Con nhà xích đế cô bần nghĩa là gì

Chu kỳ 60 năm 

Muốn
tìm "năm sanh" chẳng hạn, bấm một lượt Ctrl và F

Ngũ đế: Hoàng đế [Huỳnh đế],
Bạch đế, Hắc đế, Thanh đế, Xích đế, năm vị thần trấn năm hướng vào đây xem
thêm!
 Ý nghĩa cũa Phú Quí,
Cô Bần, Tân Khổ, v.v. xem bên dưới!
*Chú ý trong bài này
tôi đề cập đến 2 loại Mệnh
:
Sinh mệnh và Cung mệnh. Sinh mệnh gắn liền với con giáp của một người và thường
dùng trong tướng số, cân xương đoán số, là mạng "thiên định". Ngoài
ra còn có Cung mệnh, trừ một số ít người, cung mệnh nam và nữ thường khác nhau
[trai 7 vía, gái 9 vía] và cũng trừ một số ít người Cung mệnh thông thường khác
với Sinh mệnh của một người.
Khác với Sinh mệnh, tất cả các câu hỏi trong đó thắc mắc của người xem là
"có hợp hay là không?" thì phải xem
 Cung mệnh
theo "Cung phi" [theo bảng này]
. Thí dụ một vài câu hỏi:
vợ chồng có hợp hay không? chọn người làm ăn hùn hạp có hợp hay không? đeo đá
phong thủy, mặc trang phục màu ngũ hành theo phong thủy như vậy có hợp hay
không? xây nhà theo hướng [đông/tây/nam/bắc] như vậy có hợp hay không? tức là
tất cả những gì "nhân định" chính mình có thể thay đổi vận số cho
mình.

Sinh
Mệnh = Cung Ký = Cung Sanh : hễ cùng tuổi với nhau thì đàn ông cung gì thì đàn
bà cũng cung đó

Cung Mệnh
= Cung Phi Mệnh = Cung Phi [gồm Cung Phi Bát Trạch và Cung Phi Bát Tự]

Có đứa quen than với
tôi rằng: "theo bảng này, em là con nhà Xích đế, cô bần! vậy là em thua
chắc…", rồi mặt mày và thân người nó xìu và thểu nảo như cọng bún riêu.
Tôi không thể nhịn cười, nói với nó: "hôm bửa nghe khoe xương 5 lượng 4
chỉ mà! Sao hôm nay mặt giống như mới bị ai giựt đồ vậy?".
Như đã có nói trong "Cân xương đoán số",
số mạng con người không chỉ dựa vào có mấy chử trong Lục Thập Hoa Giáp này mà
quyết định được trọn một đời người.
Tại sao biết bao nhiêu người sanh cùng ngày, cùng tháng, cùng năm, cùng giờ,
nhưng số mạng lại không giống nhau? Kẻ đang trên lưng voi bổng xuống cởi chó,
người đang cực kỳ quang vinh lại phải vô ngồi tù? Ở xã hội nào cũng đều đọc
được những tin tức đó!

Đời người từ khi mới sanh đã chịu ảnh hưởng môi trường bên ngoài, xã hội xung
quanh cũng như tiềm năng, tánh nết ở bên trong, mầm mống, gien, phước đức hoặc
gian ác, tham lam của cha mẹ ông bà tích lũy. Một số người tự mình lại nẩy sinh
lòng tham, tham ô, tham nhũng, tham lời nhiều nên cuối cùng mất hết bởi vì y
như người mê cờ bạc, càng thắng họ càng tham mà có ai nghe nói chủ casino nghèo
bao giờ đâu? Tiền chưa chắc đem lại hạnh phúc và may mắn mà đôi khi nó mang lại
họa diệt thân, trong một tíc tắc Họa Phúc, Thời Cơ có thể chuyển biến.
Ai nói số mạng không thể thay đổi? theo tôi thì "số mạng có thể đổi"
không đổi được hoàn toàn, cũng có thể tạm thời thay đổi. Bởi vì giữa trời đất
không có gì là tuyệt đối. Nếu đã tới số, đoán biết trước được thì mình tìm cách
tránh, không được thì cũng không ân hận vì trước đó mình đã có thử né roài
hihihi. Người nghiên cứu phong thủy cũng giống như người nhìn thiên nhiên mà
đoán biết được hôm nay có mưa hay không? hôm đó họ muốn xuất hành và đã mang
theo dù. Họ đã đoán đúng, trời trở mưa, nhờ có dù che mà họ có thể tránh được
cảm lạnh, bịnh hoạn. Thiên thời trong thiên nhiên luôn luôn là như vậy, điều gì
đến nó sẽ đến [trời mưa], may mắn cho những ai đoán biết được để có chút xíu
lợi thế hơn những kẻ khác.
Vì Thiên cơ không nên nói ra, nên mình coi cho mình là tốt nhứt, vận số tự
chính mình nắm trong tay. Quyết định đúng hay sai là do ở mình coi và hiểu được
đến đâu về luật phong thủy, là những điều luật gom góp từ kinh nghiệm lâu đời
truyền lại chứ không phải ai đó tùy tiện nói đại.

Có câu: "Đức năng thắng số" Đức ở đây không phải đem hết tiền cho ăn
mày hay cúng nhà thờ hay "thầy" chùa để trông mong thần phật giúp, mà
Đức chính là giúp người từ tâm của mình, giúp không kể công, cũng không cầu
mong sự đền đáp và kỵ nhứt là lường công người khác.
Trong mọi việc làm, ăn uống, không nên làm ác hay giảm bớt cái ác. Bởi vì tích
đức không những cho con cháu mà là cho chính mình trong kiếp này đó vậy.

1974,2034 GiápDần – cung Cấn – Dương Thủy –
Đại Khê Thủy
: Nước dưới khe lớn – Lập định chi hổ: cọp ngồi yên – xương con cọp, tướng tinh
con trâu – khắc Sơn Hạ Hỏa – con nhà Hắc đế, phú quí.


Nam mạng có ông Quan Đế độ mạng.


Đoán xem số mạng Giáp Dần,


Đại Khê mạng Thủy nước sông chảy hoài.


Số tuổi lúc nhỏ gian nan,


Có lúc bịnh tật khóc hoài khó nuôi.


Lớn lên làm có của kho,


Có rồi lại hết sớm đầy tối vơi.


Số này phải chọn phương xa,


Lập nên cơ nghiệp vậy mà mới yên.


Nhân duyên trắc trở buổi đầu,


Về sau mới được an hòa gia môn.


Trung vận phát đạt giàu sang,


Cũng nhờ hồng phước của Trời ban cho.


Nhưng nhà chẳng đặng yên vui,


Trở về vận cuối gia môn đắc thành.


Nữ mạng Giáp Dần có bà Cửu Thiên Huyền Nữ độ mạng.


Giáp Dần số gái khôn ngoan,


Đại Khê mạng Thủy nước khe chảy dài.


Đàn bà sanh thuận Thu Đông,


Thanh nhàn sung sướng có chồng giàu sang.


Xuân Hạ sanh ra lỗi mùa,


Đêm ngày lo lắng muôn phần chẳng an.


Nhưng số vận mạng gian nan,


Tưởng đâu âm phủ đòi sanh đã rồi.


Số gái lập nghiệp phương xa,


Duyên tình trắc trở nhiều lần mới nên.


Anh em cha mẹ chẳng gần,


Ở gần sung khắc đi xa nhớ buồn.


Tiền vận có của như không,


Hậu vận tụ của gia đình ấm no.
 


1975,2035 Ất Mẹo – cung Ly – Âm Thủy – Đại Khê Thủy – xương con mèo, tướng tinh
con dơi – khắc Sơn Hạ Hỏa – con nhà Hắc đế, phú quí.


Nam mạng có ông Quan Đế độ mạng.


Số tuổi Ất Mão như vầy,


Đại Khê nước lớn chảy về thiên nhiên.


Thu Đông sanh thuận mới yên,


Thanh nhàn sung sướng sáng kiến nhiều nghề.


Xuân Hạ lỗi số bị chê,


Giàu có làm đặng công thần cũng lo.


Xét qua trong đạo vợ chồng,


Hoa thơm hương nhụy trăng vòng tròn gương.
 
 Chẳng qua gãy gánh giữa đường,
Duyên sau chắp nối mới yên gia đàng.
Tiền bạc làm có trong tay,
Ba chìm bảy nổi đổi thay gia đình.
Số phải xa mẹ khắc cha,
Tha phương lập nghiệp tiền tài thạnh hưng.
Nữ mạng Ất Mão có bà Cửu Thiên Huyền Nữ độ mạng.
Ất Mão mạng Thủy cung Ly,
Nước trong khe lớn tự nhiên chảy hoài.
Thu Đông sanh đặng hạp thời,
Có phần sung sướng hưởng đời giàu sang.
Xuân Hạ lỗi số gian nan,
Phần đông vất vả tấm thân lạc loài.
Con người lòng dạ thông minh,
Bụng nghi thì có thật tình chẳng sai.
Làm ăn tiền bạc có hoài,
Ba chìm bảy nổi đổi thay gia đình.
Nhưng mà trong đạo vợ chồng,
Hoa thơm hương nhụy trăng vòng sáng gương.
Chẳng qua gãy gánh giữa đường,
Duyên sau chắp nối mới yên gia đàng.
 


1976,2036 Bính Thìn – cung Khảm – Dương Thổ – Sa Trung Thổ
: Đất lẫn trong cát, Đất ở sa mạc – xương con rồng, tướng tinh con chuột – khắc
Dương Liễu Mộc – con nhà Huỳnh đế, phú quí.


Nam mạng có bà Chúa Ngọc độ mạng.


Bính Thìn số mạng tuổi này,


Tuổi cùng với mạng ấy là tương sanh.


Số người tánh nết hiền lành,


Tánh thì đằm thắm thuận hòa tương lân.


Mạng này có phước lộc trời,


Phong sương cũng lắm gian nan cũng nhiều.


Số phải lập nghiệp phương xa,


Cửa nhà yên ổn gia môn hiệp hòa.


Trung vận làm có của kho,


Nhưng mà hậu vận mới là hiển vinh.


Số này phước lớm mới an,


Không thời chết hụt chết oan đã rồi.


Giận ai nói dữ nói nhiều,


Lòng không độc ác nói rồi bỏ qua.


Nữ mạng Bính Thìn có bà Chúa Ngọc độ mạng.


Bính Thìn cung Khảm sanh ra,


Mạng Thổ cát trắng thật là chẳng sai.


Mùa Hạ sanh đặng thời may,


Giàu nghèo cũng sướng guốc giày nhởn nhan.


Mùa Xuân sanh cái khổ nàng,


Rất là cực nhọc chẳng màng tấm thân.


Anh em cũng chẳng được gần,


Tình đầu trắc trở bởi sầu lương duyên.


Về sau nhờ phước lộc trời,


Cửa nhà yên ổn gia môn phát tài.


Trung vận còn phải bôn ba,


Trở về cuối vận mới là hiển vinh.


Nếu nàng tích đức tu thân,


Về sau con cháu muôn phần nhẹ lo.
 


1977,2037 Đinh Tị – cung Khôn – Âm Thổ – Sa Trung Thổ : Đất pha cát – xương con
rắn, tướng tinh con cú – khắc Dương Liễu Mộc – con nhà Huỳnh đế, phú quí.


Nam mạng có bà Chúa Ngọc độ mạng.


Đoán xem số mạng tuổi này,


Trong tâm thường có tánh linh thường thường.


Số người khôn khéo mọi đường,


Nếu mà lỗi số thiên đình sầu vương.


Có khi mắc phải tai ương,


Phu thê cắn đắng đôi phen mới bền.


Thấy ai thất thế lỡ đường,


Ai mà than thở thì thương giúp liền.


Nhiều lúc làm có của tiền,


Cũng bị tan rã phá tan rã rời.


Bà con thân thích chẳng trông,


Một tay lập nghiệp gia môn an hòa.


Số này Trời đã ban cho,


Trở về hậu vận mới là thảnh thơi.


Nữ mạng Đinh Tỵ có bà Chúa Ngọc độ mạng.


Đinh Tỵ mạng Thổ cung Khôn,


Đất mà pha cát số này như sau.


Nếu sanh mùa Hạ thời sang,


Như cá gặp nước như rồng lên mây.


Thu Đông cũng chẳng đặng an,


Mùa Xuân khắc Mộc nên nàng cực thân.


Lỗi sanh cha mẹ chẳng gần,


Ly hương tổ quán tại phần số ta.


Vợ chồng phải gặp xứ xa,


Tánh tình ăn nói ai mà chẳng thương.


Nhiều khi lắm phải tai ương,


Cũng nhờ Phật độ qua tuông khỏi nàn.


Tiền vận số phải lao đao,


Hậu vận toại hưởng giàu sang mấy hồi.


1918,1978,2038 Mậu Ngọ – cung Chấn – Dương Hỏa – Thiên Thượng Hỏa
: Lửa trên trời; nắng – xương con ngựa, tướng tinh con heo – khắc Sa Trung Kim
– con nhà Xích đế, cô bần.


Nam mạng có Phật Bà Quan Âm độ mạng.


Đoán xem số mạng tuổi này,


Mậu Ngọ mạng Hỏa lửa trời sáng soi.


Xuân Hạ sanh đặng gặp thời,


Thong thả sung sướng an nơi thanh nhàn.


Tiền vận vất vả bôn ba,


Kể từ trung vận mới mong thanh nhàn.


Anh em xa cách chẳng gần,


Vắng mặt thương nhớ lại gần chẳng yên.


Bởi vì số nghịch đắng cay,


Gia đình lập trễ mới là bền lâu.


Nếu người tích đức thiện tâm,


Tu hành giải bớt oan gia nghiệp đời.


Trung vận chẳng đặng thảnh thơi,


Số người vận cuối giàu sang thanh nhàn.


Nữ mạng Mậu Ngọ có Phật Bà Quan Âm độ mạng.


Mậu Ngọ mạng Hỏa số này,


Lửa trời soi sáng chiếu cùng khắp nơi.


Xuân Hạ sanh gái là nàng,


Thanh nhàn sung sướng có chồng giàu sang.


Thu Đông lỗi số cực thân,


Cuộc đời chẳng đặng thong dong an nhàn.


Số này khắc mẹ khắc cha,


Anh em chẳng thuận phải xa chớ gần.


Mậu Ngọ quý tướng gái này,


Ban ngày mà hạp ấy là số ta.


Lỗi sanh duyên số lỡ làng,


Không thì chồng vợ lòng dòng đôi ba.


Thấy ai nghèo khổ xót xa,


Tiền bạc giúp đỡ vậy mà phản ngay.


Số này tiền vận lao đao,


Hậu vận có của có nhà mới yên.


1919,1979,2039 Kỷ Mùi – cung Tốn – Âm Hỏa – Thiên Thượng Hỏa : Lửa trên trời –
xương con dê, tướng tinh con rùa – khắc Sa Trung Kim – con nhà Xích đế, cô bần.


Nam mạng có Phật Bà Quan Âm độ mạng.


Đoán xem số mạng tuổi Mùi,


Mạng Hỏa là lửa chơi vơi trên trời.


Thuận sanh sung sướng biết bao,


Xuân Hạ sanh đặng như cua gãy càng.


Thu Đông cực khổ lỗi thay,


Dù giàu cũng khổ tảo tần lo âu.


Tình duyên lỡ dỡ buổi đầu,


Phải duyên chắp nối mới mong sắt cầm.


Vợ chồng gặp gỡ xứ xa,


Khác làng khác xã mới là an thân.


Số người thân cận người sang,


Trên thì yêu mến dưới hay thương tình.


Tuổi trẻ khó đặng yên thân,


Trở vể hậu vận phước lai thanh nhàn.


Nữ mạng Kỷ Mùi có Phật Bà Quan Âm độ mạng.


Đoán xem số mạng Kỷ Mùi,


Cung Tốn mạng Hỏa ấy là số ta.


Xuân Hạ sanh đặng thuận mùa,


Thu Đông lỗi số cực thân lắm lần.


Số gái hiếu thảo mẹ cha,


Khổ vì duyên nợ lao đao lắm bề.


Một đời chẳng đặng buồn lâu,


Phải duyên chắp nối mới mong sắt cầm.


Số gái nếu thuận giàu sang,


Chồng thì thương mến họ hàng tương lân.


Tuổi già mới được an thân,


Trung niên lo tảo chạy tần chưa nên.


Số này thân kẻ bề trên,


Chơi cùng bạn hữu chẳng bền phản ta.


Làm ăn tiền bạc có hoài,


Nhiều nghề biết đặng đàn bà ít ai.


1920,1980,2040 Canh Thân – cung Khôn – Dương Mộc – Thạch Lựu Mộc
: Gỗ cây Thạch Lựu – xương con khỉ, tướng tinh con chó sói – khắc Bích Thượng
Thổ – con nhà Thanh đế, cô bần.


