Vi dụ về giao dịch dân sự vô hiệu do người xác lập không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình

 Một chủ thể được quyền trực tiếp tham gia một quan hệ pháp luật khi có đầy đủ năng lực chủ thể, được tạo thành bởi năng lực pháp luật và năng lực hành vi. Năng lực pháp luật gắn liền với quyền của chủ thể [chủ thể có được phép thực hiện quyền đó hay không] chứ không gắn với khả năng thực hiện quyền đó. Không có năng lực pháp luật, vì vậy, được hiểu là một chủ thể không được phép làm một việc nào đó, kể cả thông qua người đại diện. Nói cách khác, không có năng lực pháp luật thực chất là trường hợp pháp luật không cho phép một chủ thể được thực hiện một số quyền nhất định. Cho nên, việc xử lý những trường hợp không có năng lực pháp luật chính là việc xử lý nội dung hợp đồng vi phạm điều cấm của pháp luật theo Điều 122 khoản 2 BLDS. Đó là lý do Điều 122 khoản 1 chỉ quy định về điều kiện năng lực hành vi.

 1. Cá nhân tham gia giao kết hợp đồng không có năng lực hành vi.

   [i] Người chưa thành niên:

luat su hinh su

   Đối với người chưa thành niên, pháp luật có quy định các trường hợp cụ thể sau:

luật sư hình sự

   - Người chưa thành niên dưới 6 tuổi được coi là không có năng lực hành vi, vậy mọi giao dịch của trẻ em dưới 6 tuổi có thể vô hiệu vì người giao kết không có năng lực hành vi.

luat su

   - Người chưa thành niên từ đủ 6 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi được coi là có “năng lực hành vi một phần” vì chỉ được phép tự mình tham gia những giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi, còn đối với các giao dịch khác, phải được sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật. Như vậy, các giao dịch không nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày mà không được người đại diện theo pháp luật đồng ý có thể vô hiệu vì người giao kết không có năng lực hành vi.

luật sư

   - Người chưa thành niên từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi, nếu có tài sản riêng đủ để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ được phép tự mình xác lập, thực hiện các giao dịch, trừ những giao dịch mà pháp luật quy định phải có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật, chẳng hạn việc lập di chúc phải được sự đồng ý của cha, mẹ hoặc người giám hộ. Như vậy, trong trường hợp này, chỉ các giao dịch mà pháp luật quy định phải có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật mới có thể vô hiệu vì lý do người giao kết không có năng lực hành vi.

van phong luat su

   [ii] Người mất năng lực hành vi dân sự:

văn phòng luật sư

Đối với các giao dịch do người mất năng lực hành vi dân sự giao kết, theo yêu cầu của người đại diện theo pháp luật của người này, Tòa án tuyên giao dịch đó vô hiệu. Một người như thế nào bị coi là mất năng lực hành vi? Điều 22 BLDS quy định thủ tục một người bị coi là mất năng lực hành vi như sau: theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan, Tòa án ra quyết định tuyên bố mất năng lực trên cơ sở kết luận của tổ chức giám định có thẩm quyền. Vậy, những giao dịch mà người mất năng lực hành vi giao kết trước khi có quyết định tuyên bố mất năng lực hành vi có thể vô hiệu không? Theo án lệ một số nước, trong trường hợp này, người đại diện cho người mất năng lực hành vi chỉ cần đưa ra bằng chứng chứng tỏ vào thời điểm giao kết, sự mất năng lực hành vi hoặc được biểu hiện một cách hiển nhiên, hoặc được phía bên kia biết mà không cần phải viện dẫn chứng cứ trực tiếp [giấy giám định, kết luận của bác sỹ…]. BLDS dành Điều 133 để giải quyết vấn đề này, những người vào thời điểm giao kết một giao dịch dân sự không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình thì có thể yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch vô hiệu.

thue luat su

   [iii] Người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự:

thuê luật sư

   Các giao dịch do người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự cũng có thể bị Tòa án   tuyên vô hiệu theo yêu cầu của người đại diện của người này.

