Có nên bỏ án tử hình hay không

Thứ Ba, 06/08/2013, 09:34 [GMT+7]

(BNCTW) - Tử hình là chế tài hình sự nghiêm khắc nhất trong hệ thống hình phạt được áp dụng đối với những hành vi phạm tội đặc biệt nghiêm trọng. Thuật ngữ "hình phạt tử hình" trong tiếng Anh (capital punishment) có nguồn gốc từ tiếng Latinh là capitalis, có gốc từ là caput, có nghĩa là cái đầu, với hàm ý rằng đầu là bộ phận gắn liền với tính mạng, hình phạt làm mất đầu tức là tước bỏ tính mạng con người. Theo gốc từ Hán Việt, "tử hình" có nghĩa là hình phạt chết. Có một số định nghĩa khác nhau về hình phạt tử hình, song xét ở phương diện pháp lý, có thể hiểu hình phạt tử hình là việc tước bỏ tính mạng của con người theo bản án được tuyên bởi một Tòa án được lập ra một cách hợp pháp, nhằm trừng phạt người đó vì đã phạm một tội ác đặc biệt nghiêm trọng (Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội, Những điều cần biết về hình phạt tử hình, Nxb Lao động - Xã hội, 2010). Tuy nhiên, hình phạt tử hình có phải là biện pháp ngăn chặn tội phạm duy nhất có hiệu quả không? Nó có vi phạm quy định về quyền sống được ghi nhận trong Luật quốc tế về quyền con người và đi ngược lại với xu hướng tiến bộ trên thế giới hay không?

Có nên bỏ án tử hình hay không
 

Điều 3 Tuyên ngôn thế giới về quyền con người 1948 (UDHR) đề cập đến quyền sống là quyền đầu tiên và cơ bản nhất của con người. Khoản 1 Điều 6 Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (ICCPR, 1966) đã cụ thể hóa quyền này; thừa nhận mọi người đều có quyền được sống và được pháp luật bảo vệ, không ai có thể bị tước mạng sống một cách tùy tiện. Khoản 2 Điều này cũng quy định: "Ở những nước mà hình phạt tử hình chưa được xóa bỏ thì chỉ được phép áp dụng hình phạt này đối với những tội ác nghiêm trọng nhất, căn cứ vào luật pháp hiện hành tại thời điểm tội phạm được thực hiện và không được trái với những quy định của Công ước này…". Như vậy, mặc dù ghi nhận quyền sống là một trong những quyền cơ bản của tất cả mọi người, pháp luật quốc tế không cấm áp dụng hình phạt tử hình. Tuy nhiên, việc áp dụng hình phạt này ở mỗi quốc gia là khác nhau, tùy theo quan điểm về "tội phạm đặc biệt nghiêm trọng" của mỗi quốc gia.

Trên thế giới, luật pháp các quốc gia đã từng quy định hình phạt khắc nghiệt này cho rất nhiều tội phạm khác nhau (phản quốc, giết người, hiếp dâm, thông dâm…). Theo thời gian, phạm vi những tội danh bị áp dụng hình phạt tử hình trên thế giới ngày càng thu hẹp lại. Những tội có tính chất chính trị, tôn giáo hay tình dục… dần dần bị loại bỏ khỏi danh sách những tội danh có thể bị áp dụng hình phạt tử hình.