Nam mạng có ông Quan Đế độ mạng.


Đoán xem số mạng tuổi này,


Bởi vì lỗi số sanh rày ban đêm.


Nếu mà sanh đặng Đông Xuân,


Hai mùa vượng tướng ung dung thanh nhàn.


Tánh người nhờ ở hiền lương,


Gia đạo dời đổi lương duyên không bền.


Số người duyên nợ đa đoan,


Đời sau mới đặng phỉ quyền yến anh.


Tuổi nhỏ chẳng đặng yên thân,


Trở về lớn tuổi mới yên thanh nhàn.


Nếu mà niệm Phật tụng kinh,


Ngày sau con cháu phước lành hưởng lâu.


Tiền vận nhà cửa đổi thay,


Nhiều lúc giàu có khiến rồi phải tan.


Nữ mạng Canh Thân có bà Cửu Thiên Huyền Nữ độ mạng.


Canh Thân số mạng như vầy,


Cung Khôn mạng Mộc rõ ràng đá xanh.


Hạ Thu lỗi số bất thành,


Thuận Thu sanh đặng Đông Xuân mới nhàn.


Số cô có bị hàm oan,


Nhưng mà nhờ phước trời ban yên lành.


Khuyên cô tích đức tu thân,


Về sau mới được an nhàn tấm thân.


Chỉ buồn duyên nợ đa đoan,


Người sau mới đặng thỏa nguyền ước mơ.


Tuổi nhỏ chẳng đặng yên thân,


Trở về lớn tuổi mới hòng làm nên.


Nếu mà niệm Phật ăn chay,


Ngày sau được hưởng của Trời ban cho.


1921,1981,2041 Tân Dậu – cung Càn – Âm Mộc – Thạch Lựu Mộc – xương con gà,
tướng tinh con chó – khắc Bích Thượng Thổ – con nhà Thanh đế, cô bần.


Nam mạng có ông Quan Đế độ mạng.


Tân Dậu số mạng như vầy,


Là cây lựu đá cung Đoài chẳng sai.


Đông Xuân sanh đặng thời này,


Suốt đời thong thả gặp may tới hoài.


Hạ Thu lỗi số chơi vơi,


Dù cho giàu có cũng lo cũng buồn.


Tánh người vui vẻ dễ thương,


Hai bàn tay trắng tạo nên cơ đồ.


Tân Dậu tâm tánh thật thà,


Gặp người hung dữ thì ra tay liền.


Nhiều lúc làm có của tiền,


Cũng đều tan rã chẳng yên khó cầm.


Tiền vận nhà cửa chẳng yên,


Hậu vận gia đạo mới yên an hòa.


Nữ mạng Tân Dậu có Phật Bà Quan Âm độ mạng.


Đoán xem số mạng tuổi này,


Tân Dậu mạng Mộc cung Càn tốt thay.


Cây lựu kề đá mọc tàng,


Đông Xuân sanh đặng thuận mùa số cô.


Hạ Thu sanh gái lỗi thời,


Dù giàu có của số nàng phải lo.


Đàn bà ít có lắm thay,


Ra vai gánh vác đảm đang cho chồng.


Nhưng mà có ở được đâu,


Duyên đầu chẳng thuận duyên sau mới hòa.


Tân Dậu vô số đàn bà,


Tánh tình cứng cỏi chẳng chìu lụy ai.


Lỗi sanh lao khổ tứ bề,


Nhà cửa dời đổi xa quê họ hàng.


Tuổi già số thọ trời ban,


Vinh hoa phú quý một đời ấm no.


1922,1982,2042 Nhâm Tuất – cung Đoài – Dương Thủy – Đại Hải Thủy
: Nước đại dương, Nước biển lớn – xương con chó, tướng tinh con chim trĩ – khắc
Thiên Thượng Hỏa – con nhà Hắc đế, Quan lộc, tân khổ.


Nam mạng có Phật độ mạng.


Nhâm Tuất số mạng như vầy,


Nước ở biển lớn chảy vào tràn sông.


Thuận sanh gặp đặng Thu Đông.


Mạng đặng sung sướng ở không ăn hoài.


Sanh nhằm tháng khác chẳng may,


Thìn Tuất Sửu Mùi Dần Mão chẳng hay.


Tưởng đâu chết hụt đã rồi,


Nhờ Trời Phật độ thuở hồi ấu niên.


Số này phải giữ phải kiên,


Có khi té nặng tật nguyền chẳng sai.


Không phần chơi với bạn bè,


Bạc tiền giúp đỡ sau là phản ngay.


Tiền vận phải chịu gian truân,


Nhà cửa nhiều lớp kinh dinh đổi dời.


Hậu vận mới được yên thân,


Lập nên cơ nghiệp ở thời bền lâu.


Nữ mạng Nhâm Tuất có bà Cửu Thiên Huyền Nữ độ mạng.


Nhâm Tuất mạng Thủy số này,


Nước ở biển lớn chảy hoài chẳng thôi.


Tuổi nàng hạp số Thu Đông,


Ấy mùa vượng phát ở không ăn hoài.


Lỗi sanh Tuất Sửu Thìn Mùi,


Dần Mão sáu tháng đắng cay vô ngần.


Số này bị nạn nhiều lần,


Cũng may nhờ có Phật Trời độ qua.


Số nàng phải giữ phải kiên,


Sợ e nạn có tật nguyền chẳng sai.


Vô phần chơi với bạn bè,


Thương người giúp đỡ vậy mà phản ta.


Tiền vận phải chịu linh đinh,


Nhà cửa tay có vậy mà cũng tiêu.


Hậu vận mới được tụ tài,


Lập nên cơ nghiệp ở thời bền lâu.


1923,1983,2043 Quý Hợi – cung Cấn – Âm Thủy – Đại Hải Thủy – xương con heo,
tướng tinh con gà – khắc Thiên Thượng Hỏa – con nhà Hắc đế, Quan lộc, tân khổ.


Nam mạng có ông Tử Vi độ mạng.


Quý Hợi số mạng như là,


Mạng Thủy nước biển chảy tràn vào sông.


Số này thuận hạp Thu Đông,


Cuộc đời sung sướng ít ai sánh bằng.


Nhưng sanh Xuân Hạ lỗ thay,


Nghèo giàu cũng cực tay chân không ngừng.


Vợ chồng có khắc chẳng an,


Con thì nhiều đứa làm phiền cho ta.


Anh em xung khắc chẳng gần,


Người dưng giúp đỡ lập nên nghiệp nhà.


Số này tài lộc có nhiều,


Tuổi nhỏ chưa đậu tuổi già hiển vinh.


Lắm lúc buôn tảo bán tần,


Nhà cửa dời đổi nhiều lần chẳng an.


Nữ mạng Quý Hợi có bà Cửu Thiên Huyền Nữ độ mạng.


Quý Hợi cung Cấn số này,


Mạng Thủy nước biển chảy tràn vào sông.


Số gái sanh thuận Thu Đông,


Thanh nhàn sung sướng ít ai sánh bằng.


Xuân Hạ thì lỗi số nàng,


Giàu nghèo cũng cực thân nàng thảm thương.


Tưởng đâu chết hụt chết oan,


Cũng nhờ mạng lớn khỏi mang tật nguyền.


Có chồng cũng kể như không,


Vì đâu nên nỗi duyên thừa đắng cay.


Anh em xung khắc chẳng hòa,


Ở gần gây gỗ đi xa thì buồn.


Miệng thì nói dữ lòng hiền,


Biết người phản phúc có tiền cũng đưa.


Trung niên tài lộc có thừa,


Vậy mà hậu vận hưởng phần giàu sang.


1924,1984,2044 Giáp Tý – cung Chấn – Dương Kim – Hải Trung Kim
: Vàng dưới biển – xương con chuột, tướng tinh con chó sói – khắc Bình Địa Mộc
– con nhà Bạch đế, phú quí.


Nam mạng có ông Quan Đế độ mạng.


Luận xem số mạng tuổi này,


Giáp Tý số cực chịu nhiều nổi trôi.


Ly hương tổ quán xứ xa,


Anh em cô bác ai giàu nấy ai.


Lỗi sanh phải chịu bơ vơ,


Cực nhọc lo lắng tại giờ sinh ra.


Số người chết hụt nhiều lần,


Người nào thất đức phải sa ngục hình.


Tu nhân tích đức hiển vinh,


Rủi bị tai nạn thánh thần độ cho.


Số này hậu vận mới no,


Tiền vận làm có của kho chẳng còn.


Nữ mạng có bà Cửu Thiên Huyền Nữ độ mạng.


Giáp Tý số mạng như vầy,


Dời đổi nhà cửa sau này mới yên.


Anh em giàu có chẳng mong


Tự tay lập nghiệp chẳng trông cậy nhờ.


Lương duyên trắc trở buổi đầu,


Phải quen nhau trước mới hầu lập gia.
 


1925,1985,2045 Ất Sửu – cung Tốn – Âm Kim – Hải Trung Kim : Vàng trong biển –
xương con trâu, tướng tinh con chó – khắc Bình Địa Mộc – con nhà Bạch đế, phú
quí.


Nam mạng có ông Quan Đế độ mạng.


Ất Sửu số mạng cuộc đời,


Bà con dòng họ chẳng nhờ chẳng trông.


Anh em sung khắc chẳng gần,


Người dưng giúp đỡ thân nhân chẳng nhờ.


Phụng thờ của quý có duyên,


Lợi danh được chút hảo huyền mà thôi.


Tánh người chơn chánh thật thà,


Làm ơn cho bạn sau là phản ngay.


Bạc tiền trợ giúp hỏi vay,


Ăn rồi đá bát trở tay đâm mình.


Bụng người cũng có tánh linh,


Nghi ai thì có thiệt tình chẳng sai.


Số phải tu niệm ăn chay,


Không thì khổ nảo bị mang giam cầm.


Nữ mạng Ất Sửu có bà Cửu Thiên Huyền Nữ độ mạng.


Ất Sửu cũng là số tuổi cao,


Đời cô lắm nổi sóng ba đào.


Phong trần mưa nắng đầy gian khổ,


Duyên nợ chua cay lắm dạt dào.


Thân thế từng phen sầu lận đận,


Hồng nhan nhiều lúc bận lao đao.


Bốn mươi mới được hưởng huy hoàng.


Vườn hồng có lúc nhạt tình Xuân,


Phong sương nào quãn đời gian khó,


Mưa nắng trải bao chuyện nợ nần.


Tài sắc đa mang sầu khổ lụy,


Huy hoàng trung vận bỏ phong trần.


1926,1986,2046 Bính Dần – cung Khảm – Dương Hỏa – Lư Trung Hỏa
: Lửa trong lư hương, Lửa trong lò [Lộ Trung Hỏa] – Sơn lâm chi hổ: cọp trong
rừng, trên núi – xương con cọp, tướng tinh con chim trĩ – khắc Kiếm Phong Kim –
con nhà Xích đế, cô bần.


Nam mạng có Cậu Tài, Cậu Quý độ mạng.


Bính Dần cung Khảm lửa lư,


Nếu sanh Xuân Hạ ấm no thanh nhàn.


Thu Đông chẳng thuận lỗi thời,


Lỗi sanh cực nhọc nên chàng âu lo.


Số này bất luận gái trai,


Khôn ngoan mưu trí ít ai thiệt thà.


Nhưng mà vô số đàn bà,


Vậy mà sự nghiệp tự tay mình làm.


Sanh thành cốt cách bền lâu,


Gia đình sự nghiệp tự tay tự làm.


Tiền vận chẳng đặng an thân,


Chẳng bằng trung vận tròn vành mấy phân.


Kiểng già nhưng lộc còn xuân,


Số năm tuổi vẫn còn nợ duyên.


Nữ mạng Bính Dần có bà Chúa Ngọc độ mạng.


Bính Dần cung Khảm lửa lư,


Tuổi sanh Xuân Hạ ấm no thanh nhàn.


Thu Đông sinh gái là nàng,


Lỗi sanh cực nhọc sanh nàng âu lo.


Lỗi sanh mang giỏ hái dâu,


Cực xác mệt trí điên đầu vì đâu.


Đặng sanh an ngủ có giờ,


Kẻ hầu người hạ đợi chờ khiến sai.


Tuổi Dần bất luận là ai,


Khôn ngoan mưu trí ít ai sánh bằng.


Giận ai muốn tới ăn gan,


Ai quấy biết lỗi than van chịu liền.


Tiền vận chẳng được an thân,


Hậu vận sung sướng tròn vành mấy thân.
 


1927,1987,2047 Đinh Mẹo – cung Càn – Âm Hỏa – Lư Trung Hỏa : Lửa trong lò –
xương con thỏ, tướng tinh con gà – khắc Kiếm Phong Kim – con nhà Xích đế, cô
bần.


Nam mạng có Cậu Tài, Cậu Quý độ mạng.


Số này cốt cách ngang tàng,


Lư trong lửa đỏ lâu tàn mau nguôi.


Giận ai không thể giận lâu,


Ai tới năn nỉ nắm tay dịu hiền.


Xin lỗi bạn chớ có phiền,


Ít bữa dịu ngọt có tiền cũng đưa.


Số nhờ biết được nhiều nghề,


Cho nên doanh nghiệp tự nhiên có hoài.


Ra ngoài kẻ mến người thương,


Kết bạn phản phúc họ quên ơn mình.


Thương người giúp đỡ của tiền,


Ăn rồi quẹt mỏ phản liền theo tay.


Hậu vận nhờ đặng cháu con,


Tiền vận lao khổ chẳng bằng vận sau.


Nữ mạng Đinh Mão có bà Chúa Ngọc độ mạng.


Đinh Mão mạng Hỏa cung Càn,


Lư nhang lửa đổ mau tàn mau nguôi.


Giận ai nóng nảy không day,


Người tới năn nỉ nắm tay dịu liền.


Xin lỗi bạn chớ có phiền,


Ít bửa dịu ngọt có tiền cũng đưa.


Gái mà sanh đặng số này,


Phần đông giàu có số cao có thừa.


Con nhà cốt cách thu phong,


Cửa nhà tổ nghiệp tự mình làm nên.


Hậu vận lao khổ những còn sầu bi.


Tai nạn nhiều lúc hiểm nguy,


Cũng đều qua khỏi nhờ thì ơn trên.


1928,1988,2048 Mậu Thìn – cung Đoài – Dương Mộc – Đại Lâm Mộc
: Cây trong rừng lớn – xương con rồng, tướng tinh con quạ – khắc Đại Trạch Thổ
– con nhà Thanh đế, trường mạng.


Nam mạng có Phật độ mạng.


Đoán xem số mạng tuổi này,


Tuổi cùng với Mạng thuận hòa tương sanh.


Số như cây trái nở đua,


Nhưng mà bị khắc vì sanh lỗi mùa.


Mùa Xuân vượng tướng phát tài,


Mùa Hạ giàu có muôn ngàn cực thân.


Anh em cô bác chẳng gần,


Người dưng giúp đỡ ân cần độ ta.


Phiêu lưu xứ khác xa quê ông bà.


Có tài có đức trong tay,


Xuân xanh thất bại sau này thuận hưng.


Lòng ở ngay thẳng mới hay,


Phật Trời dòm ngó có ngày làm nên.


Nữ mạng Mậu Thìn có Phật Bà Quan Âm độ mạng.


Đoán xem số mạng Mậu Thìn,


Lâm Mộc cây lớn có tàng mái to.


Đông Xuân sanh đặng thời sang,


Mùa Xuân vượng Mộc chẳng an đặng mùa.


Mùa Hạ như tù chẳng an,


Dầu làm có của muôn ngàn cực thân.


Anh em cô bác chẳng gần,


Người dưng giúp của ân cần độ ta.


Tuổi này vô số đàn bà,


Gặp chồng mạng lớn phải là nhịn ngay.


Buổi đầu chồng vợ đổi thay,


Nhiều chổ đi hỏi ngại nàng chẳng ưng.


Tuổi sanh biết đặng nhiều nghề,


Phiêu lưu xứ khác xa quê ông bà.
 


1929,1989,2049 Kỷ Tị – cung Cấn – Âm Mộc – Đại Lâm Mộc: Cây trong rừng lớn –
xương con rắn, tướng tinh con khỉ – khắc Đại Trạch Thổ – con nhà Thanh đế,
trường mạng.


Nam mạng có Phật độ mạng.


Kỷ Tỵ cung Cấn tốt thay,


Mạng Mộc cây lớn mọc ngay giữa rừng.


 Đông Xuân thuận số quá chừng,


Có kẻ tưới nước vua chân lâu tàn.


Hạ Thu là lỗi số chàng,


Lỗi sanh cực nhọc nên đành khổ thân.


Số người chết hụt mấy lần,


Quới nhơn độ mạng mới hòng khỏi nguy.


Hạn xưa vất vả long đong,


Tới hồi vận cuối mới hòng thạnh hưng.


Cuộc đời có lắm cát tường,


Không thì vất vả chịu đường linh đinh.


