Gia biến và lưu lạc là gì

Bài có đáp án. Câu hỏi và bài tập trắc nghiệm ngữ văn 9 bài Truyện Kiều của Nguyễn Du. Học sinh luyện tập bằng cách chọn đáp án của mình trong từng câu hỏi. Dưới cùng của bài trắc nghiệm, có phần xem kết quả để biết bài làm của mình. Kéo xuống dưới để bắt đầu.

NỘI DUNG TRẮC NGHIỆM

Câu 1: Ý nào sau đây có trình tự đúng diễn biến của các sự kiện trong “Truyện Kiều” là:

  • B. Gia biến và lưu lạc - Gặp gỡ và đính ước - Đoàn tụ
  • C. Gia biến và lưu lạc - Đoàn tụ - Gặp gỡ và đính ước
  • D. Gặp gỡ và đính ước – Đoàn tụ - Gia biến và lưu lạcCâu 2: Nguyễn Du có tên hiệu là gì?

  •    B. Tố Như
  •    C. Thanh Tâm
  •    D. Thanh Minh

Câu 3: Quê hương của Nguyễn Du ở đâu?

  •    A. Thanh Miện, Hải Dương
  •    C. Can Lộc, Hà Tĩnh
  •    D. Thọ Xuân, Thanh Hóa

Câu 4: Nguyễn Du sống ở thế kỷ bao nhiêu?

Câu 5: Tác phẩm truyện Kiều được mượn cốt truyện của truyện nào?

  •    A. Truyện Lục Vân Tiên
  •    B. Truyện Tống Trân- Cúc Hoa
  •    D. Sở kính tân trang

Câu 6: Truyện Kiều là tên gọi do ai đặt?

  •    A. Thanh Tâm tài nhân
  •    B. Nguyễn Du
  •    D. Không rõ

Câu 7: Ý nào sau đây không đúng về nghệ thuật của “Truyện Kiều”?

  • A. Có nghệ thuật dẫn chuyện hấp dẫn.
  • C. Sử dụng ngôn ngữ dân tộc và thể thơ lục bát một cách điêu luyện.
  • D. Nghệ thuật khắc họa tính cách và miêu tả tâm lí nhân vật sâu sắc.

Câu 8: Truyện Kiều gồm mấy phần?

Câu 9: Đoạn trường tân thanh có nghĩa là gì?

  •    A. Đứt từng mảnh ruột
  •    B. Tiếng kêu mới
  •    C. Con đường dài màu xanh đứt đoạn

Câu 10: Dòng nào nói đúng về những tủi nhục mà Thuý Kiều đã trải qua ?

  • A. Thanh lâu ba lượt, thanh y hai lần.
  • C. Thanh lâu hai lượt, thanh y ba lần.
  • D. Thanh lâu bốn lượt, thanh y hai lần.

Câu 11: Thể loại của Truyện Kiều là

  • B. Kí
  • C. Tiểu thuyết chương hồi
  • D. Truyền kì

Câu 12: Truyện Kiều có nguồn gốc từ đâu ?

  • A. Từ trong dân gian.
  • C. Thương những con người tài hoa bị chà đạp nên tác giả đã sáng tạo ra.
  • D. Từ cuộc đời một người con gái có tên là Tiểu Thanh.

 Câu 13: Giá trị hiện thực của Truyện Kiều là :

  • A. Tác phẩm phản ánh sâu sắc hiện thực xã hội đương thời với bộ mặt tàn bạo của tầng lớp thống trị.
  • B. Tác phẩm cũng thể hiện rõ số phận của những con người bị áp bức, đặc biệt là số phận bi kịch của người phụ nữ.
  • C. Tố cáo lễ giáo phong kiến khắc nghiệt đã đẩy người phụ nữ vào cảnh oan trái, tàn khốc.

Câu 14: Giá trị về mặt nội dung của Truyện Kiều là gì?

  •    A. Giá trị nhân đạo, hiện thực
  •    B. Bức tranh về xã hội bất công, tàn bạo chà đạp lên quyền sống của con người
  •    C. Đề cao tài năng, nhân phẩm của con người

Câu 15: Đặc sắc nhất về mặt nghệ thuật của Truyện Kiều là gì?

