Để thay thận cho một bệnh nhân trường hợp nào sau đây cho kết quả tốt nhất
Là một trong ba phương pháp điều trị thay thế cho người bệnh suy thận giai đoạn cuối, ghép thận giờ đây đã không còn là một biện pháp quá xa vời đối với người bệnh tại Việt Nam. So với thận nhân tạo chu kỳ và lọc màng bụng, ghép thận mang lại cuộc sống gần như “người bình thường” hơn cho bệnh nhân, đồng thời cải thiện chất lượng cuộc sống một cách ngoạn mục. Bài viết dưới đây cung cấp những thông tin cơ bản nhất về phương pháp điều trị thay thế thận suy này đến bạn đọc. Show
Ghép thận là phẫu thuật cho – nhận tạng giữa hai người sống được thực hiện đầu tiên trên thế giới, mở ra một kỉ nguyên mới về điều trị thay thế các tạng suy. Năm 1954, Ronald Lee Herrick đã hiến một quả thận cho người anh em sinh đôi của mình; đồng thời, vị bác sĩ thực hiện ca ghép này (Joseph Murray) cũng đã giành được giải thưởng Nobel về y học năm 1990 cho những đóng góp của mình trong lĩnh vực cấy ghép nội tạng. Kể từ đó đến nay, dưới ánh sáng của khoa học, hàng trăm triệu ca ghép thận đã được thực hiện, mang lại hy vọng và cơ hội sống mới dành cho các bệnh nhân suy thận giai đoạn cuối. Tại Việt Nam, ca phẫu thuật ghép thận (và cũng là ghép tạng đầu tiên) được thực hiện tại bệnh viện Quân Y 103 vào năm 1992. Tính đến thời điểm này, hơn 1500 ca ghép thận đã được thực hiện tại nhiều trung tâm phẫu thuật khác nhau của cả nước như bệnh viện Việt Đức, bệnh viện Bạch Mai, bệnh viện 103, bệnh viện Trung ương Huế, bệnh viện Chợ Rẫy… Kỹ thuật ghép thận liên tục được cập nhật và chuyển giao để ngày càng nhiều bệnh nhân được tiếp cận với phương pháp điều trị tiên tiến này. 2. Những lợi ích của phương pháp ghép thậnHiểu một cách đơn giản, ghép thận là phẫu thuật chuyển 1 quả thận từ người khỏe mạnh sang cơ thể của một bệnh nhân có bệnh thận mạn tính giai đoạn cuối. Việc này được thực hiện sau một quá trình sàng lọc kỹ lưỡng để đảm bảo thận của người cho “phù hợp nhất” và tồn tại được trên cơ thể người nhận. Phẫu thuật có thể được thực hiện từ người cho có cùng huyết thống với bệnh nhân hoặc không cùng huyết thống; đôi khi, phẫu thuật cấy ghép cũng được tiến hành với người hiến tặng đã rơi vào tình trạng “chết não”. Sau khi tiến hành ghép thận, người bệnh suy thận giai đoạn cuối sẽ có một cuộc sống gần như bình thường, không phải đến viện để lọc máu hằng tuần, chỉ cần duy trì đều đặn thuốc chống thải ghép theo phác đồ. Ghép thận mang lại sự tự do hơn cho người bệnh, cho phép họ tham gia vào các hoạt động xã hội và công việc hằng ngày một cách thoải mái nhất. Phụ nữ sau khi ghép thận trong độ tuổi sinh đẻ vẫn có thể có con tự nhiên dưới sự theo dõi và quản lý chặt chẽ, phối hợp đa chuyên khoa giữa các bác