó cần phải báo cáo ngay các trường hợp nghi ngờ cho sở y tế địa phương hoặc tiểu bang để hỗ trợ xét nghiệm chẩn đoán. Cần phải lấy hai bộ tăm bông lấy bệnh phẩm họng và toàn bộ mẫu bệnh phẩm phân cách nhau ít nhất 24 giờ để nuôi cấy vi rút và làm phản ứng chuỗi polymerase phiên mã ngược. Cũng có thể cần phải lấy mẫu bệnh phẩm dịch não tủy và mẫu bệnh phẩm máu. Cần phải làm xét nghiệm huyết thanh học chuyên biệt cho các virut bại liệt, các enterovirus khác và vi rút West Nile.

  • Chăm sóc hỗ trợ

Điều trị bệnh bại liệt là điều trị hỗ trợ và bao gồm nghỉ ngơi, giảm đau, và hạ sốt nếu cần. Không có liệu pháp kháng vi rút đặc hiệu.

Trong viêm tủy sống cấp tính, cần phải phòng tránh các biến chứng của nghỉ ngơi trên giường (ví dụ như huyết khối tĩnh mạch sâu, xẹp phổi, nhiễm trùng tiết niệu) và kéo dài thời gian bất động (ví dụ, co cứng). Suy hô hấp có thể cần thông khí cơ học. Thông khí cơ học hoặc liệt hành tuỷ đòi hỏi các biện pháp làm sạch phổi nâng cao.

Viêm tủy xám không liệt, thường phục hồi hoàn toàn.

Trong bệnh bại liệt thể tuỷ, khoảng hai phần ba số bệnh nhân có liệt không hồi phục. Liệt hành tủy có nhiều khả năng tự khỏi hơn liệt ngoại vi. Tỷ lệ tử vong là 4 đến 6%, nhưng tăng lên 10 đến 20% ở người lớn và ở những bệnh nhân bị liệt hành tuỷ.

Vắc xin Salk - vi rút bại liệt bất hoạt (IPV) được ưa thích hơn so với vắc xin Sabin uống - vi rút bại liệt giảm độc lực (OPV). Vi rút suy yếu trong OPV nhân lên trong ruột của người nhận và được bài tiết tạm thời qua phân và do đó có khả năng lây truyền qua đường miệng cho những người khác, có khả năng tiêm chủng cho những người không được tiêm trực tiếp. Tuy nhiên, việc truyền qua nhiều cá thể như vậy có thể dẫn đến đột biến của vi rút vắc xin, rất hiếm khi thành một chủng (vi rút bại liệt có nguồn gốc từ vắc xin) có thể gây ra bệnh bại liệt thể liệt, dẫn đến khoảng 1 trường hợp trên 2.400.000 liều OPV. Đột biến này thường xảy ra trong thành phần của vi rút bại liệt loại 2 của vắc xin. Do đó, OPV không còn có ở Hoa Kỳ. Ngoài ra, vi rút bại liệt típ 2 đã được loại bỏ khỏi OPV vào năm 2016 do các vụ dịch phát sinh từ vắc xin mang vi rút thay vì sự tiệt trừ của vi rút bại liệt hoang dại típ 2 Tác dụng phụ nghiêm trọng không liên quan đến IPV. Không có tác dụng phụ nào liên quan đến IPV.

Người lớn không được chủng ngừa định kỳ. Những người trưởng thành không có miễn dịch đi đến vùng dịch hoặc vùng dịch tễ cần tiêm vắc xin IPV cơ bản, bao gồm 2 liều cách nhau 4 đến 8 tuần và liều thứ 3 cho 6 đến 12 tháng sau. Tiêm ít nhất 1 liều trước khi đi du lịch. Những người lớn có miễn dịch di chuyển đến khu vực lưu hành hoặc vùng dịch nên được tiêm 1 liều IPV. Cư dân New York ở những khu vực có phát hiện vi rút bại liệt nhiều lần có thể có nguy cơ nhiễm bệnh cao hơn và nên tuân theo các khuyến nghị tiêm chủng cập nhật từ Sở Y tế Tiểu bang New York (xem New York State Department of Health: Polio Vaccine). Những bệnh nhân suy giảm miễn dịch và những người tiếp xúc trong gia đình họ không nên dùng OPV.

  • Hầu hết các trường hợp nhiễm vi rút bại liệt đều không có triệu chứng hoặc gây ra các bệnh nhẹ không đặc hiệu hoặc viêm màng não vô trùng mà không có liệt; < 1% bệnh nhân phát triển hội chứng điển hình với liệt mềm (bệnh bại liệt thể liệt).
  • Liệt mềm ở chi hoặc liệt hành não không kèm mất cảm giác trong một cơn sốt cấp tính ở trẻ chưa được tiêm chủng hoặc người trưởng thành trẻ tuổi có thể là nghĩ tới bại liệt.
  • Cần phải thông báo ngay cho phòng y tế địa phương và sở y tế tiểu bang về các trường hợp nghi ngờ. Cần thực hiện việc nuôi cấy vi rút từ que tăm bông lấy bệnh phẩm họng, phân và dịch não tủy và làm phản ứng chuỗi polymerase phiên mã ngược của dịch não tủy và máu với sự phối hợp của các sở/phòng y tế.
  • Trong bệnh bại liệt thể tuỷ, khoảng hai phần ba số bệnh nhân có liệt không hồi phục.
  • Tất cả trẻ sơ sinh và trẻ em cần phải được chủng ngừa, nhưng người lớn không được chủng ngừa thường xuyên trừ khi họ có nguy cơ cao hơn (ví dụ: do du lịch, nghề nghiệp hoặc bùng phát dịch bệnh tại địa phương).

Tài nguyên bằng tiếng Anh sau đây có thể hữu ích. Vui lòng lưu ý rằng CẨM NANG không chịu trách nhiệm về nội dung của tài liệu này.

Polio Eradication Initiative: Information about The Global Polio Eradication Initiative, which intends to eradicate polio worldwide through a public-private partnership