  •    A. Được dịch ra nhiều thứ tiếng, được giới thiệu ở nhiều nơi trên thế giới
  •    C. Nghệ thuật tự sự có bước phát triển vượt bậc
  •    D. Cách khắc họa tính cách con người độc đáo

trắc nghiệm văn 9, câu hỏi trắc nghiệm văn 9, Truyện Kiều của Nguyễn Du

Phần thứ nhất: Gặp gỡ và đính ước

Thúy Kiều là một người con gái tài sắc vẹn toàn, con gái đầu lòng trong một gia đình trung lưu lương thiện, sống trong cảnh “Êm đềm chướng rủ màn che” bên cạnh cha mẹ và hai em là Thúy Vân và Vương Quan. Trong ngày hội Đạp Thanh, gần nấm mồ Đạm Tiên - một hình ảnh báo hiệu định mệnh oan nghiệt sau này của nàng- Thuý Kiều gặp Kim Trọng. Trong buổi đi chơi xuân, Thúy Kiều đã gặp Kim Trọng, một người thư sinh “phong tư tài mạo tót vời”. Giữa hai người chớm nở một mối tình đẹp đẽ, sau đó hai người đã đính ước với nhau.

Phần thứ hai: Gia biến và lưu lạc

Kim Trọng về quê chịu tang chú, gia đình Thúy Kiều bị mắc oan, nàng đã bán mình cho Mã Giám Sinh để lấy tiền chuộc cha, nhờ Thúy Vân trả nghĩa cho Kim Trọng. Thúy Kiều bị Mã Giám Sinh, Tú Bà, Sở Khanh lừa gạt, đẩy vào lầu xanh. Sau đó Thúy Kiều được Thúc Sinh chuộc ra nhưng vợ của hắn ta là Hoạn Thư là người ghen tuông tàn nhẫn, Thúy Kiều bị đày đọa cả về thể xác và tinh thần. Kiều trốn đến nương nhờ Sư Giác Duyên ở nơi cửa Phật. Sợ bị liên luỵ, Giác Duyên gửi nàng cho Bạc Bà, không ngờ Bạc Bà lại lừa bán nàng cho một chủ lầu xanh. Ở đây, Thúy Kiều gặp Từ Hải, người anh hùng “đầu đội trời, chân đạp đất”, Từ Hải đã giúp Thúy Kiều báo ân báo oán. Do mắc lừa Hồ Tôn Hiến, Từ Hải bị giết, Thúy Kiều bị ép gả cho viên thổ quan. Thúy Kiều đau đớn trầm mình xuống sông Tiền Đường và được sư Giác Duyên cứu lần hai. Lần thứ hai, Kiều nương nhờ nơi cửa Phật.

Phần thứ ba: Đoàn tụ

Kim Trọng sau nửa năm chịu tang chú đã trở lại tìm Kiều, biết Kiều bán mình cứu cha thì đau lòng khôn nguôi. Theo lời dặn của Kiều, cha mẹ Kiều cho Thuý Vân kết duyên với Kim Trọng. Dù kết duyên với Thúy Vân nhưng Kim Trọng vẫn lưu luyến mối tình với Kiều, chàng cất công tìm kiếm, gặp được Thúy Kiều, gia đình đoàn tụ. Trong ngày đoàn viên vui vẻ, để bảo vệ " danh tiết" và tỏ lòng kính trọng người yêu, Kiều đổi tình vợ chồng thành tình bạn.nhưng cả hai nguyện ước “duyên đôi lứa cũng là duyên bạn bầy”.

Tóm tắt phần hai: gia biến và lưu lạc của “Truyện Kiều” bằng thơ lục bát.

Câu 2 [trang 80 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1]

Kể tóm tắt Truyện Kiều theo ba phần cơ bản của tác phẩm

Lời giải 1

*  Gặp gỡ và đính ước:

    Thúy Kiều là thiếu nữ tài sắc vẹn toàn, con gái đầu lòng gia đình trung lưu, sống trong cảnh êm đềm cùng hai em Thúy Vân, Vương Quan. Trong buổi du xuân Thúy Kiều gặp Kim Trọng và đem lòng yêu chàng, hai người đã tự ý thề nguyền, đính ước với nhau.