Tạo nên gia nghiệp sau này,


Nhờ Trời Phật độ có ngày làm nên.


Nữ mạng Kỷ Tỵ có Phật Bà Quan Âm độ mạng.


Kỷ Tỵ cung Cấn số này,


Mạng Mộc cây lớn mọc ngay giữa rừng.


Nếu mà sanh đặng Thu Đông,


Như cây gặp nước như rồng gặp mưa.


Sanh nhằm ls Hạ Thu,


Số phần cực nhọc nắng mưa phũ phàng.


Số nàng chết hụt mấy lần,


Quới nhơn độ mạng có phần khỏi lo.


Tuổi này sáng láng thông minh,


Thấy thì làm đặng thiệt tình chẳng sai.


Tiền vận chưa biết nên hư,


Hậu vận mới khá của dư có xài.


Lòng ở ngay thẳng mới hay,


Phật Trời hộ độ có ngày làm nên.


1930,1990,2050 Canh Ngọ – cung Ly – Dương Thổ – Lộ Bàng Thổ
: Đất giữa đường; Đất đường đi, Đất ven đường – xương con ngựa, tướng tinh con
vượn – khắc Tuyền Trung Thủy – con nhà Huỳnh đế, bần cùng.


Nam mạng có Phật độ mạng.


Canh Ngọ số mạng như vầy,


Đất ở đường lộ muôn ngàn người đi.


Thuận sanh sung sướng lo gì,


Tháng Chạp tháng Chín không thì tháng Ba.


Đặng sanh ba tháng an hòa,


Cũng nhờ ơn đức ông cha để dành.


Thu Đông lỗi số gian lao,


Mùa Xuân Dần Mão biết bao khổ rày.


Số này thân tự lập thân,


Được người giúp đỡ có phần làm nên.


Lộc cao như núi Thái Sơn,


Cơ mưu khéo léo chẳng hề ai hay.


Lập nên cơ nghiệp số này,


Kể từ vận giữa mọi đường đặng nên.


Nữ mạng Canh Ngọ có Phật Bà Quan Âm độ mạng.


Đoán xem số mạng tuổi này,


Cung Ly mạng Thổ là đất đường đi.


Mùa Hạ sanh đặng lo chi,


Thuận sanh tháng Chín tháng Ba thanh nhàn.


Thu Đông phải chịu lao đao,


Mùa Xuân Dần Mão biết bao khổ sầu.


Sanh kỵ tháng Giêng tháng Hai,


Nặng hơn tháng khác khổ rày cực thân.


Có điều nhờ được phước trời,


Không thì bỏ xác rồi đời đã xong.


Sanh ra thuở nhỏ long đong,


Thay tên đổi họ hai dòng mới an.


Ai nói thiết yếu thở than,


Lòng cầm không được có tiền liền trao.


Số gái Canh Ngọ mà hiền,


Lỗi sanh khổ nảo như thuyền linh đinh.


1931,1991,2051 Tân Mùi – cung Khảm – Âm Thổ – Lộ Bàng Thổ – xương con dê, tướng
tinh con gấu – khắc Tuyền Trung Thủy – con nhà Huỳnh đế, bần cùng.


Nam mạng có Phật độ mạng.


 Đoán xem số mạng Tân Mùi,


Mạng Thổ là đất có nhiều người đi.


Nếu sanh mùa Hạ lo chi,


Nhiều người giúp đỡ thiếu gì tình thương.


Tân Mùi tâm tính hiền lương,


Giận ai làm dữ nghĩ thương lại người.


Nhưng mà cách trở mẹ cha,


Ly hương tổ quán sau này mới nên.


Số này cốt tướng ít trường,


Tu nhơn tích đức không thì qui tiên.


Nhỏ thời cầm của không bền,


Ngày sau mới khá trở nên vững bền.


Tuổi này Hậu vận về sau,


Vinh hoa phú quý thảnh thơi an nhàn.


Nữ mạng có Phật Bà Quan Âm độ mạng.


Đoán xem số mạng Tân Mùi,


Cung Khảm mạng Thổ đặt ngoài đường đi.


Sanh đặng mùa Hạ lo chi,


Tháng Chạp tháng Chín không thì tháng Ba.


Thổ vương tứ quý bốn mùa,


Sanh đặng tháng Sáu ai mà dám đương.


Tân Mùi tâm tánh hiền lương,


Giận ai nói dữ mà lòng xót thương.


Tháng Giêng tháng Hai lỗi thời,


Bị Mộc khắc Thổ cực đời số ta.


Anh em chẳng đặng thuận hòa,


Ở gần gây gỗ đi xa nhớ hoài.


Vợ chồng chẳng hạp âm dương,


Sánh thương tuổi nhỏ sót thương đáo đầu.


Tuổi này bốn chục về sau,


Vinh hoa phú quý hưởng ngày giàu sang.


1932,1992,2052 Nhâm Thân – cung Khôn – Dương Kim – Kiếm Phong Kim
: Vàng đầu mũi kiếm – xương con khỉ, tướng tinh con dê – khắc Phúc Đăng Hỏa – con
nhà Bạch đế, phú quí.


Nam mạng có ông Tử Vi độ mạng.


Đoán xem số mạng tuổi này,


Tuổi cùng với mạng lắm lần gian nan.


Tha hương thân lập lấy thân,


Tổ tông sản nghiệp khó phần cậy trông.


Thuận sanh có kẻ rước đưa,


Ăn trên ngồi trước bẩm thưa đón chào.


Lỗi sanh vất vả biết bao,


Tay bùn chân lấm mắt hòa mồ hôi.


Duyên tình phải chịu lôi thôi,


Anh em phận nấy khó mà giúp nhau.


Có khi gặp hội tao phùng,


Nhiều phen đổi chác mới xong môn đình.


Số này tuổi nhỏ tay không,


Lớn lên có của vợ chồng làm nên.


Nữ mạng Nhâm Thân có bà Cửu Thiên Huyền Nữ độ mạng.


Đoán xem số mạng tuổi này,


Vàng trong cây kiếm ít người tìm ra.


Sanh nhằm tháng Chạp tháng Ba,


Mùa Thu rất tốt sanh ra đặng mùa.


Thuận sanh kẻ đón người đưa,


Kẻ hầu người hạ sớm trưa rộn ràng.


Lỗi sanh cực khổ lang thang,


Tay bùn chân lấm lang bang ngoài đường.


Nợ tình cũng chẳng thuận đôi,


Khiến cho tan rả cuộc đời quạnh hiu.


Số phải chịu cảnh xa quê,


Lập nghiệp xứ lạ mới nên gia đàng.


Ba mươi có của chẳng an,


Bốn mươi mới chắc mới an cuộc đời.


1933,1993,2053 Quý Dậu – cung Chấn – Âm Kim – Kiếm Phong Kim : Vàng đầu mũi
kiếm – xương con gà, tướng tinh con đười ươi – khắc Phúc Đăng Hỏa – con nhà
Bạch đế, phú quí.


Nam mạng có ông Tử Vi độ mạng.


Luận xem số mạng con Gà,


Mạng Kim cung Chấn ráng tìm thì ra.


Số này bất luận là ai,


Mùa Thu sanh thuận đố ai dám bì.


Nhưng mà nhiều kẻ hiền lành,


Ít ai ở dữ gian manh bạo tàng.


Hậu vận có của mới an,


Tiền vận làm có của kho chẳng còn.


Hai dòng cha mẹ mới an,


Không thì chồng vợ khó toan một đời.


Năm xưa tận khổ đã thường,


Vận sau bốn chín Trời ban phước lành.


Anh em xung khắc hay rầy,


Cô bác có của ta đây chẳng màng.


Nữ mạng Quý Dậu có bà Cửu Thiên Huyền Nữ độ mạng.


Đoán xem số mạng tuổi này,


Vàng trong gươm trắng có phần giàu sang.


Gái mà sanh đặng can này,


Nam Nhâm Quý nữ rõ ràng chẳng sai.


Đặng sanh sáng suốt tinh thần,


Nói năng lưu loát mọi người mến thương.


Quý Dậu nhiều kẻ hiền lành,


Ít ai ở dữ gian manh bạo tàn.


Hậu vận có của mới an,


Không thì chồng vợ khó bền ở yên.


Trung niên nay đổi mai dời,


Ai mà có chí mới mong vẹn toàn.


Sanh ra đặng gái đầu lòng,


Làm ăn có khá mới mong làm giàu.

1934,1994,2054
Giáp Tuất – cung Càn – Dương Hỏa – Sơn Đầu Hỏa
: Lửa trên núi – xương con chó, tướng tinh con ngựa – khắc Sa Trung Kim – con
nhà Xích đế, cô bần.


Nam mạng có ông Quan Đế độ mạng.


Đoán xem số mạng tuổi này,


Tuổi cùng với mạng thuận hòa tương sanh.


Nếu sanh Xuân Hạ thời mừng,


Có quyền có chức thanh nhàn tấm thân.


Thu Đông là lỗi số ta,


Giàu có cũng cực nghèo thì bơ vơ.


Vận hanh thì ở hạn sau,


Tự nhiên phước lộc theo nhau tới lần.


Tuổi này thuở nhỏ chẳng an,


Bịnh tật đau ốm liên miên tối ngày.


Tâm tánh sáng dạ rất hay,


Nghề nào cũng biết ít ai dám bì.


Giáp Tuất có chí làm nên,


Quyền tước khá lớn vững bền an thân.


Nữ mạng Giáp Tuất có bà Cửu Thiên Huyền Nữ độ mạng.


Giáp Tuất mạng Hỏa số này,


Lửa ở đầu núi rõ ràng sáng trưng.


Thuận sanh mùa Hạ mùa Xuân,


Giàu nghèo cũng sướng lo buồn mà chi.


Số gái sanh đặng hạp thời,


Làm ăn có của chồng giàu vinh sang.


Lỗi sanh ở ác trật giờ,


Cuộc đời như thể nắm bèo trôi đi.


Tuổi sanh thuở nhỏ chẳng an,


Bịnh tật đau ốm liên miên tháng ngày.


Số nàng lại khắc mẹ cha,


Đi xa thương nhớ ở gần ốm đau.


Xét qua trang sử lương duyên,


Ngựa Trâu Long Hổ kết duyên mới thành.


Tuổi nhỏ hậu vận gian nan,


Trở về lớn tuổi mới mong thanh nhàn.


1935,1995,2055 Ất Hợi – cung Đoài – Âm Hỏa – Sơn Đầu Hỏa : Lửa trên núi – xương
con heo, tướng tinh con hươu – khắc Sa Trung Kim – con nhà Xích đế, cô bần.


Nam mạng có ông Quan Đế độ mạng.


Ất Hợi mạng Hỏa số này,


Lửa ở trên núi sáng bay đỏ trời.


Thuận sanh Xuân Hạ gặp thời,


Giàu nghèo cũng sướng được nơi thanh nhàn.


Thu Đông chẳng lợi hao tài,


Trai thì lỡ dỡ duyên tình phôi pha.


Ất Hợi nhiều kẻ lòng hiền,


Ai mà nói dữ ta thời nhịn ngay.


Anh em xung khắc chẳng gần,


Nói ra gây gỗ chẳng gần chẳng an.


Lớn lên cách trờ xứ xa,


Học hành nghề nghiệp sau mà mới nên.


Đầu tiên có của chẳng bền,


Làm có hao tán như trên mây hồng.


Nữ mạng Ất Hợi có bà Cửu Thiên Huyền Nữ độ mạng.


Đoán xem số mạng tuổi này,


Lửa ở đầu núi tỏa bay khắp trời.


Mùa Hạ sanh đặng hạp thời,


Là số sung sướng có trời giúp cho.


Ất Hợi mạng Hỏa nhưng hiền,


Lòng dạ chẳng chắp nói rồi bỏ qua.


Số nàng xung khắc anh em,


Chẳng nhờ chẳng cậy ai làm nấy ăn.


Nhỏ thời chìm nổi linh đinh,


Sau nhờ bền chí lập nên gia đình.


Tuổi già giàu có yên thân,


Sớm lập gia thất nhiều lần chẳng nên.


Số tuổi hai bốn mới là,


Lập nên chồng vợ cuộc đời an vui.


Bốn mươi sắp tới trở lên,


Làm ăn có của vững bền đặng lâu.
 


1936,1996,2056 Bính Tý – cung Cấn – Dương Thủy – Giáng Hạ Thủy
: Nước mù sương, Nước sông, nước dưới khe [Giản Hà Thủy; Giang Hà Thủy] – xương
con chuột, tướng tinh con rắn – khắc Thiên Thượng Hỏa – con nhà Hắc đế, cô bần.


Nam mạng có Cậu Tài, Cậu Quý độ mạng.


Luận xem số mạng tuổi này,


Bính Tý mạng Thủy nước đầy tràn sông.


Trai mà sanh đặng Thu Đông,


Như cây gặp nước, như rồng gặp mây.


Bính Tý tánh ở hiền lành,


Có tiền ai hỏi cũng trao đưa liền.


Ăn rồi phản phúc tự nhiên,


Đổi thời không khả nghịch liền tự nhiên.


Một thân thất ý đủ điều,


Nửa lành nửa dữ bao nhiêu chưa đành.


Tới hồi vận giữa hiển vinh,


Căn nguyên tất phát môn đình đổi thay.


Tuổi già vận đến càng hay,


Vinh hoa phú quý vàng son cửa nhà.


Nữ mạng Bính Tý có bà Chúa Ngọc độ mạng.


Bính Tý Cung Càn sinh ra,


Mạng Thủy là nước mà ta nhờ nguồn.
 

 Đàn bà sanh thuận Thu Đông,


Kẻ đưa người rước người mong chuyện tình.


Tuổi này lúc nhỏ khó nuôi,


Hai lần chết hụt nổi trôi nhiều lần.


Cũng nhờ âm đức cha ông,


Nghi đâu có đó khó mong ai lường.


Bính Tý người nữ thì sang,


Nhưng mà lở dở chẳng an một đời.


Đầu tiên trắc trở lôi thôi,


Duyên sau mới hợp mới thôi lỡ làng.


Số này cách trở mẹ cha,


Ly hương tổ quán cửa nhà làm nên.


1937,1997,2057 Đinh Sửu – Cung Ly – Âm Thủy – Giáng Hạ Thủy – xương con trâu,
tướng tinh con trùn – khắc Thiên Thượng Hỏa – con nhà Hắc đế, cô bần.


Nam mạng có Cậu Tài, Cậu Quý độ mạng.


Đinh Sửu số mạng như là,


Giang Hà là nước chảy dài ra sông.


Trai mà sanh thuận Thu Đông,


Mùa Hạ lỗi số làm không nên trò.


Số như nổi sóng linh đinh,


Đầu đội tay xách vác cày lùa trâu.


Sanh ra nhiều lúc hiểm nguy,


Tưởng chết thuở nhỏ lúc thì mới sanh.


Số này quyền tước công danh,


Không thầy cũng thợ mới đành số ta.


Tuổi này tánh nết thật thà,


Giận đi nói dữ nhưng lòng vị tha.


Đầu tiên làm có của kho,


Nhiều lần làm khá hiệp rồi lại tan.


Nữ mạng  có bà Chúa Ngọc độ mạng.


Đinh Sửu mạng Thủy cung Ly,


Giang Hà nước chảy từ từ đi qua.


Gái mà sanh thuận Thu Đông,


Có chồng sung sướng ở không ăn hoài.


Sanh nhằm Xuân Hạ lỗi thay,


Đầu đội tay xách tay mang gánh gồng.


Đinh Sửu số cũng thong dong,


Âm đức phải giữ mới mong thanh nhàn.


Số đặng nên cửa nên nhà,


Tự tay lo lắng đàn bà mấy ai.


 Bôn ba nào có ích gì,


Số trời đã định nghĩ gì xa xôi.


Khuyên ai phận này thôi mà,


Đông Tây vùng vẫy cũng là uổng công.


Miễn sao ăn ở hiền lành,


Về sau cũng có đôi phần ấm no.


1938,1998,2058 Mậu Dần – cung Khảm – Dương Thổ – Thành Đầu Thổ
: Đất trên thành – Quá sơn chi hổ: cọp vượt qua núi – xương con cọp, tướng tinh
con thuồng luồng – khắc Thiên Thượng Thủy – con nhà Huỳnh đế, phú quí.


Nam mạng có Phật độ mạng.


Đoán xem số mạng tuổi này,


Mậu Dần mạng Thổ đất thành đền vua.


Số này trước vắn sau dài.


Anh em thân thích lạc loài phương xa.


Số cao có số quá chừng,


Duyên tình trắc trở lòng dòng đôi ba.


Tâm cơ tân khổ những là,


Bởi vì số mạng trở ra muộn màng.


Một thân toan tính trăm đường,


Đến khi vận giữa mới yên tấm lòng.


Tuổi sau mới được hưng long,


Cây già kết trái bông hồng tốt tươi.


