Văn hoá Phùng Hưng là gì

Chi tiết Chuyên mục: Bài 3: Cuộc đấu tranh của giai cấp tư sản chống phong kiến thời hậu kì trung đại ở châu Âu

    * Nguyên nhân xuất hiện phong trào Văn hóa Phục hưng:

    - Trong thời hậu kỳ trung đại, bộ mặt kinh tế Tây Âu có nhiều thay đổi, quan hệ sản xuất Tư bản chủ nghĩa hình thành cùng với sự tiến bộ của khoa học kĩ thuật.

    - Những quan điểm lỗi thời của xã hội phong kiến, hệ tư tưởng khắt khe của Giáo hội Thiên chúa đã kìm hãm sự phát triển của giai cấp tư sản.

    - Giai cấp tư sản có thế lực về kinh tế, song chưa có địa vị về mặt xã hội tương ứng và muốn xoá bỏ chướng ngại phong kiến.

    - Trong khi đó phong trào cải cách tôn giáo, cuộc đấu tranh của nông dân diễn ra sôi nổi cũng là hậu thuẫn cho giai cấp tư sản chống lại phong kiến.

    * Nội dung tư tưởng của phong trào Văn hóa Phục hưng:

    - Phê phán xã hội phong kiến và Giáo hội.

    - Đề cao giá trị con người.

    - Đề cao khoa học tự nhiên.

    - Xây dựng thế giới quan duy vật tiến bộ.

[Nguồn: Bài 1 trang 10 sgk Lịch Sử 7:]

Phùng Hưng[2][3][4] [chữ Hán: 馮興; 746-789[1]/791[5]/802] tự Công Phấn [功奮], hiệu Đô Quân [都君], là lãnh tụ một cuộc nổi dậy chống lại sự đô hộ của nhà Đường thời Bắc thuộc lần thứ ba [602–905] trong lịch sử Việt Nam.

Bố Cái Đại Vương
布盖大王
Vua Việt Nam [chi tiết...]

Thời tiền sử

Hồng Bàng

An Dương Vương

Bắc thuộc lần I [207 TCN – 40]
Nhà Triệu [207 – 111 TCN]
Hai Bà Trưng [40 – 43]
Bắc thuộc lần II [43 – 541]
Khởi nghĩa Bà Triệu
Nhà Tiền LýTriệu Việt Vương [541 – 602]
Bắc thuộc lần III [602 – 905]
Mai Hắc Đế
Phùng Hưng
Tự chủ [905 – 938]
Họ Khúc
Dương Đình Nghệ
Kiều Công Tiễn
Nhà Ngô [938 – 967]
Loạn 12 sứ quân
Nhà Đinh [968 – 980]
Nhà Tiền Lê [980 – 1009]
Nhà Lý [1009 – 1225]
Nhà Trần [1225 – 1400]
Nhà Hồ [1400 – 1407]
Bắc thuộc lần IV [1407 – 1427]
Nhà Hậu Trần
Khởi nghĩa Lam Sơn
Nhà Hậu Lê
Nhà Lê sơ [1428 – 1527]

trung
hưng
[1533 – 1789]
Nhà Mạc [1527 – 1592]
Trịnh–Nguyễn
phân tranh
Nhà Tây Sơn [1778 – 1802]
Nhà Nguyễn [1802 – 1945]
Pháp thuộc [1887 – 1945]
Đế quốc Việt Nam [1945]
Chiến tranh Đông Dương [1945 – 1975]
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
Quốc gia Việt Nam
Việt Nam Cộng hòa
Cộng hòa Miền Nam Việt Nam
Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam [từ 1976]

Xem thêm

  • Vua Việt Nam
  • Nguyên thủ Việt Nam
  • Các vương quốc cổ
  • Niên biểu lịch sử Việt Nam
sửa

Phùng Hưng nối nghiệp cha và đã trở thành Hào trưởng đất Đường Lâm. Cho tới nay dân gian vẫn còn lưu truyền câu chuyện ông dùng mưu kế giết hổ dữ mang lại bình yên cho làng xóm.

