Tại sao không được nhịn tiểu

Nhịn tiểu lâu khiến nước tiểu tích tụ tại bàng quang, dẫn tới rò rỉ ra bên ngoài làm tăng sự phát triển của vi khuẩn dẫn tới nhiễm trùng đường tiết niệu.

Đi tiểu là nhu cầu của mỗi người nhưng đôi khi do hoàn cảnh phải nhịn tiểu. Trường hợp nhịn tiểu trong thời gian ngắn cho đến khi có thời gian và địa điểm để đi sẽ không có hại. Tuy nhiên, nhịn tiểu trong thời gian dài có thể làm tăng nguy cơ mắc một số bệnh, điển hình là nhiễm trùng đường tiết niệu. Nhịn tiểu diễn ra trong thời gian dài sẽ khiến nước tiểu đọng lại trong bàng quang làm tăng sự phát triển của vi khuẩn. Hơn nữa, tình trạng tích trữ nước tiểu quá nhiều sẽ khiến bàng quang và các cơ vòng bên ngoài bị kéo căng dẫn đến nước tiểu rò rỉ ra ngoài gây nhiễm trùng các cơ quan của đường tiết niệu.

Một số người tiểu nhiều lần nhưng lượng nước tiểu lại không đáng kể. Đây có thể là do một tình trạng bệnh lý như nhiễm trùng đường tiết niệu nếu kèm theo cảm giác khó chịu khi đi tiểu. Khi gặp vấn đề với việc đi vệ sinh quá nhiều, hãy đi khám để xác định nguyên nhân. Trong một số trường hợp, bỏ qua cảm giác muốn đi tiểu trong thời gian dài có thể là một phần của quá trình phục hồi bàng quang. Nếu không cần thiết phải đi tiểu thường xuyên, bác sĩ có thể khuyên bệnh nhân nên nhịn tiểu để bàng quang có thể phục hồi chức năng. Điều quan trọng là một khi đã thực sự muốn đi vệ sinh, hãy thực hiện ngay lập tức.

Tại sao không được nhịn tiểu
Một ghi nhớ hữu ích cho nhiều nguyên nhân tiểu không tự chủ thoáng qua là DIAPPERS (có thêm P): Mê sảng), Nhiễm khuẩn (thông thường, nhiễm khuẩn tiết niệu Tổng quan về nhiễm trùng đường tiết niệu (UTI) Nhiễm trùng đường tiết niệu (UTIs) có thể được chia thành nhiễm trùng đường tiết niệu cao, bao gồm thận ( viêm thận bể thận), và nhiễm trùng đường tiết niệu thấp, có liên quan đến bàng quang... đọc thêm có triệu chứng), Viêm teo niệu đạo và viêm teo âm đạo), Dược phẩm (ví dụ những thuốc chẹn alpha, cholinergic, hoặc kháng cholinergic, thuốc lợi tiểu, thuốc an thần), Rối loạn tâm thần (đặc biệt là trầm cảm), Quá nhiều nước tiểu (tiểu nhiều), Hạn chế vận động), và U phân.

Tại sao không được nhịn tiểu

Nguyên nhân của tiểu không tự chủ thực sự là các tác động dai dẳng đến thần kinh hoặc cơ. Các cơ chế thường được sử dụng để mô tả những vấn đề này là đường ra bàng quang bị trục trặc hoặc tắc nghẽn, cơ trơn bàng quang hoạt động quá mức hoặc không hoạt động, rối loạn đồng vận bàng quang cơ thắt, hoặc kết hợp (xem bảng Nguyên nhân gây ra tình trạng mất kiểm soát Nguyên nhân gây tiểu không tự chủ thực sự

Tại sao không được nhịn tiểu
). Tuy nhiên, những cơ chế này cũng tham gia vào một số nguyên nhân tạm thời.

Tại sao không được nhịn tiểu

Đường ra nước tiểu yếu là một nguyên nhân phổ biến gây tiểu không tự chủ do stress. Ở phụ nữ, thường là do sự yếu của đáy chậu hoặc của mạc nội chậu. Sự yếu này thường xuất phát từ việc sinh nở nhiều qua đường âm đạo, phẫu thuật vùng chậu (bao gồm cắt tử cung), thay đổi liên quan đến tuổi tác (bao gồm viêm teo niệu đạo) hoặc kết hợp. Kết quả là, vùng nối giữa bàng quang niệu quản bị kéo tụt xuống, cổ bàng quang và niệu đạo trở nên tăng động, và áp lực trong niệu đạo giảm xuống dưới áp lực bàng quang. Ở nam giới, nguyên nhân thông thường là tổn thương cơ thắt hoặc tổn thương ở cổ bàng quang và niệu đạo sau khi cắt tuyến tiền liệt tận gốc.

Sự tắc nghẽn dẫn đến bàng quang giãn quá mức mạn tính, thường làm mất khả năng co bóp bàng quang; sau đó bàng quang không trống hoàn toàn, dẫn đến rỉ tràn ra ngoài. Sự tắc nghẽn cũng có thể dẫn đến sự hoạt động quá mức cơ trơn bàng quang và gây tiểu són gấp. Nếu cơ trơn bàng quang mất khả năng bị co thắt, có thể dẫn tới tiểu không tự chủ do bàng quang đầy. Một số nguyên nhân gây tắc nghẽn đường ra (ví dụ, túi thừa lớn bàng quang, sa bàng quang, viêm bàng quang, sỏi và khối u) có thể giải quyết được.