Nữ mạng Mậu Dần có Phật Bà Quan Âm độ mạng.


Số này sau ngắn trước dài,


Anh em thân thích lạc loài phương xa.


Nếu mà sanh thuận mùa Hạ,


Ấy là sung sướng khác thì lỗi ngay.


Mùa Xuân lỗi số chẳng mong,


Vợ chồng chẳng hạp duyên đầu phải xa.


Anh em sung khắc chẳng hòa,


Nói ra gây gỗ tự nhiên rầy rà.


Số tuổi tự lập gia đình,


Một mình toan tính trăm đường tự do.


Tuổi già y lộc hưng long,


Cây già kết trái những chồng phước dư.


1939,1999,2059 Kỷ Mẹo – cung Khôn – Âm Thổ – Thành Đầu Thổ – xương con thỏ,
tướng tinh con rồng – khắc Thiên Thượng Thủy – con nhà Huỳnh đế, phú quí.


Nam mạng có Phật Bà Quan Âm độ mạng.


Số này tuổi nhỏ có tiền,


Nhưng không giữ được bay liền theo tay.


Mùa Xuân lỗi số đắng cay,


Mồ hôi nước mắt chảy ngay ròng ròng.


Gặp hồi cực khổ gian nan,


Vợ chồng khắc bạc muôn ngàn thảm thương.


Anh em cha mẹ hai dòng,


Không thì chồng vợ lòng dòng đôi ba.


Thấy ai năn nỉ xót xa,


Bạc tiền ủ sẵn móc ra đưa liền.


Ăn rồi phản phúc tự nhiên,


Ơn đâu không thấy oan liền theo tay.


Chờ cho vận cuối phát tài,


Cây già kết trái bằng hai những ngày.


Nữ mạng Kỹ Mão có Phật Bà Quan Âm độ mạng.


Kỷ Mão mạng Thổ số này,


Đất ở trên vách vậy mà chẳng khô.


Mùa Hạ sanh gái an nhàn,


Có danh có vị giàu sang một đời.


Đặng sinh tiếp đãi dạ thưa,


Hiển vinh một cách có thừa chẳng sai.


Mùa Xuân lỗi số đắng cay,


Mồ hôi nước mắt chảy ngay ròng ròng.


Tuổi Mão tài trí có thừa,


Không học cũng biết ít người giỏi hơn.


Anh em cha mẹ hai dòng,


Không thì chồng vợ lòng dòng đôi ba.


Tiền vận có của có nhà,


Nhưng mà tuổi nhỏ khó an phải tàn.


Hậu vận mới đặng vinh quang,


Lập nên nhà cửa vững vàng hậu lai.


1940,2000,2060 Canh Thìn – cung Chấn – Dương Kim – Bạch Lạp Kim : Vàng trong
đèn cầy, Vàng có sáp trắng, Chân kim loại dùng cắm đèn cầy- xương con rồng,
tướng tinh con quạ – khắc Phúc Đăng Hỏa – con nhà Bạch đế, trường mạng.


Nam mạng có ông Quan Đế độ mạng.


Canh Thìn là số rất cao,


Số có kẻ đón người đưa rộn ràng.


Thuận sanh tiếp đãi dạ thưa,


Hiển vinh một cách có thừa chẳng sai.


 Mùa Xuân lỗi số đắng cay,


Mồ hôi nước mắt chảy ngay ròng ròng.


Anh em xung khắc chẳng xong,


Nói ra gây dữ tự nhiên chẳng hòa.


Lớn lên lập nghiệp xứ xa,


Cô bác có của thì ta không nhờ.


Can Canh Can Mậu bơ vơ,


Tại sanh lỗi số trật giờ khổ thân.


Thuận sanh sung sướng mười phần,


Lòng ở ngay thẳng thánh thần độ cho.


Nữ mạng Canh Thìn có bà Chúa Tiên độ mạng.


Canh Thìn cung Chấn mạng Kim,


Vàng trong sáp trắng đi tìm khó ra.


Mùa Thu sanh đặng mới là,


Số sanh tháng sáu tháng ba được mùa.


Đông Xuân cũng chẳng ăn thua,


Tỵ Ngọ Hỏa khắc như cua gảy càng.


Tuổi nàng lập nghiệp xứ xa,


Cô bác có của thì ta chẳng nhờ.


Chữ Canh chữ Mậu số cơ [cơ bần],


Ấy là lỗi số nên nàng khổ thân.


Có người sung sướng an nhàn,
 
Vì là thuận số sanh nhằm ban đêm.
Ba mươi có của có tiền,
Vậy mà chẳng giữ được bền rã tan.
Tuổi gần bốn chục mới sang,
Giàu sanh đến lúc mới là hanh thông.
 


1941,2001,2061 Tân Tị – cung Tốn – Âm Kim – Bạch Lạp Kim: Vàng chân đèn – xương
con cọp, tướng tinh con thuồng luồng – khắc Phúc Đăng Hỏa – con nhà Bạch đế,
trường mạng.


Nam mạng có ông Quan Đế độ mạng.


Số này cách trở quê hương,


Lập nên cơ nghiệp phải hai ba lần.


Thành nhân cũng tự lập thân,


Hai bàn tay trắng tạo nên gia đình.


Thuận sanh giàu có đã đành,


Nghịch sanh như thể cua con gãy càng.


Đặng sanh sung sướng là chàng,


Lòng ở ngay thẳng thánh thần độ cho.


Ở cho biết phải biết điều,


Lòng thành kính Phật ít nhiều có ăn.


Số có chức phận môn đình,


Không thầy cũng thợ ít khi bần hàn.


Khi nên Trời cũng chìu lòng,


Thái vinh sự nghiệp thanh nhàn hồi sau.


 Nữ mạng Tân Tỵ có bà Chúa Tiên độ mạng.


Tân Tỵ cung Tốn mạng Kim,


Vàng ở trong sáp khó tìm lắm thay.


Mùa Thu thuận số là may,


Thổ vượng tứ quý ít ai dám bì.


Lâm nạn có kẻ giải nguy,


Giàu nghèo cũng sướng sau thì an thân.


Nếu sanh mùa Hạ khổ bần,


Đông Xuân cũng lỗi chịu phần gian nan.


Đặng sanh trúng tuổi là nàng,


Hiền lương quân tử là nàng tiểu thơ.


Tuổi sanh lỗi số sai giờ,


Vét mương phát cỏ đắp bờ nám da.


Duyên tình lỡ dỡ đôi ba,
 

Tiền vận có của cũng là lôi thôi.


Hậu vận đặng khá an nơi,


Phật Trời độ mạng thảnh thơi thanh nhàn.


1942,2002,2062 Nhâm Ngọ – cung Ly – Dương Mộc – Dương Liễu Mộc
: Gỗ cây Dương Liễu – xương con ngựa, tướng tinh con rắn – khắc Lộ Bàng Thổ –
con nhà Thanh đế, trường mạng.


Nam mạng có ông Tử Vi độ mạng.


Đoán xem số mạng tuổi này,


Mạng Mộc cây liễu số người phong lưu.


Mùa Thu lỗi số bơ vơ,


Mùa Hạ cũng lỗi trật giờ khổ thân.


Số này thuở nhỏ gian nan,


Tưởng đâu chết hụt chết oan đã rồi.


Cây khô mà đặng mọc chồi,


Ấy là Nhâm Ngọ rõ ràng chẳng sai.


Một tay chỉnh đốn gia môn,


Điền viên lưu để tử tôn lâu bền.


Kể từ vận giữa sắp lên,


Làm ăn nên cửa nên nhà mới yên.


Số này lanh lợi khôn ngoan,


Ít kẻ ngu dốt cơ hành lênh đênh.


Nữ mạng Nhâm Ngọ có bà Cửu Thiên Huyền Nữ độ mạng.


Nhâm Ngọ mạng Mộc cung Ly,


Là cây Dương Liễu số này làm nên.


Nếu là sanh thuận Đông Xuân,


Gái thì hữu phước gia môn yên hòa.


Mùa Thu bị khắc bơ vơ,


Mùa Hạ cũng lỗi trật giờ khổ thân.


Anh em xung khắc chẳng gần,


Đi xa thương nhớ lại gần chẳng an.


Tuổi sanh thuở nhỏ gian nan,


Tưởng đâu chết hụt chết oan đã rồi.


Tuổi nàng lanh lợi khôn ngoan,


Ít kẻ ngu dốt cơ hàn linh đinh.


Tuổi nhỏ làm có đủ xài,


Nhiều lần đặng khá khiến rày rã tan.


Lớn tuổi có của mới an,


Lập nên sự nghiệp an nhàn ấm no.


1943,2003,2063 Quý Mùi – cung Càn – Âm Mộc – Dương Liễu Mộc : Gỗ cây Dương Liễu
– xương con dê, tướng tinh con cọp – khắc Lộ Bàng Thổ – con nhà Thanh đế,
trường mạng.


Nam mạng có ông Tử Vi độ mạng.


Quý Mùi cung Chấn trực Kiên,


Là cây dương liễu hiên ngang giữa trời.


Sanh đặng tháng Giêng tháng Hai,


Mùa Đông cũng tốt tự nhiên thanh nhàn.


Lỗi sanh Thu Hạ bẽ bàng,


Nên người khổ não khiến chàng cực thân.


Anh em xung khắc chẳng gần,


Người ngoài khác họ lại thương mến mình.


Tuổi trẻ vất vả linh đinh,


Giàu sang phú quý để dành vận sau.


Số người sau có đất điền,


Nhà cửa mua sắm tự mình làm ra.


Tuổi nhỏ chớ khá bôn ba,


Trở về vận cuối mới là thảnh thơi.


Nữ mạng Quý Mùi có bà Cửu Thiên Huyền Nữ độ mạng.


Đoán xem số mạng tuổi này,


Cung Cấn mạng Mộc số nàng như sau.


Sanh đặng tháng Hai tháng Giêng,


Mùa Đông cũng tốt tự nhiên thanh nhàn.


Hạ Thu sanh gái là nàng,


Lỗi sanh vất vả số nàng âu lo.


Sanh ra sung khắc mẹ cha,


Anh em chẳng thuận sống nhờ người dưng.


Ly hương tổ quán số này,


Xứ xa lập nghiệp cửa nhà làm nên.


Trung niên có của chẳng bền,


Có rồi mất đó như diều đứt dây.


Số tuổi sau có đất nhà,


Ruộng vườn mua sắm tự mình làm ra.


Tuổi nhỏ chớ khá bôn ba,


Tuổi già có của mới yên gia đàng.


1944,2004,2064 Giáp Thân – cung Khôn – Dương Thủy – Tuyền Trung Thủy
: Nước giữa dòng, nước trong giếng – xương con khỉ, tướng tinh con heo – khắc
Thiên Thượng Hỏa – con nhà Hắc đế, từ tánh, phú quí.


Nam mạng có ông Quan Đế độ mạng.


Giáp Thân mạng Thủy số này,


Nước ở trong giếng họ đồn chẳng sai.


Thu Đông sanh thuận là trai,


Giàu nghèo cũng sướng sanh thai đặng mùa.


Xuân Hạ là lỗi số sanh,


Bần cùng vất vả như cua gãy càng.


Số này trắc trở nhiều bề,


Cung thẻ có khắc chẳng hề sai ngoa.


Tuổi nhỏ khắc mẹ khắc cha,


Anh em chẳng thuận chẳng hòa cùng nhau.


Nếu mà ăn ở thẳng ngay,


Phật Trời phù hộ có ngày đặng an.


Tuổi nhỏ phải chịu gian nan,


Tưởng đâu chết hụt chết oan đã rồi.


Số người trung vận chẳng an,


Hậu vận tiền của giàu sang hơn người.


Nữ mạng Giáp Thân có bà Cửu Thiên Huyền Nữ độ mạng.


Giáp thân mạng Thủy số này,


Nước ở trong giếng họ đồn chẳng sai.


Nếu nàng sanh đặng Thu Đông,


Giàu nghèo cũng sướng bởi sanh thuận mùa.


Xuân Hạ sanh ra cực phần,


Như cây rụng lá như cua gãy càng.


Lỗi sanh vất vả bần hàn,


Không ai nương tựa ngó ngàng đến ta.


Số cô trắc trở tư bề,


Vợ chồng sung khắc vậy mà đông con.


Lỗi sanh ăn ở thẳng ngay,


Phật Trời chẳng độ khó lòng làm nên.


Số này tiền của có thừa,


Nếu mà đức tốt cuộc đời giàu sang.


1945,2005,2065 Ất Dậu – cung Chấn – Âm Thủy – Tuyền Trung Thủy : Nước trong
giếng – xương con gà, tướng tinh con cua – khắc Thiên Thượng Hỏa – con nhà Hắc
đế, từ tánh, phú quí.


Nam mạng có ông Quan Đế độ mạng.


Số này tuổi nhỏ khó nuôi,


Lớn lên mạnh khỏe tài ba hơn người.


Thu Đông sanh đặng thời yên,


Có phần sung sướng như cua đủ càng.


Xuân Hạ lỗi số cực thân,


Làm ăn có của vậy mà phải lo.


Năm xưa vận hãy dỡ dang,


Tới hồi vận giữa lại càng vinh hoa.


Bởi nhờ người quý giúp ta,


Sau này lập nghiệp vinh hoa thanh nhàn.


Số người tính đức hiền lương,


Nhưng mà anh em chẳng thuận chẳng hòa.


Có tay tạo lập cửa nhà,


Phước theo vận cuối tới già hiển vinh.


Nữ mạng Ất Dậu có bà Cửu Thiên Huyền Nữ độ mạng.


Ất Dậu cung Cấn số nàng,


Mạng Thủy nước giếng chảy hoài liên miên.


Thu Đông sanh thuận thời yên,


Gái thì sung sướng như tiên giáng trần.


Xuân Hạ lỗi số cực thân,


Có chồng chẳng đặng trọn niềm gối chăn.


Trung niên cũng chẳng có phần,


Lo lắng bương bãi tảo tần lo thân.


Lập nên nhà cửa nhiều lần,


Vậy mà cũng rả vì phần chưa an.


Hậu vận mới được an nhàn,


Làm dư có của tụ tài số cô.


Số phải thuận niệm ăn chay,


Thì Trời Phật độ họa may sang giàu.


Tấm thân an mạnh thảnh thơi,


Gia tài sự nghiệp có thời mới nên.


1946,2006,2066 Bính Tuất – cung Tốn – Dương Thổ – Ốc Thượng Thổ
: Đất trên nóc nhà – xương con chó, tướng tinh con trâu – khắc Thiên Thượng Hỏa
– con nhà Huỳnh đế, phú quí.


Nam mạng có Cậu Tài, Cậu Quý độ mạng.


Đoán xem số mạng tuổi này,


Mạng Thổ là đất nóc nhà ở an.


Số người lao lực lao tâm,


Làm ăn vất vả mới mong sang giàu.


Số nhờ kẻ quý giúp nên,


Thang mây bước tới hanh thông có ngày.


Xét qua tâm tánh ở đời,


Thấy ai nghèo khó thua mình giúp cho.


Vậy mà người ấy chẳng lo,


Ăn rồi quẹt mỏ trả cho oán thù.


Lòng dạ rất tốt cho nên,


Thương người phải chịu không thù giận ai.


Con người ăn ở thẳng ngay,


Rủi gặp tai nạn ơn trên độ liền.


Nữ mạng Bính Tuất có bà Chúa Ngọc độ mạng.


Bính Tuất mạng Thổ số này,


Ít tìm thấy ở nóc nhà mà ra.


Thuận sanh mùa Hạ thì sang,


Gái thì sung sướng thanh nhàn lo chi.


Mùa Xuân lỗi số khổ bần,


Thu Đông cũng lỗi lắm phần gian nan.


Lỗi sanh cực nhọc thở than,


Thuận sanh phú quý vinh sang hơn người.


Số có bụng tốt thẳng ngay,


Rủi gặp tai nạn nhờ thần độ cho.


Đàn bà Giáp Bính can Canh,


Người nào cũng quý cũng sang không bền.


Số nàng lắm kẻ mến thương,


Thang mây bưc tới hanh thông có ngày.


Hạn xưa còn khó nhọc thay,


Đến chừng bốn bốn vận này mới nên.


1947,2007,2067 Đinh Hợi – cung Cấn – Âm Thổ – Ốc Thượng Thổ : Đất ở nóc nhà;
Đất ổ tò vò – xương con heo, tướng tinh con dơi – khắc Thiên Thượng Hỏa – con
nhà Huỳnh đế, phú quí.


Nam mạng có Cậu Tài, Cậu Quý độ mạng.


Đinh Hợi cung Cấn số này,


Đất ở dưới thấp bò lên nóc nhà.


Thuận sanh mùa Hạ thì sang,


Có phần sung sướng người sang nể vì.


Thổ vượng tứ quý lo chi,


Thu Đông Xuân mộc khắc lòng chẳng an.