*  Gia biến và lưu lạc:

    Khi Kim Trọng về quê chịu tang chú thì gia đình Kiều gặp nạn, Kiều phải bán mình chuộc cha. Kiều bị bọn buôn người Mã Giám Sinh, Tú Bà, Sở Khanh lừa gạt, đẩy vào lầu xanh. Sau đó nàng được Thúc Sinh, cứu khỏi lầu xanh, nhưng sau đó nàng bị Hoạn Thư ghen, đày đọa. Kiều tới nương tựa nơi cửa Phật. Sư giác Duyên đẩy vô tình gửi nàng cho Bạc Bà, Kiều lần hai rơi vào lầu xanh được Từ Hải cứu, giúp nàng báo ân, báo oán. Thúy Kiều mắc mưu Hồ Tôn Hiến ép gả cho viên thổ quan, Kiều đau đớn nên trẫm mình xuống sông tiền Đường tự tử. Nàng được sư Giác Duyên cứu giúp.

* Đoàn tụ:

    Sau nửa năm chịu tang chú, Kim Trọng trở về, dù kết duyên với em gái Thúy Kiều, nhưng trong lòng chàng vẫn khôn nguôi nhớ Kiều. Nhờ sư Giác Duyên, Kim Kiều đoàn tụ cùng vui duyên “bạn bầy”.

Lời giải 2

    Thúy Kiều là một thiếu nữ tài sắc vẹn toàn, sống êm ấm cùng cha mẹ và 2 em là Thúy Vân và Vương Quan. Trong buổi du xuân, Kiều gặp Kim Trọng, thề nguyền đính ước với nhau.

    Kim Trọng về quê chịu tang chú, gia đình Kiều bị mắc oan, Kiều phải bán mình chuộc cha. Kiều bị Mã Giám Sinh, Tú Bà, Sở Khanh lừa đẩy vào lầu xanh, được Thúc Sinh cúu khỏi lầu xanh nhưng bị Hoạn Thư ghen, Kiều phải trốn đi nương náu ở chùa Giác Duyên. Vô tình Kiều lại rơi vào tay Bạc Hạnh, Bạc Bà phải vào lầu xanh lần thứ 2. Kiều gặp Từ Hải. Từ Hải lấy Kiều làm vợ, giúp Kiều báo ân báo oán. Từ Hải mắc lừa Hồ Tôn Hiến, bị giết. Kiều bị bắt ép gả cho tên thổ quan. Nàng tủi nhục trầm mình ở sông Tiền Đường, Được sư Giác Duyên cứu, nương nhờ cửa Phật lần thứ 2.

702 lượt xem

I. Đôi nét về tác giả tác phẩm:

1/ Tác giả :

– Nguyễn Du [1766– 1820] tên tự là Tố Như- hiệu là Thanh Hiên. Quê ở Tiên Điền – Nghi Xuân – Hà Tĩnh

– Sinh trưởng trong một gia đình quí tộc, có truyền thống văn học, nhiều đời làm quan.

Tìm hiểu thêm: Nguyễn Du và Truyện Kiều

2/Tác phẩm

a. Nguồn gốc:

* Truyện Kiều còn có tên gọi khác là “Đoạn trường tân thanh”. Là một truyện thơ viết bằng chữ Nôm, dài 3254 câu thơ lục bát.

–  Dựa theo cốt truyện “Kim Vân Kiều truyện” của Thanh Tâm Tài Nhân- một nhà văn Trung Quốc- sống ở đời nhà Thanh . Kể về cuộc đời Thuý kiều ở thế kỷ XVI, nhà Minh.

-Truyện Kiều không phải bản dịch, mà là sáng tạo của nhà thơ.

* Thời điểm sáng tác:

– Viết vào đầu thế kỷ XIX [1805-1809]

– Gồm 3254 câu thơ lục bát.

b. Tóm tắt tác phẩm.