Việt Nam thời thuộc Đường gọi là An Nam đô hộ phủ, khi đó đang nằm dưới ách cai trị hà khắc của bọn quan đô hộ. Các quan đô hộ nhà Đường ra sức vơ vét của cải của người dân Việt Nam, bắt người dân Việt phải đóng sưu cao thuế nặng khiến lòng người ngày càng căm phẫn.

Cao Chính Bình, Hiệu úy châu Vũ Định [miền Việt Bắc] giúp Kinh lược sứ An Nam là Trương Bá Nghi đánh bại được cuộc xâm lược của quân Chà Và [Java] ở Chu Diên, sau đó được cử làm đô hộ An Nam. Chính Bình ra sức vơ vét của cải của nhân dân, đánh thuế rất nặng.

Sách Việt điện u linh chép rằng: Giữa niên hiệu Đại lịch nhà Đường [766–779], nhân An Nam có loạn, anh em Phùng Hưng đem quân đi tuần các ấp lân cận, đánh đâu được đấy. Phùng Hưng đổi tên là Cự Lão hiệu là Đô Quân, Hải cũng đổi tên là Cự Lực, hiệu là Đô Bảo. Phùng Hưng dùng kế của người Đường Lâm là Đỗ Anh Hàn đem binh tuần hành mấy châu Đường Lâm, Trường Phong tất cả đều quy thuận, uy danh chấn động, muốn đánh lấy Đô hộ phủ.[3]

Đại Việt Sử Ký toàn thư ghi chép, Phùng Hưng đem quân đánh với Cao Chính Bình, lâu ngày không thắng được. Phùng Hưng dùng kế của Đỗ Anh Hàn, đặt đại bản doanh ở làng Triều Khúc, Thanh Trì đem quân vây phủ.[6]

Phần lớn các truyền thuyết đều kể rằng: Phùng Hưng nhận thấy lực lượng chưa thật đủ mạnh để đánh bại quân địch, ông đã cùng các tướng tỏa đi xung quanh chiêu mộ thêm binh lính và sắm thêm vũ khí, còn việc vây thành được giao cho ba người cháu gái họ Phùng, gọi Phùng Hưng bằng bác[9].

Quan Đô hộ Cao Chính Bình đem binh ra đánh, không hơn được, ưu phẫn phát bệnh vàng da rồi chết.[3] Theo sử sách thì Cao Chính Bình cai trị An Nam từ 790 đến 791.

Theo Việt điện u linh, Phùng Hưng vào Đô hộ phủ trị vì bảy năm rồi mất.[3] Theo Đại Việt sử ký toàn thư: Hưng nhân đó vào đóng ở phủ trị, chưa được bao lâu thì chết. Theo Việt sử tiêu án: Ông Hưng cùng với em là Hải, xuất phục được các làng ấp ở chung quanh, tự hiệu là Đô Quân, Hải là Đô Bảo, dùng kế của người làng là Đỗ Anh Hàn, đem quân vây phủ, Chính Bình lo phẫn mà chết, ông Hưng vào ở trong phủ, cho Hải làm Thái úy, rồi ông mất. Dân chúng lập con Hưng là An làm Đô Phủ Quân.

Tạ thếSửa đổi

Chính sử chép rằng ông cầm quyền cai trị không lâu sau đó đã qua đời ngay trong năm 791. Các sử gia hiện nay xác định ông mất khoảng tháng 5 năm 791[10].

Nguồn dã sử Việt điện u linh của Lý Tế Xuyên và giai thoại dân gian cho rằng: ông cầm quyền được bảy năm, nhưng lại mất năm 802[11]. Thông tin này không phù hợp về logic: Năm 791 giành được Tống Bình mà mất năm 802, tức là Phùng Hưng cầm quyền trong 11 năm chứ không phải bảy năm. GS Nguyễn Khắc Thuần cho rằng Lý Tế Xuyên và truyền thuyết dân gian đã có sự lầm lẫn: hơn bảy năm là thời gian tính từ khi Phùng Hưng làm chủ khu vực quanh Đường Lâm tới khi ông mất, chứ không phải tính từ khi ông làm chủ Tống Bình[12].