Làm trai Đinh Hợi gan lì,


Nhưng mà ngay thẳng ít ai bạo tàn.


Số người chết hụt chết oan,


Nhưng nhờ trời độ qua cơn tai nàn.


Vợ chồng lỡ dỡ đò ngang,


Duyên sau mới hiệp mới an cửa nhà.


Ra ngoài sang quý số này,


Vận sau càng lại thêm phần giàu sang.


Nữ mạng Đinh Hợi có bà Chúa Ngọc độ mạng.


Đinh Hợi cung Cấn số nàng,


Đất ở dưới thấp mà leo nóc nhà.


Số sanh mùa Hạ thuận mùa,


Gái thời tốt số chồng thương nể vì.


Thổ vượng tứ quý lo chi,


Tháng Chín, tháng Chạp lo gì tháng Ba.


Mùa Xuân Mộc khắc khô khan,


Thu Đông lỗi số sanh ra cực hoài.


Đinh Hợi số gái tài hay,


Hiền lành ngay thẳng ít ai bạo tàn.


Số người tánh nết đoan trang,


Họ hàng cốt nhục ai mà chẳng thương.


Số nàng sang quý tự nhiên,


Vận sau sẽ thấy có duyên phú hào.


Tuổi sanh cho đến niên cao,


Tự mình tự lập biết bao tủi hờn.


1948,2008 Mậu Tý – cung Càn – Dương Hỏa – Tích Lịch Hỏa
 霹靋火
: Lửa sấm sét – xương con chuột, tướng tinh con chó sói – khắc Thiên Thượng
Thủy – con nhà Xích đế, phú quí.


Nam mạng có bà Quan Âm độ mạng.


Vốn người cốt cách cang cường,


Ấy là Mậu Tý con người đảm đang.


Thuận sanh thì đặng làm quan,


Cha mẹ vui vẻ lập đàng ăn chay.


Số này phước lớn chẳng vừa,


Nhờ ơn Trời Phật độ trì là may.


Duyên nợ cũng phải đời đời,


Sau này gia đạo mới là bình yên.


Vận xưa lận đận lo phiền,


Đến khi vận giữa tài nguyên tới gần.


Vận sau sẽ thấy tấm thân thanh nhàn.


Nữ mạng Mậu Tý có Phật Bà Quan Âm độ mạng.


Mậu Tý mạng Hỏa cung Càn,


Lửa trời chớp nhoáng có làn sáng trưng.


Nếu Cô sanh đặng Hạ Xuân,


Ấy là thuận số nên mừng cho thân.


Thu Đông bị khắc hao mòn,


Mẹ cha chạy thuốc sanh con lỗi mùa.


Số phải tu niệm ăn chay,


Ở ăn thiếu đức vào ngay ngục hình.


Buồn thay cho chuyện duyên tình,


Đầu trên dang dỡ bất bình nhiều phen.


Mậu Tý sung sướng hơn người,


Nếu mà bởi số người thời linh đinh.


Số cứ lận đận lo phiền,


Chờ khi vận giữa tài nguyên tới lần.


Bụng người cũng có tánh linh,


Nghi đâu trúng đó thật tình chẳng sai.


Cho hay Mậu Tý có tài,


Trao rèn âm đức có ngày hiển vinh.
 


1949,2009 Kỷ Sửu – cung Đoài – Âm Hỏa – Tích Lịch Hỏa – xương con trâu, tướng
tinh con heo – khắc Thiên Thượng Thủy – con nhà Xích đế, phú quí.


Nam mạng có Phật Bà Quan Âm độ mạng.


Kỷ Sửu số mạng như là,


Lửa trời chớp nhoáng có ngày cũng tan.


Số người mạng Hỏa tương sanh,


Làm ăn thuận lợi công danh dễ dàng.


Thu Đông sung khắc chẳng an,


Phòng người phản phúc mưu toan hại mình.


Chớ có tranh tụng hiểm nguy,


Ở đời nhịn nhục nhẹ thì cho ta.


Anh em nghịch ý chẳng hòa,


Ở gần gây gổ đi xa nhớ hoài.


Số tuổi sau có đất điền,


Ruộng vườn mua sắm của tiền làm ra.


Đầu tiên làm chẳng đặng an,


Hậu vận có của làm ăn mới bền.


Nữ mạng Kỷ Sửu có Phật Bà Quan Âm độ mạng.


Kỷ Sửu số mạng như vầy,


Lửa trời sấm chớp sáng đầy trời mưa.


Nếu sanh mùa Hạ thì sang,


Gái mà Kỷ Sửu số nàng như trai.


Lòng dạ cứng cỏi nam trang,


Thấy mạnh hiếp yếu ra tay binh liền.


Số này chẳng chịu ở yên,


Có tay buôn bán lại chuyên nhiều nghề.


Bạc tiền như giấc chiêm bao,


Có rồi lại hết sớm vào tối ra.


Số cô phải chịu phong ba,


Ba mươi sáu tuổi mới là yên thân.


Số cô tuổi nhỏ bôn ba,


Nhưng mà cô số chẳng qua ông trời.


Làm giàu phải tự tay ta,


Chẳng cần cha mẹ cùng là phu quân.


Kỷ Sửu lập nghiệp nên nhà,


Công danh sẳn có bởi nhờ căn tu.
 


1950,2010 Canh Dần – cung Cấn – Dương Mộc – Tùng Bách Mộc
: Gỗ cây Tùng Bách – Xuất sơn chi hổ: cọp ra khỏi núi – xương con cọp, tướng
tinh con heo – khắc Lộ Bàng Thổ – con nhà Thanh đế,
trường mạng.
Nam mạng có Phật Bà Quan Âm độ mạng.
Đoán xem số tuổi Canh Dần,
Người giàu mệt trí kẻ nghèo khổ tâm.
Thuận sanh thì số lại Đông,
Canh Dần là số vợ chồng đôi ba.
Đặng sanh sung sướng vô cùng,
Có người sai khiến có bồi nấu ăn.
Nhưng mà cũng số lạ kỳ,
Có khi hưng thạnh có khi điêu tàn.
Ra ngoài doanh nghiệp có duyên,
Quý nhân phù trợ phước trời ban cho.
Tánh tình ăn ở thẳng ngay,
Ai mà hiếp yếu ra tay binh liền.
Gặp ai thách đố chẳng kiên,
Giận dữ mất trí như điên sợ gì.
Nữ mạng Canh Dần có Phật Bà Quan Âm độ mạng.
Canh Dần cung Cấn số này,
Mạng Mộc Tòng Bá ấy là quý thay.
Đông Xuân thuận số lo chi,
Tuổi gặp sung sướng ít khi khổ nghèo.
Hạ Thu là lỗi số sanh,
Kẻ giàu mệt trí người nghèo khổ thân.
Thuận sanh sang trọng vô cùng,
Có người sai khiến có chồng vinh thân.
Lỗi sanh như thể nhện giăng,
Miệng thì nói chỉ tay phăng cẳng đùa.
Số này cũng lắm ly kỳ,
Có khi hưng thạng có khi điêu tàn.
Ra ngoài kẻ đón người đưa,
Quý nhân giúp đỡ phước dư có thừa.
 


1951,2011 Tân Mẹo – cung Ly – Âm Mộc – Tùng Bách Mộc – xương con thỏ, tướng
tinh con rái – khắc Lộ Bàng Thổ – con nhà Thanh đế, trường mạng.


Nam mạng có Phật Bà Quan Âm độ mạng.


Số gian nan lắm dãi dầu,


Bởi sanh lỗi số khẩn cầu ơn trên.


Hạ Thu lo lắng khôn lường,


Hưu tù xung khắc ví chưng lỗi mùa.


Lỗi sanh mà đặng làm vua,


Bị giặc vây khốn chịu thua hàng đầu.


Nhưng nhờ số tuổi hiền lành,


Nhờ Trời Phật độ ngày nay mới còn.


Nhân nghĩa phước đức giữ tròn,


Tham tài ở ác chẳng còn chẳng sai.


Vô duyên với kẻ thân nhân,


Anh em như thể người dưng láng giềng.


Số này tiền vận khác xa,


Đến khi vận cuối nghiệp nhà mới nên.


Nữ mạng Tân Mão có Phật Bà Quan Âm độ mạng.


Tân Mão mạng Mộc cung Ly,


Cây Tòng cây Bá ai bì mạng ta.


Đông Xuân sanh thuận hai mùa,


Giàu sang cũng có quới nhơn cũng nhiều.


Nhưng mà Thu Hạ chẳng an,


Cũng vì xung khắc sanh ra lỗi mùa.


Đặng sanh như ở nhà lầu,


Nghịch sanh như thể cây cầu gảy ngang.


Gái mà tuổi Mão rất hiền,


Thấy ai ngọt dịu có tiền cũng đưa.


Vợ chồng lở dỡ duyên xưa,


Nhiều chỗ hỏi cưới chẳng vừa ý ta.


Anh em xung khắc chẳng hòa,


Ở gần gây gỗ đi xa nhớ rày.


1952,2012 Nhâm Thìn – cung Khảm – Dương Thủy – Trường Lưu Thủy
: Giòng nước lớn; nước chảy dài – xương con rồng, tướng tinh con chó sói – khắc
Thiên Thượng Hỏa – con nhà Hắc đế, trường mạng.


Nam mạng có ông Tử Vi độ mạng.


Nhâm Thìn số mạng như là,


Trường lưu mạng Thủy chảy hoải luôn luôn.


Lỗi sanh Xuân Hạ phải buồn,


Giàu sang cũng mệt khổ thân cực hoài.


Thu Đông sanh đặng thời này,


Như cá gặp nước như rồng gặp mây.


Đàn ông thuận số Can Nhâm,


Số thì quyền tước không thì cũng ông.


Đặng sanh là số tự trời,


Nhờ Trời Phật độ mới toàn mạng thay.


Số phải đợi vận làm giàu,


Hạn quá bốn chín lên cao lần lần.


Phước dư Trời báo thiện nhân,


Thọ khương phú hậu riêng xuân một nhà.


Nữ mạng Nhâm Thìn có bà Cửu Thiên Huyền Nữ độ mạng.


Nhâm Thìn cung Khảm số này,


Mạng Thủy nước chảy chẳng hề ngừng tuông.


Lỗi sanh Xuân Hạ phải buồn,


Giàu có mệt trí thức luôn đêm ngày.


Thu Đông sanh đặng thời may,


Nữ nhân là gái chẳng chìu lụy ai.


Tới đâu thân kẻ bề trên,


Anh em xung khắc chẳng nên ở gần.


Vợ chồng cũng phải một lần,


Đôi dòng tha thứ tại phần số ta.


Ly hương tổ quán ông bà,


Xứ xa lập nghiệp cửa nhà đặng an.


1953,2013 Quý Tị – cung Khôn – Âm Thủy – Trường Lưu Thủy: Nước chảy dài – xương
con rắn, tướng tinh con chó – khắc Thiên Thượng Hỏa – con nhà Hắc đế, trường
mạng.


Nam mạng có ông Tử Vi độ mạng.


Đoán xem số mạng tuổi này,


Quý Tỵ mạng Thủy nước chảy tuông ra vàm.


Thu Đông thuận số thời sang,


Giàu nghèo cũng sướng tấm thân thanh nhàn.


Xuân Hạ lỗi số cực thân,


Hai mùa cũng lỗi tảo tần gian nan.


Số này thân tự lập thân,


Lộc trời có bởi ông cha để dành.


Số đặng vinh hưởng gia đình,


Bôn ba nào có ích gì bôn chôn.


Phong trần ngồi những đợi thời,


Năm ba mươi tuổi có cơ làm giàu.


Một mai vận đặng hanh thông,


Phong lưu sung sướng trong vòng trần ai.


Nữ mạng Quý Tỵ có bà Cửu Thiên Huyền Nữ độ mạng.


Đoán xem số mạng tuổi này,


Cung Không mạng Thủy nước đầy chảy ra.


Nếu nàng sanh thuận mùa Đông,


Giàu nghèo cũng sướng tấm thân thanh nhàn.


Xuân Hạ sanh ra khổ bần,


Chịu phần khổ sở lắm lần gian nan.


Số này xém chết một lần,


Nhưng nhờ ơn đức thánh thần chỡ che.


Lỗi số vận mạng đổi đời,


Ly hương tổ quán ở thời mới an.


Anh em có kẻ giàu sang,


Ta nghèo phải chịu khó toan cậy nhờ.


Ngày mai mọi sự thành công,


Thanh nhàn giàu có hưởng phần ấm no.


1954,2014 Giáp Ngọ – cung Ly – Dương Kim – Sa Trung Kim
: Vàng trong cát – xương con ngựa, tướng tinh con chim trĩ – khắc Thạch Lựu Mộc
– con nhà Bạch đế, an mạng, phú quí.


Nam mạng có bà Chúa Ngọc độ mạng.


Giáp Ngọ cung Cấn số trai,


Vàng ở trong cát ráng tìm giàu ngay.


Số tuổi no đủ mọi đường,


Phước kiêm phú quý thọ khương một đời.


Ôn hòa trung hiếu tánh người,


Gia đình giáo dục tự người hiền lương.


Bạc tiền không có thì thôi,


Có thì ai hỏi cũng trao tay liền.


Ăn rồi phản phúc tự nhiên,


Ơn đâu không thấy oán liền theo tay.


Có tánh nóng nảy chẳng hay,


Gặp ai thách đố ra oai đánh liền.


Mạnh yếu người cũng chẳng kiên,


Ai cản chẳng được như điên biết gì.


Nữ mạng Giáp Ngọ có bà Cửu Thiên Huyền Nữ độ mạng.


Giáp Ngọ Cung Ly mạng Kim,


Vàng trong bãi cát nếu tìm giàu ngay.


Nếu sanh thuận Thìn Tuất Sửu,


Thân Dậu năm tháng ít ai dám bì.


Hạ Xuân lỗi số gian nan,


Tỵ Ngọ hai tháng chẳng sang chút nào.


Lỗi sanh cực nhọc biết bao,


Tiền bạc chẳng có thân rày đó đây.


Nhưng người tính nóng hay gây,


Ấy là Giáp Ngọ số nàng chẳng sai.


Tánh người chẳng chịu hiếp ai,


Gặp mạng đuổi yếu ra tay binh liền.


Nhưng mà phải lỡ đò duyên,


Nhiều khi đau bịnh đứng ngồi chẳng nên.


Đàn bà Giáp Ngọ chẳng hiền,


Gặp chồng mạng lớn phải nhường nhịn ngay.


1955,2015 Ất Mùi – cung Khảm – Âm Kim – Sa Trung Kim : Vàng trong cát – xương
con dê, tướng tinh con gà – khắc Thạch Lựu Mộc – con nhà Bạch đế, an mạng, phú
quí.


Nam mạng có ông Quan Đế độ mạng.


Đoán xem số mạng tuổi này,


Vàng trong cát trắng khó mà tìm ra.


Đặng sanh sung sướng quý thay,


Mùa Thu cũng tốt số trai thanh nhàn.


Thuận sanh phú quý chẳng sai.


Nghèo giàu cũng sướng guốc giày nhởn nhan.


Số người no đủ y lương,


Bôn ba lúc trẻ an khương về già.


Một tay gầy dựng cửa nhà,


Lao tâm phí lực tự mình làm ra.


Chờ cho vận giữa giao qua,


Tài nguyên phát đạt việc nhà thịnh hưng.


Vợ chồng con cái sum vầy,


Lập nên gia thất vui vầy ấm no.


Nữ mạng Ất Mùi có bà Cửu Thiên Huyền Nữ độ mạng.


Ất Mùi cung Khảm mạng Kim,


Vàng trong cát trắng dễ gì tìm ra.


Thuận sanh Thìn Tuất Sửu Mùi,


Mùa Thu cũng tốt thanh nhàn.


Xuân Hạ thì lỗi số nàng,


Phải đành cam chịu trăm phần lao đao.


Con người có tánh tài lanh,


Cửa nhà chẳng có hỏi vay giúp người.


Ất Mùi số gái đáng thương,


Ít kẻ hung dữ nhiều người hiền lương.


Ai nói hung ác thì nhường,


Nhiều người lối xóm rất hay thương tình.


Hoa niên lập đặng gia đình,


Mấy lần nên nghiệp thình lình vở tan.


Hậu vận có của mới an,


Lập nên gia đạo ngày càng vinh quang.


1956,2016 Bính Thân – cung Khôn – Dương Hỏa – Sơn hạ Hỏa
: Lửa dưới chân núi – xương con khỉ, tướng tinh con quạ – khắc Tích Lịch Hỏa –
con nhà Xích đế, cô bần.


Nam mạng có Phật Bà Quan Âm độ mạng.


Đoán xem số mạng tuổi này,


Bính Thân mạng Hỏa cung Khôn rõ ràng.


Tuổi sanh Xuân Hạ gặp thời,


Giàu nghèo cũng đặng an nơi thanh nhàn.