Hiện nay có 89 quốc gia trên thế giới đã hủy bỏ án tử hình, 28 quốc gia chưa xử tử người nào trong 10 năm qua và 9 quốc gia chỉ áp dụng án tử hình trong các trường hợp đặc biệt (như tội ác chiến tranh), 74 quốc gia vẫn còn áp dụng nó (Nguồn: https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BB%AD_h%C3%ACnh). Các quốc gia hủy bỏ án tử hình cho rằng tác dụng của hình phạt này với việc ngăn chặn tội phạm cũng giống như các loại hình phạt khác. Các cuộc khảo sát do Liên Hợp quốc thực hiện (năm 1988, 1996 và 2002) về mối quan hệ giữa hình phạt tử hình và tỷ lệ phạm tội ở nhiều quốc gia trên thế giới đã kết luận rằng: "Không tìm thấy những chứng cứ khoa học cho thấy việc thi hành án tử hình có tác dụng ngăn chặn tội phạm tốt hơn so với việc áp dụng hình phạt tù chung thân v.v..". Công trình nghiên cứu nổi tiếng nhất chứng minh hình phạt tử hình không có tác dụng vượt trội trong ngăn chặn tội phạm là của nhà tội phạm học Thorsten Sellin, công bố vào năm 1959. Trong công trình này, Thorsten Sellin khẳng định, hình phạt tử hình không có tác dụng ngăn chặn tội phạm hơn so với hình phạt tù chung thân. Ông cho rằng những kẻ phạm tội rất ít khi suy tính về hậu quả có thể phải gánh chịu trước khi thực hiện hành vi phạm tội, thậm chí còn tin rằng họ sẽ không bị bắt (AI, Death Penalty: Question and Answers http://www.amnesty.org/en/death-penalty). Do vậy, niềm tin về tác dụng đặc biệt trong việc răn đe tội phạm của hình phạt tử hình chủ yếu dựa trên sự suy đoán. Ngoài ra, nhiều nhà tội phạm học khác cũng cho rằng lập luận về tác dụng vượt trội trong phòng ngừa tội phạm của hình phạt tử hình còn mang nặng cảm tính và động cơ chính trị (ở các nước phương Tây, vấn đề duy trì hình phạt tử hình thường được giới chính trị gia nêu ra để khai thác tâm lý lo ngại tình trạng tội phạm của công chúng từ đó thu được nhiều phiếu bầu trong các cuộc bầu cử).

Những người phản đối hình phạt tử hình cũng cho rằng, sử dụng sự hành quyết để đáp trả hành động giết người là một sự trả thù và lặp lại hành động của kẻ phạm tội là không phù hợp với xã hội văn minh. Thêm vào đó, do hệ thống tư pháp hình sự không hoàn thiện nên luôn tồn tại nguy cơ kết án oan người vô tội và sai lầm này không thể khắc phục được nếu đã thi hành án.

Tuy nhiên, những nước duy trì hình phạt tử hình vẫn giữ nguyên quan điểm cho rằng hình phạt này là biện pháp có hiệu quả răn đe đặc biệt, không thể thay thế trong việc ngăn ngừa tội giết người cũng như nhiều loại tội phạm khác. Điển hình nhất là phương châm phòng, chống tội phạm của người Trung Quốc "sát nhất nhân, vạn nhân cụ" (giết một người để răn đe vạn người khác - Theo quan điểm này, cần áp dụng hình phạt tử hình cho những kẻ phạm tội ác nghiêm trọng như giết người để giúp những người khác nhận thức rõ đó là hành động sai trái sẽ mang lại những hậu quả thảm khốc cho kẻ phạm tội, từ đó ngăn ngừa người khác phạm tội ác tương tự)… Trên thực tế, đã có một số nghiên cứu đưa ra những số liệu thống kê ủng hộ tác dụng ngăn chặn vượt trội của hình phạt tử hình với tội giết người. Ví dụ, ở Anh, theo số liệu của Bộ Nội vụ nước này, tỷ lệ tội phạm giết người tăng lên gấp đôi kể từ khi hình phạt tử hình bị xóa bỏ. Ở Hoa Kỳ, từ năm 1993-1997, khi số bản án tử hình được tuyên và thi hành tăng thì tỷ lệ tội phạm giết người giảm 26%. Trong khi đó, những kẻ phạm các tội ác nghiêm trọng là những đối tượng rất nguy hiểm cho xã hội, khả năng tái phạm rất cao, nếu không sử dụng hình phạt tử hình thì xã hội vẫn còn nguy cơ bị đe dọa nếu họ vượt ngục thành công hoặc được phóng thích. Việc tước bỏ tính mạng của những kẻ phạm các tội ác nghiêm trọng là phù hợp với công lý "lấy mạng đền mạng" và cũng nhân đạo hơn so với hình phạt tù chung thân. Việc bị giam cầm cả đời hoặc một thời gian dài trong tù với những điều kiện sinh hoạt, quản chế khắc nghiệt và sự dằn vặt lương tâm đôi khi còn gây đau khổ cho kẻ phạm tội nhiều hơn so với việc bị kết án tử hình.