Theo sách Việt sử tiêu án: Ông Hưng đồng lòng với dân chúng, lập em là Hải. Bồ Phá Lặc có sức khỏe đẩy được núi, không chịu theo Hải, lánh ở động Chu Nham. Bồ Phá Lặc lập An là con ông Hưng. An tôn cha là Hưng làm Bố Cái Đại Vương [tục gọi cha mẹ là Bố Cái], dân Thổ cho là linh dị, lập đền thờ ở phía tây đô phủ để thờ Hưng.

Theo sách Việt điện u linh, con của Phùng Hưng là Phùng An khi lên ngôi tôn Phùng Hưng làm Bố Cái Đại Vương, bởi quốc tục xưng cha là Bố, mẹ là Cái, nên mới gọi như vậy.

Di sảnSửa đổi

Phùng Hưng đồng lòng với dân chúng, lập em là Hải kế vị. Bồ Phá Lặc có sức khỏe đẩy được núi, không chịu theo Hải, lánh ở động Chu Nham. Bồ Phá Lặc lập Phùng An, con của Phùng Hưng. Phùng An tôn cha làm Bố Cái Đại Vương.[4]

Nhà Đường cho Lý Phục làm Tiết độ sứ Lĩnh Nam, khi Lý Phục đã đến nơi, người An Nam đều yên lặng. Nhà Đường cho Triệu Xương làm Đô hộ. Xương đến nơi, sai sứ dụ Phùng An. Phùng An đem quân đầu hàng.[4]

Sách Việt điện u linh chép: Phùng Hưng chết rồi, phụ tá đầu mục là Bồ Phá Lặc, sức có thể bài sơn cử đỉnh, dũng lực tuyệt luân, có ý không theo lập con Phùng Hưng là Phùng An, đem quân chống Phùng Hải. Phùng Hải tránh Bồ Phá Lặc, dời qua ở động Chu Nham, sau không biết ra sao nữa.[3]

Phùng An kế vị được hai năm, vua Đường Đức Tông phong Triệu Xương sang làm An Nam đô hộ. Triệu Xương đến nơi, sai sứ đem nghi vật dụ Phùng An; Phùng An sửa sang nghi vệ, đem quân nghênh hàng Triệu Xương, các thân thuộc họ Phùng giải tán hết.[3]

