Ý nghĩa của sự gắn thuốc vào protein huyết tương

  • Bởi : Nguyễn thanh tú
  • 20/01/2018
  • - Chuyên mục : Tin Tức Sức Khỏe

  • Trong máu thuốc tồn tại hai dạng: dạng tự do và dạng liên kết với protein huyết tương. Khả năng gắn thuốc vào với protein huyết tương mạnh hay yếu tùy thuộc vào bản chất của từng loại thuốc
  • thuốc gắn vào protein huyết tương mạnh, cao [ 75-98%]
  • thuốc gắn vào protein huyêt tương thấp [1-8%]
  • thuốc gắn vào protein huyết tương ở mức trung bình
  • Giữa dạng thuốc liên kết với protein huyết tương và dạng thuốc tự do luôn ở trạng thái cân bằng động
  • Thuốc ở dạng tự do mới gây được tác dụng, vì vậy tỷ lệ thuốc dạng tự do càng nhiều thì thuốc tác dụng càng mạnh
  • Thuốc ở dạng liên kết với protein huyết tương chưa có tác dụng ngay, khi thuốc ở dạng tự do giảm thuốc ở dạng liên kết sẽ chuyển hóa thành dạng tự do và khi đó thuốc mới có tác dụng.
  • Thuốc nào có tỷ lệ liên kết nhiều với protein huyết tương thì thuốc đó sẽ tồn tai lâu hơn trong cơ thể và tác dụng kéo dài hơn và sự đào thải thuốc ra khỏi cơ thể sẽ chậm hơn, từ từ.
  • Tình chất lý hóa của thuốc
  • Lứa tuổi, ví dụ ở trẻ sơ sinh khả năng liên kết với protein huyết tương giảm do chức năng tổng hợp protein ở gan còn hạn chế
  • Trạng thái bệnh lý, ví dụ bệnh về gan, khả năng tổng hợp protein huyết tương giảm, khả năng liên kết thuốc với protein giảm
  • Tỷ lệ liên kết thuốc với protein huyết tương còn ảnh hưởng đến tương tác thuốc. Thuốc có ái lực mạnh với protein huyết tương hơn sẽ đẩy thuốc có ái lực yếu hơn với protein huyết tương ra khỏi vị trí liên kết, và làm tăng tỷ lệ dạng tự do của thuốc liên kết yếu đó , có thể gây tăng tác dụng và tăng độc tính. Điều này có ý nghĩa đối với thuốc có tỷ lệ liên kết với protein huyết tương cao và có chỉ số điều trị hẹp.

Sau khi vào máu, thuốc sẽ được chuyển tới các tổ chức. Phần lớn các thuốc có sự phân bố chọn lọc ở một số tổ chức nhất định

Thí dụ: Digitalin phân bố nhiều ở cơ tim; Gardenal phân bố nhiều vào tế bào thần kinh, gan, thận, khả năng phân bố thuốc phụ thuộc vào nhiều yếu tố:

  • Lượng máu đến tổ chức nhiều hay ít
  • Đặc tính của các tổ chức khác nhau
  • Tính thấm của hệ thống mao mạch

Thí dụ màng nhau thai có cấu trúc mỏng, diện tích trao đổi rộng, lưu lương máu qua nhau thai cao, do đó khi mẹ mang thai dùng thuốc có khả năng gây độc cho thai nhi. Vì vậy khi dùng thuốc cho mẹ mang thai cần phải hết sức thận trọng hay cấm sử dụng một số thuốc ảnh hưởng không tốt đễn thai nhi.

copy ghi nguồn://healthyeatingforums.com/

link bài viết: Phân bố thuốc trong cơ thể

phân bố thuốc trong cơ thể

Sau khi được hấp thu vào máu thuốc có thể tồn tại dưới dạng tự do, một phần liên kết với protein huyết tương hoặc một số tế bào máu, ngoài ra đối với một số ” ít thuốc có thể một phần bị thuỷ phân ngay trong máu. Từ máu thuốc được vận chuyển đến các tổ chức khác nhau của cơ thể.