Tuy nhiên, quan điểm khác cho rằng, cho đến khi nào còn được sống, cho dù bị kết án tù chung thân, một người tù vẫn còn có hy vọng được tái hòa nhập cộng đồng, được giảm án, ân xá hay được giải tội. Việc thi hành án tử hình sẽ triệt tiêu những cơ hội này của họ. Thêm vào đó, hình phạt tử hình không chỉ gây đau đớn cho phạm nhân về thể chất khi bị hành quyết, mà còn khiến họ bị khủng hoảng tinh thần vô cùng nặng nề trong thời gian chờ đợi thi hành án. Bởi vậy, không thể nói là so với hình phạt tù chung thân, hình phạt tử hình có tính nhân đạo hơn. Trong khi còn nhiều tranh cãi về tính nhân đạo của hình phạt này so với tù chung thân thì có ý kiến cho rằng cần phải so sánh chi phí của hai loại hình phạt này. "Từ chối xem xét tác động của hình phạt tù chung thân không được ân giảm có nghĩa là ủng hộ hoặc khuyến khích một đạo luật mà buộc 25 người phải làm việc suốt đời ở nhà tù chỉ để bảo đảm là một người không bị hành quyết. Đây chính là tính thiếu thuyết phục trong quan điểm của những người phản đối hình phạt tử hình” (Xem Harvard Law Review, số 119 (6), tr.1838-1854, năm 2006).

Ở Việt Nam, xuất phát từ yêu cầu cải cách tư pháp, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, phù hợp với xu hướng chung trên thế giới, nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02-01-2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới đã quán triệt: "Các bộ, ngành có liên quan cần xem xét hai vấn đề lớn là hình thức thi hành án tử hình và hạn chế số lượng hình phạt tử hình trong cơ cấu hình phạt của Bộ luật hình sự”. Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02-6-2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 cũng tiếp tục nhấn mạnh quan điểm trên về hình phạt tử hình. Tại Kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XII, Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự năm 1999. Theo đó, việc giảm một số tội danh có thể bị kết án tử hình từ 29 điều khoản trong Bộ luật hình sự năm 1999 xuống 22 điều khoản cho thấy Việt Nam có cùng xu hướng chung quốc tế là giảm việc áp dụng hình phạt tử hình.

Trong tương lai, cùng với sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước, ý thức chấp hành pháp luật của người dân được nâng cao thì việc thu hẹp dần phạm vi áp dụng tiến tới loại bỏ hoàn toàn hình phạt tử hình ra khỏi đời sống xã hội là một xu hướng tất yếu. Mặc dù vậy, trong giai đoạn hiện nay, việc xóa bỏ hình phạt tử hình tại Việt Nam là vấn đề cần cân nhắc kỹ lưỡng trong bối cảnh diễn biến phức tạp của tình hình tội phạm, đặc biệt là những dạng tội phạm đặc biệt nguy hiểm như giết người, tội phạm ma túy… Điều này không chỉ đặt gánh nặng và gây sức ép với các cơ quan nhà nước trong việc phải tìm ra các biện pháp ngăn chặn tội phạm hiệu quả mà còn tác động đến tâm lý người dân trong việc ủng hộ việc áp dụng những hình phạt nghiêm khắc đối với tội phạm.

                                        Phương Thảo

(Ban Nội chính Trung ương)

;

15/05/2018

BÀN VỀ VẤN ĐỀ CÓ NÊN LOẠI BỎ MỨC ÁN TỬ HÌNH TRONG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM

Phạm Thị Lệ Quyên – Khoa Luật- ĐH Duy Tân.

          Hình phạt tử hình đã tồn tại trong Luật hình sự Việt Nam với cả ngàn năm lịch sử từ khi hình thành nhà nước, khi pháp luật chưa thành văn cho tới tận bây giờ. Dưới các triều đại phong kiến Việt Nam, hình phạt tử hình không những được coi là biểu tượng thể hiện uy quyền của nhà nước mà còn là phương tiện trả thù của người bị hại thông qua nhà nước đối với người phạm tội theo kiểu “nợ máu phải trả bằng máu”. [1]Vì vậy, hình phạt tử hình phù hợp với lòng dân, thỏa mãn đòi hỏi được trả thù và phù hợp tư tưởng đạo đức, lễ giáo của xã hội phong kiến.

           Bản án tử hình đối với một vài quốc gia trên thế giới, đặc biệt là các quốc gia Hồi Giáo được  xem như một lẽ tất yếu, một điều tự nhiên. Đa phần mọi người đều nghĩ rằng tội lỗi của những nhười phạm tội đều đáng để bị “giết”.   Xã hội cần tiến đến một nên văn minh, con người cần có một suy nghĩ về vấn đề này. Án tử hình suy cho cùng cũng là loại tên tội phạm ấy ra khỏi xã hội,  chúng ta đã thử làm hết cách để tách họ ra khỏi đời sống xã hội chưa hay chúng ta chọn lấy hình thức đơn giản, nhanh chóng nhất .