Nguyên quánSửa đổi

  • Sách Việt điện u linh [1329] chép: Vương họ Phùng tên Hưng, thế tập Biên Khố Di Tù Trưởng châu Đường Lâm, hiệu là Quan Lặng [màn tục này còn].[3]
  • Sách Lĩnh Nam chích quái chép: Đại Vương họ Phùng, tên Hưng, người xã Đường Lâm, Giao Châu, làm Tù trưởng dân Man, hiệu là Lý Lang, giàu có, người rất khỏe mạnh, có thể bẻ sừng trâu, đánh nhau với cọp dữ.
  • Sách An Nam chí lược [1335] viết về Ngô Quyền, một nhân vật được sử sách chép là ở Đường Lâm, cùng quê với Phùng Hưng: Qua đời Ngũ-Đại [907-959], người đất Ái-Châu là Ngô-Quyền, chiếm giữ quận Giao-Chỉ.[13]
  • Quyển Đệ nhất, sách An Nam chí lược viết về Phủ lộ Thanh Hóa: Phủ lộ Thanh Hóa đời Tây Hán là quận Cửu Chân, đời Tùy, Đường là Ái Châu, những thuộc ấp của châu ấy hiện nay, gọi là giang trường, giáp và xã.
  • Sách Việt sử tiêu án chép: Tại làng Đường Lâm thuộc Phong Châu có Phùng Hưng một nhà hào phú có sức mạnh kéo trâu, đánh hổ.
  • Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép: Mùa hạ, tháng 4, người ở Đường Lâm thuộc Giao Châu là Phùng Hưng dấy binh vây phủ.
  • Nguyễn Văn Siêu [1795–1872] trong Đại Việt địa dư toàn biên [大越地輿全編], Địa chí loại, quyển 5, tỉnh Sơn Tây, phủ Quảng Oai, huyện Phúc Thọ, tr. 402 có viết: Xét huyện Phúc Thọ là đất Phúc Lộc đời xưa. Cựu sử chép rằng: Đường Lâm ở huyện Phúc Lộc. [Mà] Xét Đường địa lý chép rằng: châu Phúc Lộc có ba huyện Nhu Viễn, Phúc Lộc và Đường Lâm. Từ Hoan Châu đi về phía đông hai ngày đến huyện Ninh Viễn [tức Nhu Viễn] châu Đường Lâm. Đi về phía nam qua sông Cổ La hai ngày đến nước Hoàn Vương... Lịch triều hiến chương lại chép rằng:... “Nhu Viễn bây giờ là huyện Gia Viễn. Đường Lâm nay là đất huyện Hoài An, huyện Mỹ Lương...” Nay xét sử cũ chép: Bố Cái Đại Vương là Phùng Hưng. Tiền Ngô Vương Quyền đều là người Đường Lâm. Nay xã Cam Lâm, tổng Cam Giá, huyện Phúc Thọ [xã Cam Lâm trước là xã Cam Tuyền] có hai đền thờ Bố Cái Đại Vương và Tiền Ngô Vương. Còn có một bia khắc rằng: Bản xã đất ở rừng rậm, đời xưa gọi là Đường Lâm, đời đời có anh hào. Đời nhà Đường có Phùng Vương tên húy Hưng, đời Ngũ Đại có Ngô Vương tên húy Quyền. Hai vương cùng một làng, từ xưa không có. Uy đức còn mãi, miếu mạo như cũ. Niên hiệu đề là Quang Thái năm thứ 3 [Trần Thuận Tông-1390] mùa xuân tháng 2, ngày 18 làm bia này. Thì Đường Lâm là Phúc Thọ ngày nay, nên lấy sử cũ cũng như văn bia là đúng [văn bia thời Trần ở Sơn Tây]. Xét lời chú trên này [của Đường địa lý] là thuyết sai lầm, xem Đường thư có một câu: “Phúc Lộc tiếp Hoan Châu” có thể biết là lầm. Trí Châu có sông Trí, tức là xã Phúc Lộc đất Hà Thanh, Cầu Dinh ngày nay.
  • Trần Quốc Vượng viết bài Về quê hương Ngô Quyền, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 101, 8/1967, tr. 60 - 62: Theo các sử cũ, quả thật ở thời thuộc Đường [thế kỷ VII-X] miền đất nước ta có huyện Đường-lâm [đầu đời Đường là châu Đường-lâm rồi đổi thành quận Đường-lâm] thuộc châu Phúc-lộc [có cả huyện Phúc-lộc] thuộc phía nam tỉnh Hà-tĩnh ngày nay. Nhưng cũng theo một bài văn bia đề ngày 18 tháng 2 năm thứ ba niên hiệu Quang-thái đời Trần Thuận-tông [1390] – bia hiện để ở trong đền thờ Phùng Hưng tại xã Đường-lâm, huyện Tùng-thiện tỉnh Hà-tây – thì ở thời Trần nước ta có xã Cam-tuyền thuộc huyện Phúc- lộc, phủ Quốc-oai[iii]. Văn bia ghi rõ: Nguyên bản xã đất nhiều rừng rậm xưa gọi là Đường-lâm, đời đời sản sinh nhiều vị anh hùng hào kiệt.