sĩ Thận và Sản khoa. Bệnh nhân sau ghép thận cũng không cần phải tuân thủ chế độ ăn giảm đạm ngặt nghèo như thời kì mắc bệnh trước đây, thoát khỏi cảm giác mệt mỏi kéo dài cũng như gánh nặng mang trong mình căn bệnh vô phương cứu chữa. Những giải phóng về căng thẳng trong tâm lý giúp họ tự tin hơn để hòa nhập với cộng đồng, lao động và cống hiến tài năng, sức lực cho xã hội. 3. Cần chuẩn bị gì khi có ý định ghép thận?Mặc dù có những ưu điểm vượt trội hơn so với lọc máu chu kỳ và lọc màng bụng, tuy nhiên, trước khi tiến hành ghép thận, người bệnh và người hiến thận cần phải trải qua một quá trình sàng lọc chuyên sâu và tỉ mỉ để chuẩn bị một cách tốt nhất cho ca ghép. Các xét nghiệm và thăm khám đa chuyên khoa sẽ được thực hiện một cách bài bản và hệ thống, đảm bảo thận của người hiến là phù hợp với người nhận. Nếu quá trình này không được thực hiện đúng cách, hiện tượng thải ghép có thể xảy ra ngay sau khi phẫu thuật hoàn thành và gây nên những biến chứng nguy hiểm (thậm chí có thể tử vong) cho người bệnh. Đôi khi, người bệnh vẫn được yêu cầu lọc máu trước khi cấy ghép để giảm thiểu nồng độ chất độc trong cơ thể, đảm bảo thể trạng tốt nhất trước khi ghép. Cũng như các phương pháp phẫu thuật khác, ghép thận cũng có những chống chỉ định, việc có thể tiến hành cấy ghép được hay không cần phải do một hội đồng các nhà lâm sàng đến từ nhiều chuyên khoa khác nhau cùng hội chẩn và quyết định. 4. Những lưu ý cơ bản đối với bệnh nhân sau khi ghép thậnNhiều người lầm tưởng rằng sau khi ghép thận sẽ không phải điều trị gì, tuy nhiên đây là một quan niệm sai lầm. Người ghép thận sau khi tiến hành phẫu thuật vẫn phải duy trì một số loại thuốc để đảm bảo cơ thể không thải trừ qua thận mới. Những thuốc này cần phải uống hằng ngày và điều chỉnh liều hằng tháng phù hợp với từng trường hợp cụ thể. Ngoài ra, vì bản chất các thuốc chống thải ghép đều gây ức chế hệ miễn dịch của cơ thể, nên người ghép thận có nguy cơ nhiễm trùng cao hơn người bình thường, cần hết sức cẩn thận và giữ gìn vệ sinh, đặc biệt ở nơi đông người và trong thời kỳ dịch bệnh đang hoành hành như hiện nay. Đời sống trung bình của thận ghép trên cơ thể bệnh nhân theo thống kê trung bình khoảng 10 năm, sau thời gian này, hiện tượng thải ghép có thể diễn ra từ từ và người bệnh cần thực hiện ca cấy ghép tiếp theo hoặc quay trở lại lọc máu chu kỳ. Tóm lại, ghép thận là một phương pháp điều trị tiên tiến và đầy hứa hẹn cho bệnh nhân suy thận giai đoạn cuối. Phương pháp này mang lại nhiều ưu điểm vượt trội xong cũng có nhiều điểm cần lưu ý để người bệnh có thể sống chung hòa bình với thận ghép của người hiến tặng. Các vấn đề khác liên quan đến ghép thận sẽ được trình bày trong các bài viết tiếp theo.