          Duy trì hay xóa bỏ hình phạt tử hình trong Luậthình sự là đề tài gây nhiều tranh cãi trên phạm vi toàn cầu. Tuy nhiên, xu hướng chung là hạn chế và tiến tới xóa bỏ hình phạt tử hình. Nhìn lại việc qui định hình phạt tử hình trong Luật hình sựnước ta từ 1945 đến nay cũng đã thể hiện khuynhhướng này. Nếu Bộ luật hình sự (BLHS) 1985(Bộ luật hình sự đầu tiên của Việt Nam) sau nhiềulần sửa đổi bổ sung còn 44 điều luật qui định hình phạt tử hình thì BLHS 1999 chỉ còn qui định hình phạt tử hình ở 29 điều luật. Trước yêu cầu cải cách tư pháp theo các Nghị quyết của Đảng, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS (năm2009) đã xóa bỏ hình phạt tử hình ở các điều luật qui định 8 tội phạm [2].

          Từ những quy định của pháp luật được áp dụng vào thực tế qua một khoảng thời gian dài như thế cho thấy: Việc thi hành án tử hình phần nào còn thể hiện sự bất lực của luật pháp đối với tình hình phạm tội. Chúng ta nên hướng đến kinh nghiệm ở các nước Châu Âu loại bỏ hình phạt tử hình và thực hiện một nhà nước Xã Hội Chủ Nghĩa công bằng văn minh “ Đề cao quyền con người” bởi những lý do:

Thứ nhất, bảo đảm tính nhân đạo

Hành vi nguy hiểm của cá nhân có thể cải tạo được bởi khi một cá nhân sinh ra, cá nhân đó chỉ có hành vi bản năng tự nhiên không nguy hại. chỉ khi cá nhân đó tham gia vào cộng đồng cá nhân đó mới từng bước hình thành hành vi có ý thức. Mà tất cả những hành vi có ý thức thì có thể cải tạo được[3].Vì vậy chúng ta cần xem lại môi trường tác động đến cá nhân đó

Nhà nước Việt Nam đang hướng tới nhà nước việt Nam xã hội chủ nghĩa đảm bảo quyền con người[4]. Chúng ta đang hướng tới nhà nước xã hội chủ nghĩa không phải hướng tới nhà nước phong kiến mang các hình thức thi hành man rợn “ giết người phải đền mạng” thì đây là chúng ta đang đi ngược với xã hội mà ta muốn hướng tới.

Hiện nay, đã có hơn 100 nước trên thế giới đã thực hiện việc bỏ án tử hình. Những nước còn lại trong đó có Việt Nam còn tồn tại án tử hình như là một biện pháp răn đe, quản lí xã hội. [5] Nước Mỹ các bang còn giữ án tử hình đều có tỷ lệ tội phạm giết người cao hơn 50% so với các bang đã bỏ án tử hình.

Án tử hình không thể chấp nhận được vì nó là một án phạt có tính chất phân biệt đối xử và chống lại một số tầng lớp dân chúng. Các tội thường là những kẻ mất cân bằng xuất thân từ các tầng lớp nghèo khổ. Ta cũng biết rằng tội phạm lớn hay nhỏ và các tội ác thường liên quan đến  những kẻ bỏ rơi, gặp nhiều khó khăn, những người không được học hành, thất   nghiệp. Cuối cùng, bản án tử hình là sự thú nhận thất bại của một xã hội đã không thể có các biện pháp phòng ngừa, bất lực để giải quyết vấn đề, nagnhf tư pháp đã chọn ra cách triệt tiêu nó đi. Sẽ không còn bất cứ cơ may mới hay họ không có khả năng để hối cải hay tái hòa nhập xã hội

Thứ hai, chi phí thực hiện tử hình cao

Chi phí cho một lần thi hành án tử hình từ 600-900 triệu đồng. Người phạm tội phải trải qua 3 mũi tiêm, chi phí cho 2 mũi ít nhất là 200 triệu đồng. Một sự thật hiển nhiên rằng, số lượng tội phạm ở Việt Nam chờ được tử hình tăng cao. Ước tính có khoảng 500 người đang chờ được thi hành án, trong đó một vài tù nhân đã làm đơn được tử hình sớm.[6] Trong khi đó nước ta là nước đang phát triển, việc chi trả cho việc sử dụng thuốc độc trong tử hình là bất khả thi (tốn một chi phí rất lớn). Thay vào đó nhà nước có thể áp dụng chi phí đó các an sinh xã hội, phúc lợi xã hội. Xã hội ổn định, an sinh và phúc lợi xã hội bảo đảm đời sống cho mọi tầng lớp nhân dân nhất là đối với những người có thu nhập thấp hoặc thất nghiệp.