Thu Đông lỗi số chẳng an,


Có của cũng cực lưng mang quần dài.


Hạn xưa chưa được hanh thông,


Như thuyền trôi dạt không phương bến bờ.


Số Trời định những bao giờ,


Tài ba vận mạng chờ ngày phát sanh.


Một đời tài sắc phong danh,


Đến khi vận giữa lần lần nối theo.


Ra ngoài kẻ quý người yêu,


Đắc tài đắc lộc còn nhiều hạn sau.


Nữ mạng Bính Thân có Phật Bà Quan Âm độ mạng.


Bính Thân mạng Hỏa cung Khôn,


Lửa ở dưới núi cháy lan đỏ trời.


Tuổi sanh Xuân Hạ gặp thời,


Giàu nghèo cũng đặng an nơi thanh nhàn.


Thu Đông lỗi số chẳng an,


Có của chẳng hưởng số nàng cực thân.


Số cô cực khổ quá tay,


Thuận sanh thong thả giàu sang mấy hồi.


Có điều lỡ dỡ duyên đầu,


Chồng sau mới hạp thuận hòa lứa đôi.


Số trời định xuống an bày,


Tài ba cho lắm chẳng qua số phần.


Cuộc đời tài sắc phong danh,


Đến khi vận mới hoàng làm nên.


Số người có của giúp thương,


Đắc tài hữu lộc phải ngoài ba mươi.


1957,2017 Đinh Dậu – cung Chấn – Âm Hỏa – Sơn Hạ Hỏa : Lửa dưới núi – xương con
gà, tướng tinh con khỉ – khắc Tích Lịch Hỏa – con nhà Xích đế, cô bần.


Nam mạng có Phật Bà Quan Âm độ mạng.


Đinh Dậu cung Tốn tuổi ta,


Lửa ở dưới núi cháy hoài ngày đêm.


Mùa Xuân mùa Hạ sanh ra,


Đặng sanh sung sướng làm nên chức quyền.


Thu Đông lỗi số tự nhiên,


Hỏa bị Thủy khắc đảo điên cực hoài.


Số này trung vận bôn ba,


Khá rồi tan rã khiến ta chưa cầm.


Hậu vận mới đặng an tâm,


Dư ăn dư để của cầm khỏi rơi.


Số này vận mạng đổi đời,


Xa quê xa xứ ở thời mới an.


Bụng người cũng có tánh linh,


Nghi đâu có đó thiệt tình chẳng sai.


Số tuổi lòng dạ thẳng ngay,


Của rơi không lượm gặp người chỉ cho.


Nữ mạng Đinh Dậu có Phật Bà Quan Âm độ mạng.


Đinh Dậu cung Cấn số này,


Lửa ở dưới núi cháy hoài ngày đêm.


Xuân Hạ sanh đặng hạp thời,


Hỏa bị Thủy khắc đảo điên cực lòng.


Thu Đông cũng lỗi số nàng,


Làm ăn vất vả tiền tài chẳng an.


Số tuổi tai nạn hải hùng,


Tưởng đâu bỏ xác nhiều nơi đã rồi.


Nhưng nhờ ơn đức Phật Trời,


Độ cho qua khỏi mấy lần nạn tai.


Số này trung vận lao đao,


Khá rồi tan rã số ta chưa cầm.


Hậu vận mới được an thân,


Dư ăn dư mặc của tiền đầy kho.


Nhưng mà vận mạng đổi đời,


Lập nên gia nghiệp phải xa quê nhà.


1958,2018 Mậu Tuất – cung Tốn – Dương Mộc – Bình Địa Mộc
: Cây ở đồng bằng; Cây mọc đất bằng – xương con chó, tướng tinh con vượn – khắc
Sa Trung Kim – con nhà Thanh đế, phú quí.


Nam mạng có Phật Bà Quan Âm độ mạng.


Đoán xem số mạng tuổi này,


Mạng Mộc bình địa là cây đất bằng.


Hạ Thu lỗi số khó khăn,


Hai mùa vất vả lăng xăng cực hoài.


Đông Xuân thời đặng gặp may,


Thanh nhàn sung sướng ít ai dám bì.


Có lúc tai nạn hiểm nguy,


May nhờ Phật độ không thì bỏ thân.


Tiền vận lắm lúc lôi thôi,


Nhà cửa nhiều lớp có rồi cũng tan.


Nhưng mà mạng số giàu sang,


Vinh hoa phú quý an nhàn tấm thân.


Số đặng vui vẻ thảnh thơi,


Người nhờ âm đức của Trời ban cho.


Nữ mạng  Mậu Tuất có Phật Bà Quan Âm độ mạng.


Đoán xem số mạng tuổi này,


Mạng Mộc bình địa là cây đất bằng.


Gái sanh nghịch số Hạ Thu,


Thanh nhàn sung sướng ít ai dám bì.


Có lúc tai nạn hiểm nguy,


Vậy mà Phật độ được qua tai nàn.


Buổi đầu tai nạn lôi thôi,


Nhà cửa nhiều lớp có rồi cũng tiêu.


Vợ chồng khắc khẩu cải hoài,


Vậy mà con cháu đầy đàng phải lo.


Nữ nhân ít kẻ hiền lương,


Gặp chồng mạng nhỏ thì cầm quyền ngay.


Số gái tánh cũng như trai,


Giận ai muốn xé nuốt tươi mới vừa.


Có tánh khẳng khái đảm đương,


Thấy mạnh hiếp yếu thì thương nhảy vào.


1959,2019 Kỷ Hợi – cung Cấn – Âm Mộc – Bình Địa Mộc : Cây mọc đất bằng – xương
con heo, tướng tinh con gấu – khắc Sa Trung Kim – con nhà Thanh đế, phú quí.


Nam mạng có Phật Bà Quan Âm độ mạng.


Đoán xem số mạng tuổi này,


Mạng Mộc bình địa cây trên đất bằng.


Đông Xuân cũng thuận ai bằng,


Hai mùa thuận số có ăn thanh nhàn.


Số này có nạn vào thân,


Gian truân lắm độ phong trần lắm khi.


Tha hương lập nghiệp xứ xa,


Trở về vận cuối làm ra có tiền.


Vợ chồng trắc trở nhiều phen,


Nếu không thì cũng lòng dòng đôi ba.


Kỷ Hợi có số hiền lương,


Thấy ai ngọt dịu thì thương giúp liền.


Số tuổi tu niệm ăn chay,


Lòng ở nhân đức có ngày làm nên.


Nữ mạng Kỷ Hợi có Phật Bà Quan Âm độ mạng.


Kỷ Hợi cung Cấn số này,


Mạng Mộc bình địa cây trên đất bằng.


Đông Xuân sanh đặng thời sang,


Hai mùa thuận số có căn thanh nhàn.


Hạ Thu sanh gái là nàng,


Ấy là lỗi số thiếp đành cực thân.


Thuận sanh gái sướng hơn trai,


Giàu cũng thong thả guốc giày nhổn nhang.


Gái thì có tánh hiền lương,


Thấy ai nghèo khó thì thương giúp liền.


Số phải niệm Phật ăn chay,


Lòng ở nhân đức có ngày làm nên.


Số người ăn trước ngồi trên,


Chức cao tước trọng kẻ trên giúp mình.


1960,2020 Canh Tý – cung Càn – Dương Thổ – Bích Thượng Thổ
: Đất trên vách – xương con chuột, tướng tinh con dê – khắc Thiên Thượng Thủy –
con nhà Huỳnh đế, quan lộc, bần cùng.


Nam mạng có ông Quan Đế độ mạng.


Canh Tý mạng Thổ cung Càn,


Đất ở đầu vách khó mà tìm ra.


Nhỏ thờ vất vả phiêu lưu,


Lớn lên lập nghiệp lắm ưu lắm phiền.


Số tuổi khẳng khái đảm đương,


Thấy mạnh hiếp yếu thì thường nhảy vào.


Bạc tiền như thể chiêm bao,


Giàu có như thể sớm vào tối ra.


Tạo lập lắm cửa lắm nhà,


Mua cất rồi bán thế là trắng tay.


Thấy người yếu thế cô đơn,


Có tiền cũng giúp chẳng cần đền ơn.


Số tuổi có chức có quyền,


Có tay quán xuyến có quyền khiển binh.


Vợ chồng xung khắc hay rầy,


Vậy mà con cháu đầy nhà phải lo.


Nữ mạng Canh Tý có bà Chúa Tiên độ mạng.


Canh Tý mạng Thổ cung Càn,


Đất ở đầu vách vậy mà cứng ghê.


Canh Tý sanh thuận tháng này,


Thìn Tuất Sữu Mùi số này tài cao.


Gái sanh Xuân mộc khắc chồng,


Cho hay lỗi số không đồng mùa sanh.


Số cô y lộc đủ dùng,


Không dư chẳng thiếu có chừng mà thôi.


Gái mà Canh Tý quyền hành,


Gặp chồng mạng nhỏ phải đành nhịn ngay.


Tánh người vui vẻ dễ thương,


Thấy mạnh hiếp yếu thì thường nhảy vào.


Tiền vận làm có của kho,


Bởi không biết giữ trời cho không còn.


Bạc tiền như thể chiêm bao,


Buổi đầu làm khá sớm vào tối ra.


Cho hay số ở thiên đình,


Tu nhơn tích đức giữ gìn mai sau.


1961,2021 Tân Sửu – cung Đoài – Âm Thổ – Bích Thượng Thổ – xương con trâu,
tướng tinh con đười ươi – khắc Thiên Thượng Thủy – con nhà Huỳnh đế, quan lộc,
bần cùng.


Nam mạng có ông Quan Đế độ mạng.


Tân Sửu mạng Thổ tuổi này,


Số cùng với mạng lắm lần khắc khe.


Vận thời dời đổi ngửa nghiêng,


Nhiều phen lận đận lắm lần gian nan.


Nếu sanh mùa Hạ thời may,


Thanh nhàn thong thả ít ai dám bì.


Số này chết hụt nhiều khi,


Nhờ ơn Trời Phật không thì mạng vong.


Anh em cha mẹ hai dòng,


Nếu không chồng vợ lòng dòng đôi ba.


Nếu không thay vợ đổi nhà,


Cuộc đời luống chịu vui chiều buồn mai.


Cho hay số phận Thiên Tài,


Tu nhân tích đức phước nhờ mai sau.


Nữ mạng Tân Sửu có bà Chúa Tiên độ mạng.


Tân Sửu mạng Thổ cung Đoài,


Đất ở đầu vách ít ai cuốc đào.


Tháng Giêng lỗi số biết bao,


Thu Đông cũng cực số sao hẫm hiu.


Số này khắc mẹ khắc cha,


Gần nhau xích mích đi xa lại buồn.


Tánh người nói dữ nói hung,


Khẩu xà tâm Phật nói rồi bỏ qua.


Gái thì lập nghiệp phương xa,


Tình đầu luống chịu vui chiều buồn mai.


Cho hay trời đã an bày,


Tu nhơn tích đức để rày mai sau.


1962,2022 Nhâm Dần – cung Cấn – Dương Kim – Kim Bạc Kim
: Vàng pha bạch kim – Quá lâm chi hổ: cọp đi qua rừng – xương con cọp, tướng
tinh con ngựa – khắc Lư Trung Hỏa – con nhà Bạch đế, phú quí.


Nam mạng có ông Tử Vi độ mạng.


Tuổi Dần cung Cấn mạng Kim,


Tướng người tật bịnh khó tìm chẳng an.


Tuổi nhỏ như thể chỉ mành,


Ốm đau bịnh tật đã đành khó nuôi.


Tánh tình ăn nói bải buôi,


Khôn ngoan mềm mõng hay vui hay cười.


Nam nhân cao số hơn người,


Số tu tích đức Phật Trời độ cho.


Số cao có số hơn người,


Đôi dòng ba thứ vợ ngoài vợ trong.


Nhưng mà chết hụt phải phòng,


Tướng mạng lớn lắm mới hòng sống lâu.


Huynh đệ cũng chẳng thuận hòa,


Tuổi nhỏ tự lập tuổi già nhờ con.


Nữ mạng Nhâm Dần có bà Cửu Thiên Huyền Nữ độ mạng.


Nhâm Dần cung Cấn mạng Kim,


Lá vàng tây trắng dễ gì tìm ra.


Nếu người sanh thuận mùa Thu,


Là người tốt số được phần giàu sang.


Đông Xuân ở mức trung bình,


Nếu là mùa Hạ là mùa lỗi sanh.


Số này tuổi nhỏ khó nuôi,


Ốm đau bịnh tật triền miên nhiều ngày.


Lớn lên y lộc đủ dùng,


Không dư chẳng thiếu ung dung thanh nhàn.


Nữ nhân sau số nhân người,


Gặp chồng hiền đức phải thời nhịn ngay.


Làm ơn cho bạn chẳng nài,


Bạc tiền trợ giúp có ngày hại ta.


Anh em cũng chẳng thuận hòa,


Tuổi nhỏ tự lập tuổi già hiển vinh.
 


1963,2023 Quý Mẹo – cung Ly – Âm Kim – Kim Bạc Kim – xương con thỏ, tướng tinh
con hươu – khắc Lư Trung Hỏa – con nhà Bạch đế, phú quí.


Nam mạng có ông Tử Vi độ mạng.


Nhìn xem số mạng tuổi này,


Như vàng tây trắng có ngày giàu sang.


Tiền vận vất vả khó con,


Trung vận mạnh khỏe làm ăn hơn người.


Trai thì lại có lắm nghề,


Bụng người ngay thẳng không hề tham lam.


Mùa Thu sanh đặng thuận mùa,


Mùa Hạ hỏa khắc phải dời đổi thay.


Bụng người cũng có tánh linh,


Nghi đâu trúng đó thiệt tình chẳng sai.


Nếu thuận thì phước lại tăng,


Tuổi già sung sướng lộc tài thiếu chi.


Tuổi nhỏ phải chịu gian nan,


Tuổi già vinh hiển giàu sang hơn người.


Nữ mạng Quý Mão có bà Cửu Thiên Huyền Nữ độ mạng.


Quý Mão mạng Kim cung Ly,


Là vàng tây trắng đặng thì giàu sang.


Nếu sanh thuận số mùa Thu,


Như là nước chảy bon bon chẳng ngừng.


Mùa Hạ nóng bức chẳng hay,


Như cây mọc ở đầu làng gió bay.


Gái mà sanh đặng số này,


Hiền lành giàu kẻ sang giàu lắm thay.


Ăn nói ngọt dịu mỏng mềm,


Ít ai ghen ghét kẻ trên thương mình.


Bụng người cũng có tánh linh,


Nghi ai thì có thiện tình chẳng sai.


Số này cũng lắm nghề hay,


Tánh tình ngay thẳng chẳng ưa làm phiền.
 


1964,2024 Giáp Thìn – cung Tốn – Dương Hỏa – Phúc Đăng Hỏa
: Lửa ngọn đèn; lửa đèn nhỏ – xương con rồng, tướng tinh con rắn – khắc Thoa
Xuyến Kim – con nhà Xích đế, tân khổ.


Nam mạng có ông Quan Đế độ mạng.


Giáp Thìn số mạng may thay,


Tuổi cùng với mạng hợp hòa thuận sanh.


Thu Đông sanh ra khổ hèn,


Xuân Hạ sanh đặng như đèn sáng trưng.


Trai thì vui vẻ đào hoa,


Tánh thì hiền hậu không hay gian tà.


Thuận sanh sung sướng biết bao,


Lỗi sanh cực nhọc gian lao lắm lần.


Ví như cờ bạc đánh thua,


Về nhà lo lắng như cua gảy càng.


Số này trước ngắn sau dài,


Vợ chồng thay đổi ba lần mới yên.


Số phải tu niệm ăn chay,


Sống lâu hưởng phúc lộc Trời ban cho.


Nữ mạng Giáp Thìn có bà Cửu Thiên Huyền Nữ độ mạng.


Đoán xem số mạng Giáp Thìn,


Mạng Hỏa lò lửa ở quanh ngọn đèn.


Thu Đông sanh đặng khổ hèn,


Xuân Hạ sanh thuận như đèn sáng trưng.


Thuận sanh con gái là nàng,


Gặp chồng mạng nhỏ chịu đầu hàng ngay.


Giáp Thìn mạng Hỏa như vầy,


Tuổi cùng với mạng hợp hòa tương sanh.


Có duyên vui vẻ hiền lành,


Tánh người điềm tĩnh không hay gian tà.


Số người duyên nợ bền lâu,


Vợ chồng con cái yên hòa gia môn.


Số có tu niệm thì hay,


Sống lâu hưởng phước triền miên tuổi già.


1965,2025 Ất Tị – cung Đoài – Âm Hỏa – Phúc Đăng Hỏa: Lửa đèn nhỏ – xương con
rắn, tướng tinh con trùn – khắc Thoa Xuyến Kim – con nhà Xích đế, tân khổ.


Nam mạng có ông Quan Đế độ mạng.