Văn bia mà Trần Quốc Vượng nhắc đến, theo Trần Trọng Dương, Nguyễn Tô Lan đó là bia ngụy tạo:

Về địa danh học, văn bia này dù cố gắng ngụy tạo, nhưng vẫn vô tình để lại tên địa danh thời Nguyễn. Dòng đầu của bia ghi: 國威府福祿縣甘泉社“Quốc Oai phủ Phúc Lộc huyện Cam Tuyền xã”, dòng trên đồng thời cũng được khắc trên bia Phụng tự bi ký 奉祀碑記 được khắc năm Tự Đức thứ 4 [1851]. Qua khảo chứng về diên cách địa danh hành chính của Đào Duy Anh[19] thì đây có khả năng là bia ngụy tạo vào đời Gia Long hoặc Minh Mệnh, vì đến năm Minh Mệnh thứ 3 [1822] Phúc Lộc đã đổi làm Phúc Thọ.

Về mỹ thuật, bia có cùng một phong cách với nhiều bia hậu đời Nguyễn: không có trang trí diềm, trán gần như để trơn, hoa văn chỉ có mặt nhật nét mảnh và tia lửa yếu ớt.

Về quy mô, văn bia này được dựng ở cấp độ thôn xóm, cho nên rất khiêm tốn về mặt kinh phí, điều này thể hiện qua dáng vóc xinh xắn và khiêm nhường của bia: chiều cao 54cm, rộng ngang 35cm, tức là không bằng một tờ báo Nhân dân trải rộng. Cho thấy, bia được dựng nằm ngoài điển lệ của triều đình. Điểm này làm rõ hơn động cơ của dòng niên đại “Quang Thái thứ 3” trong văn bia.

Về trật tự chữ, chữ viết trên ngạch bi đều ngang từ trái sang phải, trong khi ngạch bia đời Trần thường là sắp chữ dọc.

  • Bài viết Đường Lâm là Đường Lâm nào của soạn giả Trần Ngọc Vương, Trần Trọng Dương và Nguyễn Tố Lan, bài viết đăng trên Tạp chí xưa và nay, số 401 [tháng 4 năm 2012]. Nhóm tác giả này tham khảo, trích dẫn sách sử của Trung Quốc, Việt Nam như Thông điển, Cựu Đường thư, Việt điện u linh, An nam chí lược... và có kết luận sau:

Châu Đường Lâm – quê của Phùng Hưng, Ngô Quyền vốn từng có tên châu Phúc Lộc [gồm ba huyện Nhu Viễn, Đường Lâm và Phúc Lộc], châu này nằm phía tây nam Ái Châu, gần gũi Trường Châu, về sau đã có lúc quy về Ái Châu.

Vị trí chính xác của châu Đường Lâm còn phải khảo chứng thực địa, bổ sung các cứ liệu về họ tộc, cư dân, phong tục, sản vật, ngôn ngữ bản địa, cũng như sự thờ cúng và tư liệu điền dã tại địa bàn Thanh Hóa ngày nay và các khu vực lân cận. Dù vậy, có thể khẳng định rằng quê Ngô Quyền nằm loanh quanh giữa vùng Thanh Hóa – Nghệ An[40] ngày nay mà khó có thể ở vị trí Sơn Tây [khi đó là huyện Gia Ninh của Phong Châu] được.

Trong suốt lịch sử từ đời Hán cho đến năm 1964, khu vực Sơn Tây không hề có châu hay huyện hay làng nào tên là Đường Lâm. Tên ‘xã Đường Lâm’ tại Sơn Tây ngày nay mới xuất hiện từ năm 1964 [ngày 21 tháng 11].

Vinh danhSửa đổi

Bàn thờ Phùng Hưng [nơi đặt linh vị của ông] tại đền thờ ở thôn Mông Phụ, Đường Lâm.

Lăng mộ Phùng Hưng ngày nay nằm ở đầu phố Giảng Võ, quận Ba Đình, Hà Nội. Đền thờ ông được dựng lên ở nhiều nơi như quê hương Đường Lâm, đình Quảng Bá [Tây Hồ], đình Triều Khúc [Thanh Trì, Hà Nội], đình làng Đào Nguyên, xã An Thượng, huyện Hoài Đức, ngoại thành Hà Nội với lễ hội được tổ chức vào ngày 10 tháng 2 âm lịch.