luat su thua ke

2. Đối với pháp nhân, tổ chức không có tư cách pháp nhân

luật sư thừa kế

   Pháp nhân, tổ chức không có tư cách pháp nhân giao kết, thực hiện các giao dịch thông qua người đại diện. Giá trị pháp lý, về phương diện chủ thể của các giao dịch do pháp nhân, tổ chức giao kết sẽ được xem xét trong nội dung Đại diện sau đây:

luật sư ly hôn

  3. Vấn đề đại diện

luat su ly hon

Cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác [người được đại diện] có thể xác lập, thực hiện giao dịch dân sự thông qua người khác [người đại diện]. Người được đại diện chỉ có thể bị ràng buộc với giao dịch do người khác đại diện thiết lập trong những điều kiện sau đây:

tim luat su gioi

   [i] Thứ nhất, về mặt khách quan, người đại diện phải có thẩm quyền đại diện. Thẩm quyền này có thể do pháp luật quy định [đại diện theo pháp luật] hoặc do các bên thỏa thuận [đại diện theo ủy quyền]. Vì vậy, một bên trong hợp đồng sẽ không bị ràng buộc bởi hợp đồng này nếu nó được giao kết, thực hiện thông qua một người mang danh đại diện trong khi trên thực tế người này không có thẩm quyền đại diện cho họ.

tìm luật sư giỏi

   [ii] Thứ hai, về mặt chủ quan, người đại diện phải hành động nhân danh người đại diện chứ không phải nhân danh chính mình.

   [iii] Cuối cùng, người đại diện phải có đủ năng lực hành vi để có thể thể hiện chính xác ý chí của người được đại diện, trừ một số trường hợp người đủ 15 đến dưới 18 tuổi được phép đại diện.

   Như vậy, về nguyên tắc, người được đại diện chỉ bị ràng buộc bởi giao dịch do người đại diện xác lập, thực hiện trong phạm vi thẩm quyền đại diện. Vậy, số phận của những giao dịch do người không có thẩm quyền đại diện hoặc vượt quá thẩm quyền đại diện xác lập, thực hiện sẽ như thế nào? Liệu những giao dịch này có vô hiệu không? Xuất phát từ mục đich bảo vệ bên thứ ba ngay tình, BLDS cho rằng, về nguyên tắc, giao dịch do người không có thẩm quyền đại diện vẫn phát sinh hiệu lực giữa bản thân người này với người giao kết phía bên kia, trừ trường hợp phía bên kia biết hoặc buộc phải biết về việc không có thẩm quyền đại diện. Tương tự như vậy đối với  trường hợp vượt quá thẩm quyền đại diện, người đại diện phải chịu trách nhiệm đối với phần vượt quá, trừ trường hợp phía bên kia biết hoặc buộc phải biết việc vượt quá thẩm quyền.

   BLDS cũng mở ra một hướng khác để bảo vệ bên thứ ba ngay tình. Người đại diện sẽ bị ràng buộc bởi giao dịch không đúng thẩm quyền hoặc vượt quá thẩm quyền nếu có bằng chứng chứng tỏ người này đã đồng ý hoặc biết mà không phản đối nội dung giao dịch. Vậy, những hành vi nào có thể coi là hành vi “đồng ý hoặc biết mà không phản đối”? Chúng tôi cho rằng, hành vi đồng ý không nhất thiết phải được thể hiện bằng văn bản [như việc người đại diện theo pháp luật sau đó đã cấp giấp ủy quyền, gửi công văn thông báo tiến độ thực hiện hợp đồng…] mà có thể được suy đoán thông qua một số hành vi, chẳng hạn như việc các bên đã thực hiện hợp đồng hoặc hưởng lợi ích mà hợp đồng mang lại.

Bài cùng chủ đề

Thời điểm giao kết và có hiệu lực của Hợp đồng 

Hợp đồng vô hiệu do người giao kết không có năng lực hành vi 

Hiệu lực hợp đồng và hợp đồng vô hiệu

Hợp đồng vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội

Hợp đồng vô hiệu do bị nhầm lẫn, lừa dối, đe dọa

Đề nghị giao kết hợp đồng và giá trị pháp lý

Kỹ năng soạn thảo hợp đồng

Kỹ năng soạn thảo hợp đồng thương mại

Kỹ năng đàm phán hợp đồng

Biện pháp xử lý vi phạm hợp đồng

Khi tham gia giao dịch dân sự ngoài hợp đồng giao dịch dân sự, nội dung thỏa thuận giao dịch dân sự thì có một vấn đề quan trọng cần lưu ý đó chính là chủ thể giao dịch dân sự có đủ khả năng giao dịch theo quy định của pháp luật hay không, chẳng hạn như việc các bên giao dịch dân sự do người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi đối với chủ thể khác thì có được phép giao dịch hay không? Và pháp luật quy định như thế nào về Giao dịch dân sự do người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi? Dưới đây chúng tôi xin giải đáp các thắc mắc nêu như trên.