Tóm tắt tác phẩm  -bố cục 3 phần.

 1-  Gặp gỡ và Đính ước:

  • Thân thế tà sắc của hai chị em Thuý Kiều.
  • Cảnh chơi hội đạp thanh và gặp kim trọng.
  • Kiều – Kim chủ động đính ước và thề nguyền.
  • Kim Trọng về Liêu Dương chịu tang chú.

2-  Gia biến và lưu lạc:

3-  Đoàn viên .

————————————————————

3254 Câu thơ Truyện Kiều

1. Trăm nămtrong cõi người ta, Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau. Trải qua một cuộc bể dâu,

Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.

5. Lạ gì bỉ sắc tư phong, Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen. Cảo thơm lần giở trước đèn, Phong tình có lục còn truyền sử xanh. Rằng năm Gia Tĩnh triều Minh,

10. Bốn phương phẳng lặng, hai kinh vững vàng.

Có nhà viên ngoại họ Vương, Gia tư nghĩ cũng thường thường bực trung. Một trai con thứ rốt lòng, Vương Quan là chữ, nối dòng nho gia.

15. Đầu lòng hai ả tố nga,

Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân. Mai cốt cách, tuyết tinh thần, Một người một vẻ, mười phân vẹn mười. Vân xem trang trọng khác vời,

20.Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang.

Hoa cười ngọc thốt đoan trang, Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da. Kiều càng sắc sảo, mặn mà, So bề tài, sắc, lại là phần hơn.

25. Làn thu thủy, nét xuân sơn,

Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh. Một, hai nghiêng nước nghiêng thành, Sắc đành đòi một, tài đành họa hai. Thông minh vốn sẵn tư trời,

30. Pha nghề thi họa, đủ mùi ca ngâm.

Cung thương làu bậc ngũ âm, Nghề riêng ăn đứt Hồ cầm một trương. Khúc nhà tay lựa nên chương, Một thiên bạc mệnh, lại càng não nhân.

35. Phong lưu rất mực hồng quần,

Xuân xanh sấp xỉ tới tuần cập kê Êm đềm trướng rủ màn che, Tường đông ong bướm đi về mặc ai. Ngày xuân con én đưa thoi,

40. Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi.

Cỏ non xanh tận chân trời, Cành lê trắng điểm một vài bông hoa. Thanh minh trong tiết tháng ba, Lễ là tảo mộ, hội là đạp Thanh.

45. Gần xa nô nức yến anh,

Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân. Dập dìu tài tử, giai nhân, Ngựa xe như nước áo quần như nêm. Ngổn ngang gò đống kéo lên,

50. Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay.

Tà tà bóng ngả về tây, Chị em thơ thẩn dan tay ra về. Bước dần theo ngọn tiểu khê, Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh.

55.Nao nao dòng nước uốn quanh,

Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang. Sè sè nấm đất bên đàng, Dàu dàu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh. Rằng: Sao trong tiết thanh minh,

60. Mà đây hương khói vắng tanh thế mà?

Vương Quan mới dẫn gần xa: Đạm Tiên nàng ấy xưa là ca nhi. Nổi danh tài sắc một thì, Xôn xao ngoài cửa hiếm gì yến anh.

65. Kiếp hồng nhan có mong manh,

Nửa chừng xuân thoắt gãy cành thiên hương. Có người khách ở viễn phương, Xa nghe cũng nức tiếng nàng tìm chơi. Thuyền tình vừa ghé tới nơi,

70. Thì đà trâm gẫy bình rơi bao giờ.

Buồng không lạnh ngắt như tờ, Dấu xe ngựa đã rêu lờ mờ xanh. Khóc than khôn xiết sự tình, Khéo vô duyên ấy là mình với ta.

75. Đã không duyên trước chăng mà,

Thì chi chút ước gọi là duyên sau. Sắm xanh nếp tử xe châu, Vùi nông một nấm mặc dầu cỏ hoa. Trải bao thỏ lặn ác tà,

80. ấy mồ vô chủ, ai mà viếng thăm!