phân bố thuốc trong cơ thể

Liên kết thuốc với protein huyết tương

Liên kết thuốc với protein huyết tương có ảnh hưởng rất lớn đến sự phân bô” thuốc trong các tổ chức do đó có ý nghĩa quan trọng đôi với tác dụng của thuốc. Trong đa sô” các trường hợp protein huyết tương liên kết vói thuốc chủ yẽu là albumin, nhưng cũng có một số trương hợp là giobulin [thường ià các chất có nguồn gô”c nội sinh như các corticoid, insulin, testosteron, estrogen, vitamin D v.v…]. Tùy theo cấu trúc hoá học của thuốc, liên kết thuốc với protein có thể theo những cơ chế khác nhau như liên kết ion, liên kết hydrogen, liên kết lưỡng cực v.v… Liên kết thuốíc với protein huyết tương thường có tính thuận nghịch, chỉ có rất ít trường hợp là không thuận nghịch [các trường hợp liên kết đồng hoá trị đô”i với các dẫn chất alkyl kìm hãm tê bào]. Ở dạng liên kết thuốc không có tác dụng [vì phân tử lớn không đi qua được thành mao mạch đến các tổ chức], chỉ ở dạng tự do mới có tác dụng. Giữa dạng tự do và dạng liên kết luôn luôn có sự cân bằng động. Khi nồng độ thuốc ở dạng tự do trong huyết tương giảm, thuốc từ dạng liên kết sẽ được giải phóng ra dưói dạng tự do. Vì thế có thể coi dạng liên kết của thuốc với protein huyết tương là phần dự trữ của thuốc trong cơ thể. Thuốc + Protein < Protein — Thuốc Mặc dù liên kết thuốc với protein huyết tương không có tính đặc hiệu nhưng do vị trí liên kết có giới hạn nhất định nên khi dùng đồng thời hai thuốc có thể có cạnh tranh liên kết, đặc biệt khi hai thuốc có sự chênh lệch lớn về ái lực [affmity] đối với protein huyết tương. Trong thực tế lâm sàng đã có những trường hợp tai biến xảy ra do cạnh tranh liên kết protein huyết tương. Ví dụ hạ đường huyết đột ngột do dùng đồng thòi tolbutamid vối Phenylbutazon. Phenylbutazon có khả năng liên kết cao với protein huyết tương [98%] nên đã tranh chấp protein, dẫn đến nồng độ tolbutamid ở dạng tự do cao hơn bình thường gây hạ đường huyết đột ngột. Trường hợp chảy máu do dùng đồng thời các thũốc chống đông nhốm coumaroỉ vối các thuốc có ái lực cao với protein huyết tương cũng theo cơ chế tương tự. Tuy nhiên về cơ chế tăng cường tác dụng chống đông máu của nhóm thuốc chông viêm mối đây đang có những ý kiến khác nhau. Trong một số trường hợp bệnh lý hoặc sinh lý, số lượng và chất lượng protein huyết thay đổi sẽ làm thay đổi sự gắn thuốc vào protein.

Khi kết hợp với protein, các thuốc là bán kháng nguyên [hapten] trở thành kháng nguyên hoàn toàn có thể gây dị ứng.

 Phân bố thuốc đến các tổ chức

Thuốc ở dạng tự do trong huyết tương sẽ đi qua thành mao mạch để đến các tổ chức. Sự phân bố thuốc đến các tổ chức phụ thuộc vào nhiều yếu tô”: – Cấu trúc hoá học và lý hoá tính của thuốc [kích thước phân tử, hệ số phân bố lipid/nước, ái lực của thuốc với protein của tổ chức v.v…].Ví dụ carbon monocid có ái lực cao với hem nên nó được phân bố chủ yếu trong hồng cầu [gắn với hemoglobin] và globin cơ [myoglobin]; thủy ngân phân bố nhiều trong các tổ chức giàu keratin [móng tay, tóc, da] v.v… – Lưu lượng máu đến tổ chức [bảng 1.1], tính thấm của màng, hàm lượng lipid ở tổ chức v.v… – Trong trường hợp bệnh lý quá trình phần bô” thuốc có thể bị thay đổi do sự rối loạn của một sô” chức năng sinh lý nào đó của cơ thể.

Một số tổ chức do có những đặc điểm riêng về cấu trúc nên sự phân bố thuốc ở đây có những nét khác biệt cần phải tính đến trong thực tế lâm sàng.

Phân bố thuốc vào não và dịch não tủy

Bình thường ở ngưòi trưởng thành thuốc khó thấm qua mao mạch để vào não hoặc dịch não tủy vì chúng được bảo vệ bởi lớp “hàng rào máu – não” hoặc “hàng rào máu – dịch não tủy”. Các tế bào nội mô của mao mạch não và dịch não tuỷ được gắn kết khít với nhau không có các khe [gap] như mao mạch của các tổ chức khác. Ngoài ra các mao mạch não còn được bao bọc bởi lốp tê bào hình sao dày đặc nên các chất có nguồn gốc ngoại sinh khó thấm vào não và dịch não tủy. Tuy nhiên, những chất tan trong dầu mõ có thể thấm qua các “hàng rào” này để vào não hoặc dịch não tủy. Các acid amin, glucose, và các chất dinh dưỡng khác được chuyển vào hệ thần kinh trung ương nhờ các chất vận chuyên [carrier]. Khi tổ chức thần kinh trung ương bị viêm, “hàng rào bảo vệ” bị tổn thương, một
hàm lượng myelin ở tổ chức thần kinh còn thấp nên thuốc cũng dễ xâm nhập vào não hơn.

Phân bố thuốc qua rau thai

Thuốc cũng như các chất dinh dưỡng từ máu mẹ vào máu thai nhi phải qua “hàng rào rau thai” bao gồm lớp hợp bào lá nuôi, nhung mao đệp và nội mô các mao mạch rốn. “Hàng rào rau thai” rất mỏng, bề dày vào khoảng 25pm [cuối thời kỳ mang thai chỉ dày 2- 6pm], diện tích trao đổi lớn [50m2], lưu lượng máu Cao và có nhiều chất vận chuyển nên nhiều thuốc từ mẹ qua rầu thai vào thai nhi. Vì vậy trong thời kỳ mang thai người mẹ cần thận trọng khi dùng thuốc để tránh những ảnh hưởng xấu đến thai nhi. Đặc biệt trong 12 tuần lễ đầu của thai kỳ một sô” thuốc có thể gây độc cho phôi hoặc có thể gây quái thai như thalidomid, các chất chông chuyển hoá của tế bào… Đến thời điểm sinh đẻ, rau thai đã biến chất, nhiều thuốc dùng cho mẹ có thể chuyển sang con dễ dàng, gây độc cho trẻ sơ sinh: thuốc mê, thuốc giảm đau gây ngủ [morphin, pethidin…], các thuốc an thần, chống lo âu thuộc dẫn chất benzodiazepin…

copy ghi nguồn : daihocduochanoi.com

Link tại : Quá trình phân bố thuốc trong dược động học

Video liên quan

Chủ Đề