Cơ sở pháp lý:

Bộ Luật Dân Sự 2015

Luật sư tư vấn luật trực tuyến miễn phí qua tổng đài: 1900.6568

1. Giao dịch dân sự do người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi

Năng lực hành dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự. Người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi là một đối tượng mới được quy định trong Bộ luật dân sự 2015.

“Điều 23. Người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi

1. Người thành niên do tình trạng thể chất hoặc tinh thần mà không đủ khả năng nhận thức, làm chủ hành vi nhưng chưa đến mức mất năng lực hành vi dân sự thì theo yêu cầu của người này, người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần, Tòa án ra quyết định tuyên bố người này là người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi và chỉ định người giám hộ, xác định quyền, nghĩa vụ của người giám hộ.

2. Khi không còn căn cứ tuyên bố một người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi thì theo yêu cầu của chính người đó hoặc của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi”.

Như vậy, vấn đề có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi cũng giống như vấn đề mất năng lực hành vi dân sự đều chỉ đặt ra đối với các chủ thể đã thành niên, tức là người đã đủ 18 tuổi. Sự xuất hiện của chủ thể có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi kéo theo sự xuất hiện của một số trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu như sau:

Xem thêm: Giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo theo Bộ luật dân sự 2015

* Giao dịch dân sự vô hiệu do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện

– Khi giao dịch dân sự do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi hoặc người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện thì theo yêu cầu của người đại diện của người đó, Tòa án tuyên bố giao dịch đó vô hiệu nếu theo quy định của pháp luật giao dịch này phải do người đại diện của họ xác lập, thực hiện hoặc đồng ý, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này.

– Giao dịch dân sự của người quy định tại khoản 1 Điều này không bị vô hiệu trong trường hợp sau đây:

– Giao dịch dân sự chỉ làm phát sinh quyền hoặc chỉ miễn trừ nghĩa vụ cho người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự với người đã xác lập, thực hiện giao dịch với họ;

– Giao dịch dân sự được người xác lập giao dịch thừa nhận hiệu lực sau khi đã thành niên hoặc sau khi khôi phục năng lực hành vi dân sự.

Giao dịch dân sự vô hiệu do người xác lập không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình: Người có năng lực hành vi dân sự nhưng đã xác lập giao dịch vào đúng thời điểm không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình thì có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự đó là vô hiệu.

Các quy định về người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi là điểm mới của Bộ luật dân sự 2015 so với Bộ luật dân sự 2005.

2.  Căn cứ xác định người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi

Các căn cứ để xác định một người nào đó có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi theo quy định của Bộ luật dân sự 2015 căn cứ vào các điều kiện cụ thể như sau:

Xem thêm: Giao dịch dân sự là gì? Các đặc điểm của giao dịch dân sự?

Thứ nhất đó là xét về khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của họ thì người thành niên do tình trạng thể chất hoặc tinh thần mà không đủ khả năng nhận thức, làm chủ hành vi nhưng chưa đến mức mất năng lực hành vi dân sự và có yêu cầu của người này, người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan

Thứ hai, căn cứ dựa trên kết luận giám định y khoa về mức độ khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi của họ.

Thứ ba đó là dựa vào quyết định của Tòa án khi Tòa án tuyên bố người này có khó khăn trong nhận thức và khó khăn trong việc làm chủ hành vi  và chỉ định người giám hộ, xác định quyền, nghĩa vụ của người giám hộ.

Như vậy một người chỉ được coi là có khó khăn trong nhận thức làm chủ hành vi khi có quyết định tuyên bố của tòa án dựa trên yêu cầu của người đó hoặc người có quyền và lợi ích liên quan và có kết luận của cơ sở kết luận giám định pháp y.

