Truyện cổ tích song ngữ Nhật -- Việt

Bởi Ulrich Renz

Giới thiệu về cuốn sách này

Page 2

Bởi Ulrich Renz

Giới thiệu về cuốn sách này

Trẻ nhỏ là đối tượng ưa tò mò và khám phá. Do đó, trẻ học tiếng Anh qua truyện cổ tích song ngữ sẽ giúp việc học ngôn ngữ trở nên nhẹ nhàng, tự nhiên nhất. Đồng thời còn giúp trẻ rèn luyện nhiều kỹ năng như nghe, đọc và học từ mới.

Trong bài viết dưới đây, Alisa English sẽ chia sẻ với ba mẹ một số truyện cổ tích song ngữ nổi tiếng giúp bé học tiếng Anh hiệu quả.

Xem thêm:

  • 4 lợi ích khi ba mẹ dạy bé học tiếng Anh qua truyện cổ tích

Truyện cổ tích song ngữ The Bear and the Bees – Con gấu và bầy ong

A Bear came across a log where a Swarm of Bees had nested to make their honey. As he snooped around, a single little Bee flew out of the log to protect the swarm. Knowing that the Bear would eat all the honey, the little bee stung him sharply on the nose and flew back into the log.

This flew the Bear into an angry rage. He swatted at the log with his big claws, determined to destroy the nest of bees inside. This only alerted the bees and quick as a wink, the entire swarm of bees flew out of the log and began to sting the bear from head to heel. The Bear saved himself by running to and diving into the nearest pond.

Truyện cổ tích song ngữ Con gấu và bầy ong – The Bear and the Bees

Dịch nghĩa:

Ngày nọ, một con Gấu đi qua chỗ có khúc gỗ  nơi Bầy Ong xây tổ làm mật. Chú tò mò nhìn ngó xung quanh thì một con ong bay ra để bảo vệ đàn. Biết Gấu sẽ ăn hết mật, Con Ong bé nhỏ đốt thật mạnh vào mũi chú rồi bay vào trong khúc gỗ.

Gấu tức giận như điên vì bị đốt đau. Chú nhất định phải tiêu diệt tổ ong bên trong, nên dùng những móng vuốt to của mình đập mạnh vào khúc gỗ. Bầy Ong bị động và bay ra rất nhanh, chỉ trong nháy mắt, chúng bắt đầu đốt Gấu khắp  từ đầu tới chân. Gấu ta chỉ còn cách co giò chạy thoát thân rồi nhảy “ùm” xuống cái ao gần nhất.

Truyện cổ tích song ngữ Give me a second – Chờ ta một giây thôi!

A man was wandering in the woods, pondering all the mysteries of life and his own personal problems. The man didn’t find the answers, so he sought help from God.

“God? You there, God?” he asked.

“Yes. What is it, my son?” God answered.

“Mind if I ask a few questions?” the man asked.

“Go ahead, my son, anything”.

“God, what is a million years to you?”

God answered, “A million years to me is only a second.”

The man asked, “God, what is a million dollars worth to you?”

God replied, “A million dollars to me is worth only a penny.”

The man lifted his eyebrows and asked his final question.

“God, can I have a penny?”

God answered, “Sure, give me a second.”

Truyện cổ tích song ngữ Chờ ta một giây thôi! – Give me a second

Dịch nghĩa:

Một người đi lang thang trong rừng, suy nghĩ về những điều thần bí của cuộc sống và những vấn đề riêng tư của anh ta. Người đó không thể tìm ra câu trả lời, do đó anh ta đi tìm Chúa.

“Chúa thân mến, Chúa có đây không?” anh ta hỏi.

“Ta đây. Con cần gì hả con trai?” Chúa trả lời.

“Con có thể hỏi Chúa vài điều được không?” anh ta hỏi tiếp.

“Cứ hỏi đi, con trai của ta”.

Anh ta hỏi: “Chúa thân mến, một triệu năm với Người là bao nhiêu?”

Chúa trả lời: “Một triệu năm với ta chỉ là một giây”.

Anh ta hỏi tiếp: “Chúa thân mến, một triệu đô la đối với Người là bao nhiêu?”

Chúa đáp: “Một triệu đô la với ta chỉ là một xu”.

Người đàn ông nhướng mày lên và hỏi câu hỏi cuối cùng.

“Chúa có thể cho con một xu được không?”

Chúa đáp: “Được chứ, chờ ta một giây thôi.”