Tại xã Gia Thanh, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình có ba ngôi đền thờ Bố Cái Đại Vương trong đó đền Cổ Hạc được coi là đền chính, tương truyền ông mất tại đây. Các di tích khác như đình làng Vũ Đại và đình làng Đồng Xuân ở xã Gia Xuân hay đình Vũ Nhì ở xã Gia Trấn, Gia Viễn cũng là nơi thờ Bố Cái Đại Vương Phùng Hưng.

Sau này đất Đường Lâm quê ông còn xuất hiện một vị vua nữa là Ngô Quyền, người đánh bại cuộc xâm lược của Nam Hán, chấm dứt 1.000 năm Bắc thuộc [938]. Do vậy Đường Lâm còn được biết đến với tên gọi "Đất hai Vua".

Tại làng Triều Khúc, ông được thờ là thành hoàng của làng. Do đó, dân làng kiêng húy họ tên của ông, và không dùng chữ Phùng hoặc chữ Hưng khi đặt tên con cháu, đồng thời kiêng húy cả chữ Bố trong tên hiệu của ông [Bố Cái Đại Vương] khi người con gọi người cha.[14]

Tên ông còn được đặt cho các tuyến phố của Thành phố Hà Nội [tại cả quận Hoàn Kiếm và quận Hà Đông], thành phố Ninh Bình, Đà Nẵng, Huế, Nha Trang, Thành phố Hồ Chí Minh.

  • Đền thờ Phùng Hưng tại Gia Thanh, Gia Viễn, Ninh Bình.

  • Đền thờ Phùng Hưng tại thôn Mông Phụ, Đường Lâm, Sơn Tây, Hà Nội.

  • Đền thờ Phùng Hưng tại quê hương Cam Lâm, Đường Lâm.

  • Đình làng Vũ Đại, xã Gia Xuân, Gia Viễn, Ninh Bình.

Đánh giáSửa đổi

Phùng Đô Quân là một người phi thường, tất nhiên có sự gặp gỡ phi thường; sự gặp gỡ phi thường chính là để đãi người có tài phi thường. Xem việc sức bắt được hổ, khí muốn nuốt sao Ngâu, khiến cho người trong châu đều úy phục, nếu không có tài lược hơn người thời đâu được như thế. Chính Bình chết rồi, Vương thung dung vào đô thành cắm bảy mươi ngọn cờ, hùng oai muôn dặm độc quyền một phương, họa phúc do tay, nghiễm nhiên như một họ Triệu, họ Lý, há phải như Mai Hắc Đế chỉ chiếm một châu mà ví được đâu? Tuy vận nội thuộc, chẳng bao lâu bị mất vào tay Triệu Xương, nhưng kẻ đại trượng phu xuất sắc không chịu để cho bọn hồ lại giàn buộc. Ngọ Phong là tay cự phách trong hạng Thổ hào, vận tuy bĩ cực, nhưng gặp gỡ đều hanh thông, rõ thực bậc anh hùng hảo hán, phương chi cốn Đại nội hiển linh, sông Bạch Đằng giúp trận, Phu Hựu, Chương Nghĩa chói lọi ở Loan thư, sống được vinh danh, chết lưu hiền hiệu, người như Phùng Bố Cái chưa dễ có nhiều được.
— Việt điện u linh, Lý Tế Xuyên
Ngày nay anh tài nảy nở, vị tất đã không do Phùng Công đã cắm lá cờ đỏ đầu tiên, thực là bất hủ
— Việt điện u linh, Lý Tế Xuyên