Tham vấn y khoa: Ths.BSNT.Đường Mạnh Long Chuyên khoa Nội tổng hợp,Chuyên Khoa Thận tiết niệu,Chuyên khoa TT Nam học Sau khi ghép tạng nói chung và ghép thận nói riêng, cơ thể sẽ có phản ứng thải bỏ mô ghép. Do đó, người bệnh sau khi được ghép tạng thường phải dùng thuốc chống thải ghép. Ngoài ra, chế độ kiểm tra sức khỏe định kỳ cũng như chế độ dinh dưỡng và sinh hoạt là những biện pháp cực kỳ quan trọng đối với bệnh nhân sau ghép tạng. Các bước chuẩn bị tiến hành cho ghép thận Ghép thận cũng như ghép tạng đòi hỏi phải phối hợp nhiều chuyên ngành: thận học, miễn dịch học, mô phôi học, thận nhân tạo, phẫu thuật thực nghiệm, ngoại khoa (ngoại chung, ngoại mạch máu, tiết niệu) gây mê, hồi sức, sinh hoá, hoá nghiệm, huyết học – truyền máu – chẩn đoán hình ảnh, chẩn đoán chức năng; tâm lý y học, dược học… Chính vì vậy việc chuẩn bị bệnh nhân trước ghép nhất là với người cho thận là người sống rất quan trọng. Người cho phải có nhóm máu phù hợp, không có bệnh lây truyền, bệnh hệ thống, bệnh ung thư… hai thận phải có chức năng tốt và giải phẫu bình thường. Về miễn dịch học và các xét nghiệm cho phép ghép về tương hợp mô (tương hợp về hệ thống DLA, thử chéo, tiền mẫn cảm). Với người cho sống phải làm test tâm lý để họ tự nguyện dù là có quan hệ huyết thống. Với người cho là chết thì cũng phải được tự nguyện hoặc gia đình họ chấp nhận. Ở nhiều nước trên thế giới đã làm thẻ cho phủ tạng tự nguyện để khi chết não có thể xin phủ tạng mà không phải xin ý kiến người thân nữa. Về phía người nhận, được chỉ định cho tất cả các bệnh nhân suy thận mạn giai đoạn cuối hoặc mất thận phải chạy thận nhân tạo hoặc lọc màng bụng chu kỳ. Tuổi từ 6 tháng đến 64 tuổi – cá biệt có thể cao hơn 70 tuổi. Chống chỉ định ghép thận cho người có bệnh sau: bệnh lý ác tính, suy tim không hồi phục, suy hô hấp mạn tính, bệnh gan đang phát triển, bệnh mạch máu (mạch vành, mạch não hoặc ngoại biên), dị dạng đường tiết niệu bẩm sinh nặng, nhiễm khuẩn mạn tính không đáp ứng với điều trị, người nhiễm HIV/AIDS, rối loạn đông máu nặng, bệnh tâm thần, nghiện rượu nặng… Việc tuyển chọn người cho và người nhận phải rất chặt chẽ. Hiện nay có khoảng 50 chỉ tiêu để chọn cặp ghép.Ghép thận cần rất nhiều yếu tố và phải theo dõi bệnh nhân sau ghép thận rất kỹ. Điều trị sau ghép thận Mục đích lớn nhất của việc điều trị là làm giảm cường độ tấn công của các cơ chế miễn dịch vào các cơ quan hoặc mô ghép. Các steroid có hiệu quả nhanh chóng và rõ rệt trong việc làm giảm phản ứng thải bỏ (tới 60 – 70% các trường hợp ở giai đoạn thải bỏ cấp). Thường thì sau tiêm bệnh nhân hết các triệu chứng thải bỏ, đặc biệt là hết sốt và dễ chịu ngay. Có thể phối hợp các steroid với globulin kháng lympho bào. Sự phối hợp này có hiệu quả cao nhất với các trường hợp phản ứng thải bỏ có sự tham gia của đáp ứng miễn dịch qua trung gian tế bào. Việc điều trị các cơn thải bỏ cấp thường có kết quả. Nhưng ngược lại chưa có phương pháp điều trị đặc hiệu đối với các trường hợp ghép thận khác gen cùng loại mà có phản ứng thải bỏ tối cấp hoặc mạn tính. Việc ngăn ngừa thải ghép mạn ở tất cả bệnh nhân được ghép khác gen cùng loại bằng duy trì các thuốc ức chế miễn dịch trong suốt thời gian sống sau ghép. Có thể dùng phác đồ 2 thuốc: cyclosporin A phối hợp với prednisolon hoặc imuran phối hợp với prednisolon. Hoặc phác đồ 3 thuốc: cyclosporin A phối hợp với prednisolon và imuran hoặc cellcept. Dùng imuran hoặc cellcept trong phác đồ điều trị phải theo dõi bạch cầu trong máu. Nếu bạch cầu hạ dưới 4,0 x 103 phải ngừng thuốc, sau 1 – 2 tuần bạch cầu sẽ trở về bình thường và có thể dùng tiếp thuốc nhưng phải giảm liều. Khi dùng thuốc cần phải định lượng nồng độ cyclosporin trong huyết thanh để tăng hay giảm liều sao cho đạt nồng độ tối thiểu.
|