Lòng đâu sẵn mối thương tâm, Thoắt nghe Kiều đã đầm đầm châu sa. Đau đớn thay phận đàn bà! Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.

85. Phũ phàng chi bấy hoá công,

Ngày xanh mòn mỏi má hồng phôi pha. Sống làm vợ khắp người ta, Khéo thay thác xuống làm ma không chồng. Nào người phượng chạ loan chung,

90. Nào người tích lục tham hồng là ai ?

đã không kẻ đoái người hoài, Sẵn đây ta kiếm một vài nén hương. Gọi là gặp gỡ giữa đường, Họa là người dưới suối vàng biết cho.

95. Lầm rầm khấn khứa nhỏ to,

Sụp ngồi vài gật trước mồ bước ra. Một vùng cỏ áy bóng tà, Gió hiu hiu thổi một vài bông lau. Rút trâm sẵn giắt mái đầu,

100. Vạch da cây vịnh bốn câu ba vần.

Lại càng mê mẩn tâm thần Lại càng đứng lặng tần ngần chẳng ra. Lại càng ủ dột nét hoa, Sầu tuôn đứt nối, châu sa vắn dài.

105. Vân rằng: Chị cũng nực cười,

Khéo dư nước mắt khóc người đời xưa. Rằng: Hồng nhan tự thuở xưa, Cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu ? Nỗi niềm tưởng đến mà đau,

110. Thấy người nằm đó biết sau thế nào ?

Quan rằng: Chị nói hay sao, Một lời là một vận vào khó nghe. ở đây âm khí nặng nề, Bóng chiều đã ngả dậm về còn xa.

115. Kiều rằng: Những đấng tài hoa,

Thác là thể phách, còn là tinh anh, Dễ hay tình lại gặp tình, Chờ xem ắt thấy hiển linh bây giờ. Một lời nói chửa kịp thưa,

120.Phút đâu trận gió cuốn cờ đến ngay.

ào ào đổ lộc rung cây, ở trong dường có hương bay ít nhiều. Đè chừng ngọn gió lần theo, Dấu giày từng bước in rêu rành rành.

125. Mắt nhìn ai nấy đều kinh,

Nàng rằng: Này thực tinh thành chẳng xa. Hữu tình ta lại gặp ta, Chớ nề u hiển mới là chị em. Đã lòng hiển hiện cho xem,. Tạ lòng nàng lại nối thêm vài lời.

130.Lòng thơ lai láng bồi hồi,

Gốc cây lại vạch một bài cổ thi. Dùng dằng nửa ở nửa về, Nhạc vàng đâu đã tiếng nghe gần gần.

135. Trông chừng thấy một văn nhân,

Lỏng buông tay khấu bước lần dặm băng. đề huề lưng túi gió trăng, Sau chân theo một vài thằng con con. Tuyết in sắc ngựa câu giòn,

140. Cỏ pha màu áo nhuộm non da trời.

Nẻo xa mới tỏ mặt người, Khách đà xuống ngựa tới nơi tự tình. Hài văn lần bước dặm xanh, Một vùng như thể cây quỳnh cành dao.

145. Chàng Vương quen mặt ra chào,

Hai Kiều e lệ nép vào dưới hoa. Nguyên người quanh quất đâu xa, Họ Kim tên Trọng vốn nhà trâm anh. Nền phú hậu, bậc tài danh,

150.Văn chương nết đất, thông minh tính trời.

Phong tư tài mạo tót vời, Vào trong phong nhã, ra ngoài hào hoa. Chung quanh vẫn đất nước nhà, Với Vương Quan trước vẫn là đồng thân.

155.Vẫn nghe thơm nức hương lân,

Một nền đồng Tước khoá xuân hai Kiều. Nước non cách mấy buồng thêu, Những là trộm nhớ thầm yêu chốc mòng. May thay giải cấu tương phùng,

160.Gặp tuần đố lá thoả lòng tìm hoa.

Bóng hồng nhác thấy nẻo xa, Xuân lan thu cúc mặn mà cả hai. Người quốc sắc, kẻ thiên tài, Tình trong như đã, mặt ngoài còn e.