 Ất Tỵ mạng Hỏa số này,


Cung Đoài lửa cháy sáng ngời tọa đăng.


Thu Đông lỗi số khó khăn,


Hai mùa khắc nghịch có ăn lo hoài.


Xuân Hạ mà đặng sanh thai,


Kẻ hầu người hạ có bồi bếp sai.


Số này tuổi nhỏ gian nan,


Trở về lớn tuổi có phần an thân.


Số người cách trở lương duyên,


Bằng không thì cũng vợ trong vợ ngoài.


Số mạng phước lớn nhờ Trời,


Khỏi bị chết hụt cũng thời cầm giam.


Phải nên phước đức tu tâm,


Phật Trời hộ độ mới an gia đình.


Nữ mạng Ất Tỵ có bà Cửu Thiên Huyền Nữ độ mạng.


Ất Tỵ mạng Hỏa cung Đoài,


Ấy là lửa chác ở đèn tọa đăng.


Thu Đông lỗi số khó khăn,


Xuân Hạ sanh đặng làm ăn phát tài.


Hiền lành ăn ở thẳng ngay,


Chớ nên gian xảo mà mang tội tù.


Thân tộc giàu có không ham,


Nghèo thì phải chịu ai làm nấy ăn.


Anh em cũng chẳng đặng gần,


Khó khăn nghịch ý nói năng chẳng hòa.


Đầu tiên nhiều lớp cửa nhà,


Nhưng mà chẳng giữ sau mà mới nên.


Số này trắc trở lương duyên,


Vợ chồng lỡ dỡ chẳng yên một đời.


1966,2026 Bính Ngọ – cung Càn – Dương Thủy – Thiên Hà Thủy
: Nước trên trời – xương con ngựa, tướng tinh con thuồng luồng – khắc Thiên
Thượng Hỏa – con nhà Hắc đế, tân khổ.


Nam mạng có bà Quan Âm độ mạng.


Đoán xem số mạng tuổi này,


Số cùng với mạng lắm lần gian nan.


Có lúc nguy hiểm chẳng an,


Tưởng đâu chết hụt chết oan đã rồi.


Duyên tình lỡ dỡ lôi thôi,


Trước khi sum họp sau rồi lại tan.


Anh em gia đạo bất hòa,


Đi xa thương nhớ về nhà chẳng yên.


Tiền vận vất vả lao đao,


Trở về hậu vận mới nhàn tấm thân.


Tuổi này cũng có tánh linh,


Nghi đâu trúng đó thiệt tình chẳng sai.


Số này tướng mạng lớn thay,


Quyền hành chấp chưởng lo thay cho người.


Nữ mạng Bính Ngọ có Phật Bà Quan Âm độ mạng.


Bính Ngọ mạng Thủy cung Càn,


Mạng Thủy là nước ở sông Giang Hà.


Thu Đông sanh đặng tuổi nàng,


Đặng mùa vương tướng số ta thanh nhàn.


Xuân Hạ sanh thiếp lỗi mùa,


Lỗi sanh cực nhcọ nên nàng gian nan.


Cho nên thân gái dặm tràng,


Duyên tình lỡ dỡ đôi đàng chia ly.


Anh em xung khắc bất hòa,


Đi xa thương nhớ về nhà chẳng yên.


Tuổi này lại có tính linh,


Nghi đâu trúng đó thiệt tình chẳng sai.


Gặp kẻ ăn nói bất bình,


Giận người lỗ mãn thiệt tình khó dung.


Tiền vận số phải lao đao,


Hậu vận vinh hiển giàu sang có thừa.


1967,2027 Đinh Mùi – cung Đoài – Âm Thủy – Thiên Hà Thủy – xương con dê, tướng
tinh con rồng – khắc Thiên Thượng Hỏa – con nhà Hắc đế, tân khổ.


Nam mạng có Cậu Tài, Cậu Quý độ mạng.


Đinh Mùi tuổi nhỏ khó nuôi,


Thiên Hà nước chảy rỏ hoài như mưa.


Thu Đông sanh đặng mới vừa,


Lớn lên mạnh khỏe tài ba hơn người.


Xuân Hạ lỗi số chẳng vừa,


Gian nan lắm độ hiểm nguy lắm lần.


Số mạng tưởng đã qui tiên,


Nhiều lúc nguy hiểm đảo điên gặp hoài.


Số người phải chịu truân chuyên,


Tuổi trẻ cực nhọc tuổi già hiển vinh.


Tiền bạc như thể chiêm bao,


Nhiều lúc làm khá tốn hao chẳng còn.


Lắm khi trách trộm buồn thầm,


Người sao cùng tuổi họ cầm bạc muôn.


Nữ mạng Đinh Mùi có bà Chúa Ngọc độ mạng.


Đinh Mùi mạng Thủy số này,


Thiên Hà nước chảy nhỏ hoài như mưa.


Thu Đông sanh đặng thuận mùa,


Xuân Hạ lỗi số gái mà chẳng nên.


Không phần làm bạn với ai,


Ăn rồi quẹt mỏ rõ loài phản ta.


Số này thân gái âu lo,


Chồng con lo lắng một tay dựng nhà.


Tiền bạc như thể chiêm bao,


Buổi đầu giàu có sau rồi cũng tan.


Nhiều khi trách phận buồn than,


Cũng thời một tuổi họ cầm bạc muôn.


Có tay thương mại bán buôn,


Vậy mà chẳng được tình thương đậm đà.


Vợ chồng cách trở đôi ba,


Nếu mà có phước mới hòa thường nhau.


1968,2028 Mậu Thân – cung Cấn – Dương Thổ – Thành Đầu Thổ – xương con khỉ,
tướng tinh con lạc đà – khắc Thiên Thượng Thủy – con nhà Huỳnh đế, quan lộc.


: Đất đầu thành, đất thuộc khu lớn, đất nền nhà [Đại Dịch Thổ; Đại Trạch Thổ].


Nam mạng có Phật Bà Quan Âm độ mạng.


Đoán xem số mạng tuổi này,


Số cùng với mạng lắm lần gian truân.


Thìn Tuất Sửu Mùi sanh thai,


Tỵ Ngọ sáu tháng đặng mai thanh nhàn.


Số người cốt nhục không hòa,


Tự tay lập nghiệp mà nên cửa nhà.


Tuổi nhỏ chết hụt đôi lần,


Không thì bịnh tật khổ thân sau này.


Đầu tiên có của chẳng an,


Nhà cửa nhiều lớp rả tan đổi dời.


Tuổi nhỏ cực trí lao tâm,


Trở về lớn tuổi mới mong thanh nhàn.


Số người lại có biệt tài,


Làm ăn nên cửa bằng bàn tay không.


Nữ mạng Mậu Thân có Phật Bà Quan Âm độ mạng.


Mậu Thân cung Cấn số nàng,


Mạng Thổ đất lớn nhiều người tài cao.


Thuận sanh Thìn Tuất Sửu Mùi,


Tỵ Ngọ sáu tháng đặng may thanh nhàn.


Thu Đông sanh gái là nàng,


Mùa Xuân cũng lỗi sanh nàng cực thân.


Số cô chết hụt đôi lần,


Chớ ở gian xảo vậy mà chẳng qua.


Răn lo tích đức tu thân,


Về sau mới được an nhàn tấm thân.


Số phải thay đổi nợ duyên,


Chồng sau mới được phỉ quyền yến anh.


Tuổi nhỏ chẳng đặng yên lành,


Trở về hậu vận mới hòng yên thân.


Nếu lòng tin tưởng Phật Trời,


Ngày sau con cháu một đời vinh quang.


1969,2029 Kỷ Dậu – cung Ly – Âm Thổ – Thành Đầu Thổ [Đại Trạch Thổ : Đất nhà
lớn] – xương con gà, tướng tinh con thỏ – khắc Thiên Thượng Thủy – con nhà
Huỳnh đế, quan lộc.


Nam mạng có Phật Bà Quan Âm độ mạng.


Kỷ Dậu mạng Thổ cung Khôn,


Đại trạch đất lớn ở thì say mê.


Thìn Tuất Sửu Mùi chẳng chê,


Tỵ Ngọ sáu tháng đặng bề an thân.


Thu Đông hữu tú phân vân,


Hai mùa làm đặng công thần cũng lo.


Số này lúc nhỏ lao đao,


Hậu vận sung sướng phong lưu thanh nhàn.


Tánh người ngay thẳng chẳng gian,


Lại thêm có số thuận hành thọ thân.


Tha phương lập nghiệp mới nên,


Cửa nhà yên ổn gia môn thuận hòa.


Số này hưởng lộc tuổi già,


Cũng như áo gấm lại càng thêm hoa.


Nữ mạng Kỷ Dậu có Phật Bà Quan Âm độ mạng.


Kỷ Dậu mạng Thổ cung Ly,


Đất ở nhà lớn dễ gì tìm ra.


Hạp thì Thìn Tuất Sửu Mùi,


Tỵ Ngọ sáu tháng hạp mùa thuận sanh.


Thu Đông chẳng hạp chẳng an,


Tuy làm giàu có cũng là cực thân.


Đầu tiên là có của kho,


Vậy mà chẳng đặng vững bền tiêu hao.


Nhà của nhiều lớp rã tan,


Sắm rồn bán đó chẳng bền về sau.


Nhưng mà nhờ đức Phật Trời,


Làm ăn có của ở thời vận sau.


Lỗi sanh vô phước xấu phần,


Chơi bạn không tốt nhiều lần hại ta.


Vợ chồng chẳng được thuận hòa,


Vậy mà con cái đầy đàng phải lo.


1970,2030 Canh Tuất – cung Khảm – Dương Kim – Thoa Xuyến Kim
: Vàng trang sức; xuyến bằng vàng – xương con chó, tướng tinh con cáo – khắc
Đại Lâm Mộc – con nhà Bạch đế, phú quí.


Nam mạng có ông Quan Đế độ mạng.


Canh Tuất cung Ly số này,


Mạng phần khó dưỡng lúc còn tuổi thơ.


Thuận sanh thì đặng mùa Thu,


Mùa Hạ Hỏa khắc như cua gãy càng.


Đông Xuân cũng lỗi số sanh,


Người thì vất vả gặp điều chẳng may.


Sớm ra có bịnh chẳng an,


Trong mình yếu đuối hoặc là tật chi.


Nhân duyên trắc trở buổi đầu,


Không thì chồng vợ lòng dòng đôi ba.


Tiền vận cực khổ lao đao,


Trở về hậu vận mới an gia đình.


Tu nhân tích đức thì may,


Trời ban phước lộc tiền tài thiếu chi.


Nữ mạng Canh Tuất có bà Chúa Tiên độ mạng.


Đoán xem số mạng tuổi này,


Mạng Kim xoa xuyến là vàng đeo tay.


Mùa Thu sanh đặng gặp may,


Như cây gặp nước như cua đủ càng.


Mùa Hạ Hỏa khắc chẳng an,


Đông Xuân cũng lỗi khiến nàng cực thân.


Gái mà tuổi Tuất chẳng hiền,


Gặp chồng mạng nhỏ phải đành nhịn ngay.


Canh Tuất số gái chẳng yên,


Chữ Canh chữ Mậu đảo điên nhiều chồng.


Số nàng lập nghiệp phương xa,


Làm ăn có của có nhà chẳng yên.


Lỗi sanh tiền bạc khó cầm,


Khi ăn chẳng hết lúc cần chẳng ra.


Số người hậu vận lao đao,


Không bằng vận giữa như tiên giáng trần.
 


1971,2031 Tân Hợi – cung Khôn – Âm Kim – Thoa Xuyến Kim – xương con heo, tướng
tinh con cọp – khắc Đại Lâm Mộc – con nhà Bạch đế, phú quí.


Nam mạng có ông Quan Đế độ mạng.


Số này cung mạng tương sanh,


Chẳng sang cũng quý số người thuận sanh.


Mùa Thu là hạp với chàng,


Đều đặng sung sướng thanh nhàn lo chi.


Mùa Hạ bị khắc hàn vi,


Đông Xuân cũng lỗi giàu thì cực thân.


Số này cách trở quê hương,


Tha phương cầu thực mới nên cửa nhà.


Trung vận vất vả gian nan,


Kể từ hậu vận thạnh hưng một bề.


Tiền vận rắc rối lôi thôi,


Ngay gian cũng bị kéo lôi ngục tù.


Số may gặp được phước hồng,


Không thì cũng ở ngục tù từ lâu.


Nữ mạng Tân Hợi có bà Chúa Tiên độ mạng.


Đoán xem số mạng tuổi này,


Mạng Kim thoa xuyến là vàng đeo tay.


Mùa Thu là thuận số nàng,


Đều đặng sung sướng an nhàn tấm thân.


Mùa Hạ thì bị lỗi thời,


Đông Xuân cũng cực làm giàu chẳng nên.


Anh em xung khắc chẳng gần,


Ở xa thương nhớ lại gần khắc xung.


Giận ai nói dữ nói hung,


Mà lòng chẳng hận giận ai bao giờ.


Số này là gái thật thà,


Vì trời phú tánh nên nàng dễ thương.


Số nàng cách trở nợ duyên,


Trước thì có của nhiều lần rã tan.


Trung niên vất vả gian nan,


Kể từ hậu vận an hưởng thanh nhàn.


1972,2032 Nhâm Tý – cung Chấn – Dương Mộc – Tang Đố Mộc
: Gỗ cây Dâu – xương con chuột, tướng tinh con heo – khắc Ốc Thượng Thổ – con
nhà Thanh đế, Quan lộc, tân khổ.


Nam mạng có ông Tử Vi độ mạng.


Nhâm Tý số mạng như vầy,


Phong sương cũng lắm tha phương cũng nhiều.


Số này cách trở quê hương,


Đi ra xứ khác sanh phương nên nhà.


Số phải khắc khẩu mẹ cha,


Ở gần cắng đắng đi xa thì buồn.


Số này cách trở lương duyên,


Thay nhà đổi bạn truân chuyên lắm bề.


Chẳng nhờ cốt nhục họ hàng,


Tự mình lập nghiệp cửa nhà mới nên.


Tiền vận chẳng đặng thảnh thơi,


Trở về vận cuối an nhàn tấm thân.


Nhâm Tý nhờ có quới nhân,


Tu nhân tích đức phước Trời ban cho.


Nữ mạng Nhâm Tý có bà Cửu Thiên Huyền Nữ độ mạng.


Nhâm Tý cung Chấn số này,


Tang đố mạng Mộc cây tầm trồng dâu.


Sanh ra lỗi số mùa Thu,


Mùa Hạ cũng chẳng có mưu chước gì.


Bởi sanh lỗi số cực thân,


 Sáng lo chạy gạo bước chân không ngừng.


Đông Xuân thì đặng thuận mùa,


Làm ăn có của chẳng thua bạn bè.


Nhưng mà duyên lỡ buổi đầu,


Nhiều chổ đi nói khẩn cầu không nghe.


Bởi số Nhâm Tý cứng đầu,


Ai mà nói khích chẳng cầu chẳng ưa.


Chịu người ngọt dịu đầu môi,


Bởi vậy phải khổ lôi thôi nhiều lần.


Nhưng người trí sáng thông minh,


Ai tính mưu kế thì nàng biết ngay.


Số cô nhờ có quới nhân,


Tu nhân tích đức Thánh Thần đỡ cho.


1973,2033 Quý Sửu – cung Tốn – Âm Mộc – Tang Đố Mộc: Cây Dâu – xương con trâu,
tướng tinh con cua biển – khắc Ốc Thượng Thổ – con nhà Thanh đế, Quan lộc, tân
khổ.


 Nam mạng có ông Tử Vi độ mạng.


Số này lúc nhỏ gian nan,


Lao tâm khổ trí vui chiều buồn mai.


Thân phận phải chịu lao đao,


Tình duyên trể nải bằng không đổi đời.


Số người thân tự lập thân,


Tha phương cầu thực gia môn an hòa.


Họ hàng như thể người xa,


Cũng như giá lạnh đám đông điêu tàn.


Lúc nhỏ chẳng đặng an thân,


Hậu vận phú lúc an môn gia hòa.


Mùa Xuân mới đặng thảnh thơi,


Thanh nhàn sung sướng đố ai sánh bằng.


Nữ mạng Quý Sửu có bà Cửu Thiên Huyền Nữ độ mạng.


Quý Sửu số cô như là,


Tang đó mạng Mộc cuộc đời ít lo.


Mùa Thu sanh lỗi khó khăn,


Cuộc đời gian khổ phải lo tháng ngày.


Mùa Xuân sẽ mới vui tươi,


Thanh nhàn sung sướng cuộc đời lên hương.


Số cô thuở nhỏ gian nan,


Tưởng đâu đã chết ngày nay đâu còn.


Nhưng mà nhờ đức ông cha,


Ngày nay an hưởng cuộc đời ấm no.


Số này tự lập một mình,


Tha phương cầu thực gia môn an hòa.