Thứ ba, phù hợp với luật pháp quốc tế.

Hiện nay có tời 135 nước đã bãi bỏ án tử hình, 62 nước ẫn còn duy trì án tử hình ( trong đó có Việt Nam), thường là để trừng trị kẻ sát nhân. [7]Tuy nhiên, hầu hết các nước đang áp dụng án tử hình đều cho rằng là phải áp dụng bản án nặng nề nhất này để đảm bảo an ninh, an toàn cho cộng đồng. Còn các nước không duy trì án tử hình thì lại cho rằng tử hình là I phạm quyền sống của còn người. Cả hai bên đều có những lý lẽ riêng, nhưng thực tế rằng chỉ tồn tại khoảng 30% ở các quốc gia trên thế giới án tử hình, trong khi xuất phát điểm của tất cả các nước trên thế giới đều tồn tại hình phạt tử hình.Vậy suy cho cùng, đây là qui luật khách quan tất yếu của thời đại không thể chối từ. Vì vậy sớm hay muộn thì các quốc gia cũng phải bỏ án tử hình để phù hợp với đại đa số các nước đã bỏ nó, và thay vào đó là một hình thức thi hành khác.

Trên đây là ba nguyên nhân chính để lý giải cho việc nên bỏ án tử hình trong quy định của pháp luật Việt Nam. Khi bỏ án từ hình không có nghĩa không có mức phạt đối với những người phạm tội. Mà có thể áp dụng những biện pháp thay thế, tương tự như nhiều nước ngày nay  đã thay thế án tử hình bằng án chung thân không được khoan hồng.  Trong thời phong kiến, pháp luật cũng có quy định lưu đày biệt xứ cũng là một kiểu cách ly hoàn toàn chủ thể với cộng đồng. Như vậy, vừa có thể đảm bảo được tính nhân văn của xã hội chủ nghĩa vữa đảm bảo quyền sống của con người. Đồng thời cũng phù hợp với điều 27 bộ luật hình sự hình hành ở nước ta có qui định “Hình phạt không chỉ nhằm trừng trị người phạm tội mà còn giáo dục học trở thành người có ích cho xã hội, cso ý thức tuân theo pháp luật và các qui tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa, ngăn ngừa họ phạm tội mới.[8] Hình phạt còn nhằm giáo dục người khác tôn trong pháp luật, đâu tranh phòng ngừa và phòng chống tội phạm”. Từ đó, có thể thấy hình phạt không phải là trừng trị mà là giáo dục người phạm tội trở thành người có ích cho xã hội. Vì vậy, không có lý do gì mà hình phạt tử hình còn tồn tại trong một xã hội mà đề cao quyền con người như Việt Nam.

[1] Một số suy nghĩ về hình phạt tử hình trong Luật hình sự Việt Nam, Nguyễn Ngọc Chí,Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học 28 (2012) 42‐48.

[2] Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự năm 1999 ngày 19/6/2009.

[3] https://danluat.thuvienphapluat.vn/nen-bo-an-tu-hinh-tai-viet-nam-75271.aspx

[4] Điều 19 Hiến pháp 2013 Mọi người có quyền sống” Tính mạng con người được pháp luật bảo hộ. Không ai bị tước đoạt tính mạng trái luật”.

[5] Thiện Tâm, Những quốc gia nào từng bỏ án tử hình, 29/03/2016, http://petrotimes.vn/nhung-quoc-gia-nao-tung-bo-an-tu-hinh-401141.html

[6] Dự án “Khảo sát tác động ngăn ngừa của một số hình phạt trong Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999” của Trung tâm Tội phạm học thuộc KhoaLuật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2011.

[7] https://thuvienphapluat.vn/tintuc/vn/thoi-su-phap-luat/thoi-su/-10004/an-tu-hinh-da-duoc-135-nuoc-bai-bo

[8] Phạm Thị Hồng Đào - Văn phòng luật sư Thạnh Hưng, Một số quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 cần được hoàn thiện, http://moj.gov.vn/UserControls/News/pFormPrint.aspx?UrlListProcess=/qt/tintuc/Lists/NghienCuuTraoDoi&ListId=75a8df79-a725-4fd5-9592-517f443c27b6&SiteId=b11f9e79-d495-439f-98e6-4bd81e36adc9&ItemID=2078&SiteRootID=b71e67e4-9250-47a7-96d6-64e9cb69ccf3