165. Chập chờn cơn tỉnh cơn mê.

Rốn ngồi chẳng tiện, dứt về chỉn khôn. Bóng tà như giục cơn buồn, Khách đà lên ngựa, người còn nghé theo. Dưới cầu nước chảy trong veo,

170.Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha.

Kiều từ trở gót trướng hoa, Mặt trời gác núi chiêng đà thu không. Mảnh trăng chênh chếch dòm song, Vàng gieo ngấn nước, cây lồng bóng sân.

175.Hải đường lả ngọn đông lân,

Giọt sương gieo nặng cành xuân la đà. Một mình lặng ngắm bóng nga, Rộn đường gần với nỗi xa bời bời: Người mà đến thế thì thôi,

180.Đời phồn hoa cũng là đời bỏ đi!

Người đâu gặp gỡ làm chi, Trăm năm biết có duyên gì hay không? Ngổn ngang trăm mối bên lòng, Nên câu tuyệt diệu ngụ trong tính tình.

185.Chênh chênh bóng nguyệt xế mành,

Tựa nương bên triện một mình thiu thiu. Thoắt đâu thấy một tiểu kiều, Có chiều thanh vận, có chiều thanh tân. Sương in mặt, tuyết pha thân,

190. Sen vàng lãng đãng như gần như xa.

Chào mừng đón hỏi dò la: Đào nguyên lạc lối đâu mà đến đây ? Thưa rằng: Thanh khí xưa nay, Mới cùng nhau lúc ban ngày đã quên.

195.Hàn gia ở mé tây thiên,

Dưới dòng nước chảy bên trên có cầu. Mấy lòng hạ cố đến nhau, Mấy lời hạ tứ ném châu gieo vàng.

Vâng trình hội chủ xem tường,

Page 2

155 lượt xem

200. Mà sao trong sổ đoạn trường có tên. Âu đành quả kiếp nhân duyên, Cùng người một hội, một thuyền đâu xa! Này mười bài mới mới ra,

Câu thần lại mượn bút hoa vẽ vời.

205. Kiều vâng lĩnh ý đề bài, Tay tiên một vẫy đủ mười khúc ngâm. Xem thơ nức nở khen thầm: Giá đành tú khẩu cẩm tâm khác thường Ví đem vào tập đoạn Trường

210. Thì treo giải nhất chi nhường cho ai.

Thềm hoa khách đã trở hài, Nàng còn cầm lại một hai tự tình. Gió đâu xịch bức mành mành, Tỉnh ra mới biết rằng mình chiêm bao.

215.Trông theo nào thấy đâu nào

Hương thừa dường hãy ra vào đâu đây. Một mình lưỡng lự canh chầy, Đường xa nghĩ nỗi sau này mà kinh. Hoa trôi bèo dạt đã đành,

220. Biết duyên mình, biết phận mình thế thôi !

Nỗi riêng lớp lớp sóng dồi, Nghĩ đòi cơn lại sụt sùi đòi cơn. Giọng Kiều rền rĩ trướng loan, Nhà Huyên chợt tỉnh hỏi: Cơn cớ gì ?

225.Cớ sao trằn trọc canh khuya,

Màu hoa lê hãy dầm dề giọt mưa ? Thưa rằng: Chút phận ngây thơ, Dưỡng sinh đôi nợ tóc tơ chưa đền. Buổi ngày chơi mả đạm Tiên,

230. Nhắp đi thoắt thấy ứng liền chiêm bao.

đoạn trường là số thế nào, Bài ra thế ấy, vịnh vào thế kia. Cứ trong mộng triệu mà suy, Phận con thôi có ra gì mai sau !

235. Dạy rằng: Mộng triệu cớ đâu,

Bỗng không mua não chuốc sầu nghĩ nao. Vâng lời khuyên giải thấp cao, Chưa xong điều nghĩ đã dào mạch Tương. Ngoài song thỏ thẻ oanh vàng,

240. Nách tường bông liễu bay ngang trước mành.

Hiên tà gác bóng chênh chênh, Nỗi riêng, riêng trạnh tấc riêng một mình. Cho hay là thói hữu tình,

Đố ai gỡ mối tơ mành cho xong.