Truyện cổ tích song ngữ The Lion and The Gnat – Sư tử và con muỗi

“Away with you, vile insect!” said a Lion angrily to a Gnat that was buzzing around his head. But the Gnat was not in the least disturbed. “Do you think,” he said spitefully to the Lion, “that I am afraid of you because they call you king?”.

The next instant he flew at the Lion and stung him sharply on the nose. Mad with rage, the Lion struck fiercely at the Gnat, but only succeeded in tearing himself with his claws. Again and again the Gnat stung the Lion, who now was roaring terribly.

At last, worn out with rage and covered with wounds that his own teeth and claws had made, the Lion gave up the fight. The Gnat buzzed away to tell the whole world about his victory, but instead he flew straight into a spider’s web.

And there, he who had defeated the King of beasts came to a miserable end, the prey of a little spider. The least of our enemies is often the most to be feared. Pride over a success should not throw us off our guard.

Truyện cổ tích song ngữ Sư tử và con muỗi – The Lion and The Gnat

Dịch nghĩa:

“Hãy cút khỏi đây đi, đồ côn trùng thấp hèn kia!” Con sư tử giận dữ nói với con muỗi đang bay vo ve quanh đầu nó nhưng muỗi ta không hề cảm thấy nao núng trước lời nói miệt thị ấy của con sư tử.

Chú muỗi hằn học đáp lại: “Ông nghĩ là tôi sợ ông vì ông được người ta tôn vinh là vua à?” Sau đó, con côn trùng đậu trên con sư tử và cắn ngày vào mũi của nó. Con sư tử nổi trận lôi đình, dập một cái thật mạnh vào con muỗi nhưng lại trúng ngay mặt mình.

Cứ thế, con muỗi cắn con sư tử nhiều lần trong khi con sư tử đang gầm rú lên một cách thảm thiết. Cuối cùng, con sư tử kiệt sức với đầy vết thương trên mặt mà nó tự gây ra cho mình, nó đành phải chịu thua. Con muỗi bay đi định khoe với mọi người về chiến thắng của mình nhưng sau đó nó lại bay ngay vào ổ nhện.

Và ở đó, kẻ vừa mới đánh bại chúa tể sơn lâm đã gặp một kết cục thảm hại đó là trở thành con mồi của một con nhện nhỏ xíu Kẻ thù của chúng ta chưa hẳn là những kẻ đáng sợ nhất. Đừng bao giờ ngủ quên trên hào quang của chiến thắng mà đánh mất sự cảnh giác của mình.

Tin này thuộc chuyên mục: Vườn ươm nhân tài > Vui học Nhật Ngữ

Vui Học Tiếng Nhật Qua Truyện Cổ Tích Nhật Bản [Song ngữ Nhật - Việt] - Phần II

ESO - Mời các bạn theo dõi phần tiếp theo của câu chuyện "Cua khỉ giao tranh".

[きみ][][のぼ]れないから[かき][][]れないだろう。自分[じぶん][][のぼ]って[]ってやろう」と[さる][]い、するすると[][のぼ]ると、[]れた[あま][かき][][つぎ]から[つぎ]へと自分[じぶん][]べてしまいました。そして「おおい、こっちにも[かき][][]としてくれぇ」と[][した]から[たの][かに]には青柿[あおがき][]げつけ、可哀想[かわいそう]に、[かに]青柿[あおがき][]たって[]んでしまいました。

- Mày không leo được cây nên không hái được quả, đúng không? Để tao giúp cho.

Nói xong khỉ leo lên cây, hái những quả hồng chín ngọt, ngồi ăn hết quả nọ đến quả kia. Cua đứng dưới thấy vậy nói:

- Mày ném xuống cho tao vài quả đi chứ.

Nghe vậy khỉ ném những quả hồng xanh xuống, trúng vào cua làm cua chết.


[]んでしまった[かに]には[]どもがいました。子蟹[こかに][おや][あだ][]つことにし、仲間[なかま][あつ]めました。[くり][はち][うす]が、子蟹[こがに]仲間[なかま]になりました。子蟹[こかに][くり][はち][うす]は、[さる]留守[るす][あいだ][さる][いえ][しの][]み、[てき][かえ]ってくるのを[]ちました。

Cua chết nhưng nó để lại con. Cua con muốn trả thù cho mẹ nên tập họp bạn bè lại. Bạn của nó có hạt dẻ, con ong và cái cối. Con cua, hạt dẻ, con ong và cái cối đi đến nhà khỉ, thừa lúc khỉ vắng nhà, lẻn vào nhà nằm chờ.



[Tiếp theo]

0

0

0

0 Chia sẻ qua Zalo

0 Gửi cho bạn bè

Video liên quan

Chủ Đề