3. Pháp luật quy định như thế nào về giám hộ cho người có khó khăn trong nhận thức làm chủ hành vi

Như chúng ta đã biết thì giám hộ cho một người nào đó chính là việc cá nhân, pháp nhân được luật quy định, được Ủy ban nhân dân cấp xã cử, được Tòa án chỉ định hoặc được người có đầy đủ năng lực hành vi chỉ định trong trường hợp họ sẽ ở trong tình trạng được giám hộ để thực hiện việc giám hộ cho họ theo quy định của pháp luật để có thể thực hiện việc chăm sóc, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi của họ. Người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi sẽ bị hạn chế trong việc thực hiện giao dịch dân sự bởi vì mọi giao dịch của họ đều được thông qua người đại diện hợp pháp của họ được Tòa án chỉ định. Theo quy định tại khoản 4 điều 54 Bộ luật dân sự 2015 thì người được chỉ định làm người đại điện theo pháp luật của người có khó khăn về nhận thức và làm chủ hành vi bao gồm các trường hơp cụ thể đó là:

1. Trường hợp vợ là người có khó khăn trong nhận thức làm chủ hành vi thì chồng là người giám hộ; nếu chồng là người có khó khăn trong nhận thức làm chủ hành vi thì vợ là người giám hộ.

2. Trường hợp cha và mẹ đều có khó khăn trong nhận thức làm chủ hành vi hoặc một người có khó khăn trong nhận thức làm chủ hành vi, còn người kia không có đủ điều kiện làm người giám hộ thì người con cả là người giám hộ; nếu người con cả không có đủ điều kiện làm người giám hộ thì người con tiếp theo có đủ điều kiện làm người giám hộ là người giám hộ.

3. Trường hợp người thành niên có khó khăn trong nhận thức làm chủ hành vi chưa có vợ, chồng, con hoặc có mà vợ, chồng, con đều không có đủ điều kiện làm người giám hộ thì cha, mẹ là người giám hộ.

Xem thêm: Giao dịch dân sự có điều kiện là gì? Ví dụ về giao dịch dân sự có điều kiện

Theo quy định chúng tôi đưa ra như trên thì trong các trường hợp không có người giám hộ nêu trên thì Tòa án chỉ định người giám hộ hoặc đề nghị một pháp nhân thực hiện việc giám hộ theo quy định, tuy nhiên cần đáp ứng đủ các điều kiện theo quy định:

– Trong các trường hợp  giám hộ cho cá nhân nào đó mà họ có khó khăn trong nhận thức và có khó khăn trong việc làm chủ hành vi của mình thì người giám hộ phải có các điều kiện cụ thể như phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ theo quy định của pháp luật và ngoài ra còn có một điều kiện rất cần thiết đó chính là có tư cách đạo đức tốt và các điều kiện cần thiết để thực hiện quyền, nghĩa vụ của người giám hộ, không thuộc các trường hợp người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc người bị kết án nhưng chưa được xóa án tích về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của người khác, không phải là người bị Tòa án tuyên bố hạn chế quyền đối với con chưa thành niên.

– Đối với việc xác định người giám hộ cho người có khó khăn trong nhận thức làm chủ hành vi thì xét trên tổng thể thì giám hộ là việc cá nhân, pháp nhân được luật quy định, được Ủy ban nhân dân cấp xã cử, được Tòa án chỉ định hoặc do người có đầy đủ năng lực hành vi dân sự chỉ định người giám hộ khi họ ở tình trạng cần được giám hộ. Ngoài ra đối với các trường hợp giám hộ cho người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi thì phải được sự đồng ý của người đó nếu họ có năng lực thể hiện ý chí của mình tại thời điểm yêu cầu. Nếu không, người giám hộ của người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi do Tòa án chỉ định trong số những người giám hộ của người mất năng lực hành vi dân sự. Trường hợp không có người giám hộ theo cả hai quy định trên, Tòa án chỉ định người giám hộ hoặc đề nghị một pháp nhân thực hiện việc giám hộ.

Trên đây là thông tin chúng tôi cung cấp về nội dung Giao dịch dân sự do người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi và các thông tin pháp lý khác dựa trên quy định của pháp luật hiện hành.

Video liên quan

Chủ Đề