245. Chàng Kim từ lại thư song, Nỗi nàng canh cánh bên lòng biếng khuây. Sầu đong càng lắc càng đầy, Ba thu dồn lại một ngày dài ghê. Mây Tần khóa kín song the,

250. Bụi hồng lẽo đẽo đi về chiêm bao.

Tuần trăng khuyết, đĩa dầu hao, Mặt mơ tưởng mặt, lòng ngao ngán lòng. Buồng văn hơi giá như đồng, Trúc se ngọn thỏ, tơ chùng phím loan.

255. Mành Tương phất phất gió đàn,

Hương gây mùi nhớ, trà khan giọng tình. Vì chăng duyên nợ ba sinh, Thì chi đem thói khuynh thành trêu ngươi. Bâng khuâng nhớ cảnh, nhớ người,

260. Nhớ nơi kỳ ngộ vội dời chân đi.

Một vùng cỏ mọc xanh rì, Nước ngâm trong vắt, thấy gì nữa đâu ! Gió chiều như gợi cơn sầu, Vi lô hiu hắt như màu khảy trêu.

265. Nghề riêng nhớ ít tưởng nhiều,

Xăm xăm đè nẻo Lam Kiều lần sang. Thâm nghiêm kín cổng cao tường, Cạn dòng lá thắm dứt đường chim xanh. Lơ thơ tơ liễu buông mành,

270. Con oanh học nói trên cành mỉa mai.

Mấy lần cửa đóng then cài, đầy thềm hoa rụng, biết người ở đâu ? Tần ngần đứng suốt giờ lâu, Dạo quanh chợt thấy mái sau có nhà.

275. Là nhà Ngô Việt thương gia,

Buồng không để đó người xa chưa về. Lấy điều du học hỏi thuê, Túi đàn cặp sách đề huề dọn sang. Có cây, có đá sẵn sàng,

280. Có hiên Lãm thúy, nét vàng chưa phai.

Mừng thầm chốn ấy chữ bài, Ba sinh âu hẳn duyên trời chi đây. Song hồ nửa khép cánh mây, Tường đông ghé mắt ngày ngày hằng trông.

285. Tấc gang đồng tỏa nguyên phong,

Tuyệt mù nào thấy bóng hồng vào ra. Nhẫn từ quán khách lân la, Tuần trăng thấm thoắt nay đà thèm hai. Cách tường phải buổi êm trời,

290. Dưới đào dường có bóng người thướt tha.

Buông cầm xốc áo vội ra, Hương còn thơm nức, người đà vắng tanh. Lần theo tường gấm dạo quanh, Trên đào nhác thấy một cành kim thoa.

295. Giơ tay với lấy về nhà:

Này trong khuê các đâu mà đến đây ? Ngẫm âu người ấy báu này, Chẳng duyên chưa dễ vào tay ai cầm ! Liền tay ngắm nghía biếng nằm,

300. Hãy còn thoang thoảng hương trầm chưa phai.

Tan sương đã thấy bóng người, Quanh tường ra ý tìm tòi ngẩn ngơ. Sinh đà có ý đợi chờ,

Cách tường lên tiếng xa đưa ướm lòng.

305 . Thoa này bắt được hư không, Biết đâu Hợp Phố mà mong châu về?” Tiếng Kiều nghe lọt bên kia, Ơn người quân tử sá gì của rơi. Chiếc thoa nào của mấy mươi,

310. Mà lòng trọng nghĩa khinh tài xiết bao!”

Sinh rằng: “Lân lý ra vào, Gần đây nào phải người nào xa xôi. Được rày như chút thơm rơi, Kể đà thiểu não lòng người bấy nay!

315. Mấy lâu mới được một ngày,

Dừng chân gạn chút niềm tây gọi là” Vội về thêm lấy của nhà, Xuyến vàng đôi chiếc, khăn là một vuông. Bực mây rón bước ngọn tường,

320. Phải người hôm nọ rõ ràng chẳng sai?

Sượng sùng giữ ý rụt rè, Kẻ nhìn rõ mặt, người e cúi đầu. Rằng: “Từ ngẫu nhĩ gặp nhau, Thầm trông trộm nhớ, bấy lâu đã chồn.