Họ hàng thân thích chẳng trông,


Cũng như giá lạnh đêm đông điêu tàn.


Lúc nhỏ chẳng đặng an nhàn,


Trở về hậu vận gia đình vui tươi.

QUY LUẬT NGŨ HÀNH
Tương sinh : Thổ sinh
kim, kim sinh thủy, thủy sinh mộc, mộc sinh hỏa, hỏa sinh thổ.


Tương khắc : Thổ khắc thủy, thủy khắc hỏa, hỏa khắc kim, kim khắc mộc, mộc khắc
thổ.

Tỷ hòa : âm thổ +
dương thổ ; âm thủy + dương thủy…
Tương tranh : dương thổ + dương thổ ; âm kim + âm kim…

Mạng Kim: hợp màu
trắng, màu vàng; Màu sắc tương sinh: Thổ sinh Kim: hợp màu nâu
Mạng Thủy: hợp màu đen, xanh da trời; Kim sinh Thủy: hợp màu trắng, xanh nước
biển đậm, vàng
Mạng Mộc: hợp màu xanh lá cây; Thủy sinh Mộc: hợp màu đen, xanh da trời
Mạng Hỏa: hợp màu tím, hồng, đỏ; Mộc sinh Hỏa: hợp màu xanh lá cây
Mạng Thổ: hợp màu nâu; Hỏa sinh Thổ: hợp đỏ, tím, hồng.

Âm
Sinh – Khắc
Dương Sinh – Khắc
Ngũ Hành Sinh – Khắc

Đôi khi gặp Tương Sinh
không hẳn là tốt, gặp Tương Khắc chưa hẳn là xấu:

thí dụ: Người tuổi Mậu
Dần, ngũ hành thuộc Thổ, thì
– hành Kim được lợi: Vượng do Thổ Sinh Kim.
– Thổ với Thổ: lưỡng thổ thành sơn, Thổ được bồi đắp thêm thành núi.
– Hỏa sinh Thổ: Hỏa đốt Mộc nên cả hai Hỏa và Mộc đều bị tổn hại để Thổ được
sinh, tức Thổ được sinh nhập.
– Thổ khắc Thủy: Thổ bị hao tổn, còn Mộc được hóa sinh, nên Thổ bị khắc nhập.
Qua thí dụ trên, sự tương sinh hay tương khắc chỉ có một chiều: Thổ sinh được
Kim chứ Kim không sinh được Thổ; Thổ khắc Thủy chứ Thủy không khắc Thổ …
– Lấy một ví dụ: tại sao cho là Thiên Thượng Hỏa khắc Thiên Hà Thủy? Là bởi vì
trước tiên là Hỏa khắc Thủy, nước có thể dập tắt đám cháy, lửa hay nắng gắt có
thể làm cạn khô nước. Cả 2 đều là Thiên tức trên trời, thiên thượng hỏa nghĩa
đơn giản là nắng, thiên hà thủy nghĩa đơn giản là mưa. Có nắng thì không có mưa
và ngược lại, khắc nhau là như vậy.
– Hành được sinh [sinh nhập] có lợi: Kim được Thổ sinh thì Kim được lợi, còn
Thổ thì hao tổn [sinh xuất].
– Hành bị khắc [khắc nhập] thất lợi, còn hành khắc cũng hao tổn, như Thổ là
hành khắc [khắc xuất], còn Thủy là hành bị khắc [khắc nhập].
Theo lý thuyết, được sinh nhập, khắc xuất là tốt. Còn bị sinh xuất, khắc nhập
là xấu. Nhưng còn tính chất hóa hợp xung của Thiên Can, Địa Chi nên không vì
những điều trên mà phải lo lắng.
Tương sinh có nghĩa là nuôi dưỡng, thúc đẩy, trợ giúp; còn tương khắc có nghĩa
ràng buộc, khắc chế. Nhưng xét theo Vượng Tướng Hưu Tù Tử sẽ có ứng dụng khác
nhau:
Gặp Tương Sinh chưa hẳn là tốt:
– Kim dựa vào Thổ sinh [Thổ sinh Kim], nhưng Thổ vượng thì Kim bị vùi lấp, mất
tích.
– Thổ dựa vào Hỏa để sinh [Hỏa sinh Thổ], nhưng Hỏa vượng thì Thổ trở thành
khoáng sản than đá, Kim loại.
– Hỏa dựa vào Mộc sinh [Mộc sinh Hỏa], nhưng Mộc vượng thì Hỏa đang thuộc hưu,
tù, tử, không thể bốc lên đốt cháy được cây to.
– Mộc dựa vào Thủy để sinh [Thủy sinh Mộc], nhưng Thủy vượng thì Mộc trốc gốc,
trôi giạt.
– Thủy dựa vào Kim sinh [Kim sinh Thủy], nhưng Kim vượng thì Thủy đục nước, có
nhiều tạp chất đầy nguy hại.

Gặp Tương Khắc chưa
phải là hung:
– Kim khắc Mộc, nhưng Mộc cứng thì Kim phải mẻ.
– Mộc khắc Thổ, nhưng Thổ khô thì Mộc chết.
– Thổ khắc Thủy nhưng Thủy dây cao thì Thổ bị trôi, bị sụp lở.
– Thủy khắc Hỏa nhưng Hỏa vượng thì Thủy khô cạn.
– Hỏa khắc Kim, nhưng Kim nhiều thì Hỏa phải tắt.

Vì vậy hành nào là
Vượng, Tướng, dù bị khắc nhập hay sinh xuất đều vượt qua, còn những hành được
sinh nhập hay khắc xuất đang ở thế Hưu, Tù, Tử, chuyển hung ra cát, chuyển cát
thành hung.
Chúng ta thấy sự sinh khắc của ngũ hành đều có những yếu tố xác định, như Mộc
là cây cối tăng trưởng được là nhờ có Thủy, nhưng cây không sống được ở sông mà
phải sống trên đất, như vậy phải có Thổ. Khi Mộc vượng thì Thủy lẫn Thổ đều gặp
hao tổn. Trong ngũ hành đều có sự tương trợ hay khống chế nhau, như Thổ bị khắc
với Mộc cần có Kim khống chế lại Mộc, v.v.
Trong hôn định chẳng hạn, lỡ gạo đã thành cơm, Mộc lấy Thổ, để khắc chế hai
mệnh Mộc và Thổ, cần sinh đứa con tuổi Kim, gia đình tức khắc hòa thuận, hạnh
phúc.

Ấu
– Tráng – Lão của Ngũ Hành

Ngoài yếu tố Vượng,
Tướng, Hưu, Tù, Tử nên tính thêm độ số Ngũ Hành Ấu Tráng Lão. Ấu như mới sinh
chưa phát huy được tính chất cát hung cao như Tráng là đã trưởng thành, hay Lão
không còn sức công phá như thời thanh niên trai tráng. Trong chu kỳ Lục Thập
Hoa Giáp với 60 tên gọi, cứ hai cặp Can Chi có chung một tên Ngũ Hành Nạp Âm và
mỗi hành gồm có 6 tên gọi khác nhau để đánh giấu giai đoạn Ấu, Tráng, Lão nói
trên.

Như
hành Thổ có "Lục Thổ" có thứ tự:
1. Lộ Bàng Thổ
2. Thành Đầu Thổ
3. Ốc Thượng Thổ
4. Bích Thượng Thổ
5. Đại Trạch Thổ
6. Sa Trung Thổ

Hành nào là Ấu, Tráng,
Lão của vòng Trường sinh thuộc giai đoạn nào?

– Nếu Ngũ hành đi từ
Ấu rồi trở về Ấu theo chu kỳ 60 năm, lúc về già sẽ hồi xuân, mang tính trẻ
trung vô tư như thời niên thiếu [Ấu], nếu mệnh hợp có tài lộc, hưởng được thú
an nhàn, còn mệnh khắc phải chịu gian nan, sống trong tuổi già phải nhờ con
cháu nuôi dưỡng như mới sinh ra đời.
– Nếu Ngũ hành đi từ Tráng, Lão, Ấu sang Tráng, nếu bị khắc sẽ có tiền cát hậu
hung; nếu đi từ Lão, Ấu, Tráng rồi về Lão, dù mệnh khắc cũng đều có hậu vận tốt
đẹp.

– Thổ sinh Kim thì Thổ hao, kim lợi, nhưng hành Thổ nào cho hành Kim lợi? Xét
qua bảng Lục Thổ, chỉ có hai loại Thổ có thể cho Kim lợi, là Sa Trung Thổ, Đại
Trạch Thổ hoặc tối thiểu là Lộ Bàng Thổ, là những hành Thổ có thể tạo ra kim
loại, tức Kim được sinh nhập.
– Còn Kim sinh Thủy, Kim hao Thủy lợi là sinh xuất xấu. Nhưng xấu hay tốt với
hành Thủy nào? Khi xét bảng Lục Thủy, chỉ có Đại Khê Thủy, Đại Hải Thủy mới làm
cho hành Kim gặp hao tổn, còn Giang Hà Thủy, Tuyền Trung Thủy và Trường Lưu
Thủy, hành Kim ít bị hao tổn, nếu gặp Thiên Hà Thủy lại không tương sinh hay
tương khắc với Kim.
Khi tương khắc cũng tính theo biện pháp trên, đồng thời hành bị khắc [là hành
đứng sau] đang trong giai đoạn Ấu, Tráng hay Lão và độ số ở vòng Trường sinh
như thế nào, để tính cát hung cho thích hợp.
Lưỡng mộc thành lâm [tương sinh] nghĩa là mộc với mộc thành rừng [tốt]. Lưỡng
mộc mộc chiết [tương khắc: gảy mất một].
Lưỡng kim thành khí [ts: vật dụng kim khí]. Lưỡng kim kim khuyết [tk: bể mất
một]: hai kim loại hợp lại sẽ quá cứng, có thể làm tổn thương nhau [tương đối
xấu].
Lưỡng hỏa thành viên [ts: hợp thành sức nóng]. Lưỡng hỏa, hỏa diệt [tk: lửa
tắt]: lửa quá mãnh liệt, có thể hủy diệt nhau [xấu].
Lưỡng thổ thành sơn [ts: tốt]. Bích Thượng Thổ và Đại Trạch Thổ gặp nhau thì
tốt.
Lưỡng thổ tương khắc: Thổ liệt, nhảo nát không dùng được.
Lưỡng thủy thành xuyên [hợp thành sông], đại hà. Lưỡng thủy, thủy kiệt [khô cạn
hết]: sông lớn, tràn ngập, không còn lối đi [xấu].

Hành Kim muốn lưỡng Kim thành khí, thì khi mệnh thuộc Hải Trung Kim, Sa Trung
Kim hoặc Bạch Lạp Kim, tức kim loại chưa tinh chế, nhờ Hỏa mới thành khí nhưng
phải là Lư Trung Hỏa hay Phúc Đăng Hỏa mới thích hợp. Những Hỏa khắc kỵ với
Kim: Thoa Xuyến Kim, Kiếm Phong Kim, Kim Bạch Kim mà gặp Thiên Thượng Hỏa, Tích
Lịch Hỏa sẽ trở thành Kim khuyết, ví như kim loại gặp lửa bị nóng chảy hay sức
mẻ.
Có sách lại ghi rằng: Bạch Lạp Kim, Kim Bạch Kim đều kỵ Hỏa, còn Hải Trung Kim
và Sa Trung Kim thì Hỏa khó khắc, duy chỉ sợ có Tích Lịch Hỏa. Riêng Kiếm Phong
Kim và Thoa Xuyến Kim thì phải nhờ Hỏa tôi luyện mới nên vật có ích.
Sa Trung Kim và Kiếm Phong Kim thì khắc hành Mộc và không sợ Hỏa khắc, trái lại
phải nhờ Hỏa mới trở thành khí cụ hữu ích, nhưng nếu rơi vào Can – Chi Thiên
khắc, Địa xung thì lại xấu, thí dụ: Nhâm Thân, Quí Dậu là Kiếm Phong Kim gặp
Bính Dần, Đinh Mão là Lư Trung Hỏa thì Hỏa khắc Kim, Nhâm, Quí hành Thủy khắc
Bính, Đinh hành Hỏa tức Thiên khắc. Thân và Dần, Dậu và Mão thì xung nhau tức
Địa xung. Thiên khắc, Địa xung nên rất xấu.

Hành Mộc muốn lưỡng Mộc thành lâm tức phải có nhiều cây chụm lại mới thành
rừng, những cây như Tùng Bách Mộc, Dương Liễu Mộc, Bình Địa Mộc, nhưng phải nhờ
Đại Trạch Thổ, Sa Trung Thổ hay Lộ Bàng Thổ thuộc những vùng đất lớn thì Tùng
Bách và Dương Liễu Mộc không khắc Thổ, trái lại phải nhờ Thổ. Còn Đại Lâm Mộc
khắc với ba hành thổ trên [khắc xuất] nhưng gặp Kim sẽ thành Mộc chiết [khắc
nhập]. Tất cả các loại Mộc đều sợ Kim khắc. Sa Trung Kim và Kiếm Phong Kim thì
khắc mạnh hành Mộc, trừ có Bình Địa Mộc không sợ Kim khắc, nếu không có Kim thì
lại khó cầu công danh, phú quí.
Có sách lại ghi rằng: Tùng Bách Mộc, Dương Liễu Mộc, Tang Đố Mộc, Thạch Lựu Mộc
đều kỵ Kim, nhứt là Kiếm Phong Kim, chỉ có Bình Địa Mộc và Đại Lâm Mộc là không
sợ Kim vì phải nhờ kim đao mới được thành gia dụng.

Hành Thủy, lưỡng Thủy thành giang phải là Tuyền Trung Thủy hợp với Đại Khê Thủy
hay Giang Hải Thủy mới thành sông lớn, biển lớn, Thiên Hà Thủy [mưa] hợp với
Đại Hải Thủy thì tốt. Những hành thủy này tạo thành sông bằng chính bản thân
không nhờ Kim, Mộc. Thổ chỉ khắc Thủy, làm Thủy kiệt với các hành như Tuyền
Trung Thủy, Đại Khê Thủy, Trường Lưu Thủy. Đất bồi làm mất dòng chảy của nước,
nhưng không thể ngự được với Giang Hà Thủy, Đại Hải Thủy hay Thiên Hà Thủy.

Hành Hỏa, lưỡng Hỏa thành viên Lư Trung Hỏa hợp Phúc Đăng Hỏa hay Sơn Đầu Hỏa
với Sơn Hạ Hỏa, hoặc Tích Lịch Hỏa với Thiên Thượng Hỏa. Về 4 mệnh Hỏa đầu cần
có thêm Mộc để đạt được lửa to cháy lớn. Còn hai Hỏa từ trên trời thì không cần
đến Mộc vẫn tạo được lưỡng Hỏa thành viên. Hỏa diệt khi Lư Trung, Phúc Đăng,
Sơn Đầu, Sơn Hạ Hỏa gặp nước là khắc nhập. Riêng Tích Lịch Hỏa, Thiên Thượng
Hỏa chỉ khắc Thiên Hà Thủy mà thôi.

Hành Thổ, lưỡng Thổ thành sơn chỉ có Lộ Bàng Thổ, Sa Trung Thổ hay Đại Trạch
Thổ hợp nhau không cần sự tiếp tay của những hành khác. 3 mệnh Thổ còn lại
không thể thành núi vì Thổ này rời rạc nhỏ bé, muốn thành núi phải nhờ Hỏa tiếp
tay diệt Mộc, tức lửa đốt cây thành đất. 3 mệnh Lộ Bàng, Sa Trung, Đại Trạch
Thổ nếu có Hỏa sẽ thêm tốt, công danh sự nghiệp sẽ phất càng cao thêm. Tính đến
Thổ liệt, cả 6 loại Thổ đều kỵ Mộc, tức khắc nhập [Mộc khắc Thổ], cây có thể
mọc khắp nơi trên mọi loại đất.
Có sách lại ghi: chỉ trừ Lộ Bàng Thổ, Đại Dịch Thổ và Sa Trung Thổ không sợ bị
Mộc khắc, nếu có Mộc thì càng tốt, cuộc sống cao sang, thi đậu dễ dàng. Các thứ
Thổ còn lại thì sợ Mộc khắc.
Ngoài Mộc, nhiều mệnh Thổ còn đại kỵ khi gặp các hành Thủy sau [dù khắc xuất
nhưng từ thứ hung sang đại hung]:
– Lộ Bàng Thổ và Đại Trạch Thổ gặp Giang Hà Thủy và Trường Lưu Thủy sẽ làm đất
lỡ lún.
– Sa Trung Thổ gặp Đại Khê Thủy hay Tuyền Trung Thủy là đất sói mòn.
– Thành Đầu Thổ, Bích Thượng Thổ, Ốc Thượng Thổ rất sợ Thiên Hà Thủy, làm cho
đất nhão nhoẹt đến hủy diệt.

Chủ Đề