Theo Lê Tung viết trong Việt giám thông khảo tổng luận: Phùng Bố Cái là người anh hào ở Đường Lâm ghét sự tàn ngược của Chính Bình, anh em thừa thời quật khởi cứu dân dẹp loạn, ban đức lập công, có thể gọi là bậc vua nhân hậu. Tiếc rằng con trai là An không giữ nổi được cơ nghiệp, do Phá Cần lập nên, rồi đầu hàng Triệu Xương; tuy có Đỗ Anh Hàn là bề tôi mưu việc nước, cũng không cứu vãn được sự bại vong của họ Phùng.[15]

Xem thêmSửa đổi

  • Lịch sử Việt Nam thời Bắc thuộc lần 3
  • Phùng An

Tham khảoSửa đổi

  • Việt điện u linh, Soạn giả Lý Tế Xuyên, Dịch giả Lê Hữu Mục, Nhà xuất bản Dâng Lạc
  • Việt sử tiêu án, Soạn giả Ngô Thì Sĩ, Dịch giả Hội Việt Nam Nghiên cứu Liên Lạc Văn Hóa Á Châu, Nhà xuất bản Văn Sử 1991
  • An Nam chí lược, soạn giả Lê Tắc, Nhà xuất bản Viện đại học Huế, 1961
  • Đại Việt Sử ký Toàn thư
  • Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục
  • Phan Huy Lê, Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn, Lương Ninh [1991], Lịch sử Việt Nam, tập 1, Nhà xuất bản Đại học và giáo dục chuyên nghiệp
  • Nguyễn Khắc Thuần [2007], Danh tướng Việt Nam, tập 4, Nhà xuất bản Giáo dục

Chú thíchSửa đổi

  1. ^ a b Theo Việt sử giai thoại của Nguyễn Khắc Thuần.
  2. ^ Ở đây chúng tôi chép theo sách Việt điện u linh của soạn giả Trần Tế Xuyên.
  3. ^ a b c d e f g h Việt điện u linh; Soạn giả Lý Tế Xuyên, Dịch giả Lê Hữu Mục, Nhà Xuất bản Dâng Lạc.
  4. ^ a b c d Việt sử tiêu án, Soạn giả Ngô Thì Sĩ, Dịch giả Hội Việt Nam Nghiên cứu Liên lạc Văn hóa Á Châu, Nhà Xuất bản: Văn Sử 1991, Chương Ngoại thuộc Tùy và Đường.
  5. ^ Theo Đại Việt sử ký toàn thư, Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục
  6. ^ a b Đại Việt sử ký toàn thư, Soạn giả Lê Văn Hưu, Ngô Sĩ Liên..., Dịch giả Viện Sử học Việt Nam, Nhà Xuất bản Khoa học xã hội Hà Nội, 1993.
  7. ^ Tên châu cổ, thời Đường là vùng Sơn Tây, Phú Thọ.
  8. ^ Theo bia Quảng Bá - BỐ CÁI ĐẠI VƯƠNG PHÙNG HƯNG - Lê Văn Lan
  9. ^ Nguyễn Khắc Thuần, sách đã dẫn, tr. 174.
  10. ^ Nguyễn Khắc Thuần, sách đã dẫn, tr. 175.
  11. ^ “Làng Đường Lâm - Hà Tây: Đất hai vua”. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 2 năm 2008. Truy cập ngày 13 tháng 5 năm 2009.
  12. ^ Nguyễn Khắc Thuần, sách đã dẫn, tr. 173.
  13. ^ An Nam chí lược, soạn giả Lê Tắc, dịch giả Ủy ban Phiên dịch Sử liệu Việt Nam, Nhà Xuất bản Viện Đại học Huế, 1961, phần Quận ấp.
  14. ^ Cả làng không ai được gọi bố bao giờ
  15. ^ Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà Xuất bản Khoa học xã hội, 1998, tr. 121, tập 1.

Liên kết ngoàiSửa đổi

  • Làng Đường Lâm - Hà Tây: Đất hai vua - Hà Nguyên Huyến Lưu trữ 2008-02-05 tại Wayback Machine
  • BỐ CÁI ĐẠI VƯƠNG PHÙNG HƯNG - Lê Văn Lan

Video liên quan

Chủ Đề