325. Xương mai tính đã rũ mòn,

Lần lừa ai biết hãy còn hôm nay! Tháng tròn như gửi cung mây, Trần trần một phận ấp cây đã liều! Tiện đây xin một hai điều,

330. Đài gương soi đến dấu bèo cho chăng?”

Ngần ngừ nàng mới thưa rằng: “Thói nhà băng tuyết, chất hằng phỉ phong. Dù khi lá thắm, chỉ hồng, Nên chăng thì cũng tại lòng mẹ cha.

335. Nặng lòng xót liễu vì hoa,

Trẻ con đã biết đâu mà dám thưa!” Sinh rằng: “Rày gió mai mưa, Ngày xuân đã dễ tình cờ mấy khi! Dù chăng xét tấm tình si,

340. Thiệt ta mà có ích gì đến ai?

Chút chi gắn bó một hai, Cho đành, rồi sẽ liệu bài mối manh. Khuôn thiêng dù phụ tấc thành, Cũng liều bỏ quá xuân xanh một đời.

345. Lượng xuân dù quyết hẹp hòi,

Công đeo đuổi chẳng thiệt thòi lắm ru. Lặng nghe lời nói như ru, Chiều xuân dễ khiến nét thu ngại ngùng.

Rằng: “Trong buổi mới lạ lùng,

350. Nể lòng có lẽ cầm lòng cho đang!

Đã lòng quân tử đa mang, Một lời vâng tạc đá vàng thuỷ chung.” Được lời như cởi tấm lòng, Giở kim châu với khăn hồng trao tay.

355. Rằng: “Trăm năm cũng từ đây,

Của tin, gọi một chút này làm ghi.” Sẵn tay bả quạt hoa quì, Với cành thoa ấy tức thì đổi trao. Một lời gắn bó tất giao,

360. Mái sau dường có xôn xao tiếng người.

Vội vàng lá rụng hoa rơi, Chàng về thư viện, nàng rời lầu trang. Từ phen đá biết tuổi vàng, Tình càng thấm thía, lòng càng ngẩn ngơ.

365.  Sông dương một dải nông sờ,

Bên trông đầu nọ, bên chờ cuối kia. Một tường tuyết điểm sương che. Tin xuân đâu dễ đi về cho năng. Lần lần ngày gió đêm trăng,

370. Tơ hồng rậm lục đã chừng xuân qua.

Ngày vừa sinh nhật ngoại gia, Trên hai đường dưới nữa là hai em. Tưng bừng sắm sửa áo xiêm, Biện dâng một lễ xa đem tấc thành.

375. Nhà hương thanh vắng một mình,

Ngẫm cơ hội ngộ đã dành hôm nay. Thì trân thức thức sẵn bày, Gót sen thoăn thoắt dạo ngay mé tường. Cách hoa sẽ dặng tiếng vàng,

380. Dưới hoa đã thấy có chàng đứng trông.

Trách lòng hờ hững với lòng, Lửa hương chốc để lạnh lùng bấy lâu. Những là đắp nhớ đổi sầu,

Tuyết sương nhuốm nửa mái đầu hoa râm.

385. Nàng rằng: “Gió bắt mưa cầm, Đã cam tệ với tri âm bấy chầy. Vắng nhà được buổi hôm nay, Lấy lòng gọi chút ra đây tạ lòng.” Lần theo núi giả đi vòng,

390. Cuối tường dường có nẻo thông mới rào.

Sấn tay mở khoá động đào, Rẽ mây trông tỏ lối vào Thiên Thai. Mặt nhìn mặt càng thêm tươi,

Bên lời vạn phúc, bên lời hàn huyên.

395. Sánh vai về chốn thư hiên,

Ngâm lời phong nguyệt, nặng nguyền non sông. Trên yên bút giá thư đồng, Đạm tình một bức tranh tùng treo trên.

Phong sương được vẻ thiên nhiên,

Video liên quan

Chủ Đề