Cơ trơn bàng quang tăng hoạt là một nguyên nhân phổ biến gây ra tiểu gấp không tự chủ ở bệnh nhân lớn tuổi và bệnh nhân trẻ hơn. Cơ trơn bàng quang co thắt ngắt quãng mà không có lý do rõ ràng, thông thường khi bàng quang đầy một phần hoặc gần toàn bộ. Cơ trơn bàng quang hoạt động quá mức có thể vô căn hoặc có thể do rối loạn chức năng trung tâm ức chế tiểu tiện ở thuỳ trán (thường do thay đổi tuổi, chứng sa sút trí tuệ, hoặc đột quỵ) hoặc tắc nghẽn đường ra. Cơ trơn bàng quang hoạt động quá mức (tăng hoạt) và suy giảm khả năng co bóp là một biến thể của tiểu gấp không tự chủ đặc trưng bởi tiểu gấp, tiểu dắt Tiểu dắt Tiểu nhiều lần là tình trạng người bệnh cần phải đi tiểu rất nhiều lần trong ngày, hoặc vào ban đêm (tiểu đêm), hoặc cả hai, nhưng lượng nước tiểu bình thường hoặc ít hơn bình thường. Thường... đọc thêm , tốc độ dòng tiểu yếu, bí tiểu bí tiểu Bí tiểu là tình trạng bàng quang sót nước tiểu sau khi tiểu xong. Bí tiểu có thể là Cấp tính Mãn tính Nguyên nhân bao gồm giảm co bóp bàng quang, tắc nghẽn đường ra bàng quang, mất đồng vận... đọc thêm , căng tức bàng quang và thể tích nước tiểu tồn dư sau khi đi tiểu > 50 mL. Biến thể này có thể tương tự như bệnh tiền liệt tuyến ở nam giới hoặc tiểu không tự chủ dưới tác động của stress ở phụ nữ.

Cơ trơn bàng quang giảm hoạt gây bí tiểu và tiểu không tự chủ do bàng quang đầy ở khoảng 5% bệnh nhân tiểu không tự chủ. Nó có thể do tổn thương tủy sống Chấn thương cột sống Chấn thương cột sống có thể gây thương tích đến tủy sống, đốt sống, hoặc cả hai. Thỉnh thoảng, tổn thương dây thần kinh kèm theo. Giải phẫu các cột của cột sống được xem xét ở nơi khác. Tổn... đọc thêm

Tại sao không được nhịn tiểu
hoặc rễ thần kinh chi phối bàng quang (ví dụ, chèn ép tuỷ, khối u, hoặc phẫu thuật), bởi các bệnh thần kinh ngoại biên hoặc thận kinh tự động, hoặc các rối loạn thần kinh khác.(xem bảng Nguyên nhân rối loạn thần kinh tự chủ Nguyên nhân gây tiểu không tự chủ thực sự
Tại sao không được nhịn tiểu
). Thuốc kháng cholinergic và opioid làm giảm đáng kể sự co bóp của cơ trơn bàng quang; những loại thuốc này tạm thời là những nguyên nhân phổ biến Cơ trơn có thể trở nên không hoạt động ở những người nam giới bị tắc nghẽn đường ra mạn tính vì cơ trơn bàng quang bị thay thế bởi tổ chức xơ và mô liên kết, làm cho bàng quang không thể rỗng được ngay cả khi tắc nghẽn đã được giải quyết. Ở phụ nữ, sự giảm hoạt của cơ trơn bàng quang thường vô căn. Ít trường hợp cơ trơn bàng quang yếu trầm trọng phổ biến ở phụ nữ lớn tuổi. Sự yếu như vậy không gây tiểu không tự chủ nhưng có thể làm phức tạp điều trị nếu các nguyên nhân khác của tiểu không tự chủ cùng tồn tại.

Mất đồng vận cơ trơn bàng quang cơ thắt (mất sự phối hợp giữa co thắt bàng quang và giãn cơ thắt niệu đạo ngoài) có thể gây tắc nghẽn đường ra, hậu quả là nước tiểu trào ra không kiểm soát được. Chứng rối loạn đồng vận thường do tổn thương tủy sống làm gián đoạn đường đi tới trung tâm tiểu tiện ở cầu não, nơi điều hợp sự giãn cơ thắt và sự co bàng quang. Thay vì giãn khi bàng quang co lại, cơ vòng co lại, làm tắc nghẽn đường ra của bàng quang. Chứng rối loạn đồng vận gây ra các bè xơ bàng quang nặng, túi thừa, sự biến dạng hình "cây thông giáng sinh" của bàng quang, ứ nước thận, và suy thận.

Suy chức năng (ví dụ như suy giảm nhận thức, giảm khả năng vận động, giảm sự khéo tay, các rối loạn phối hợp, thiếu động lực), đặc biệt ở người cao tuổi, có thể góp phần dẫn đến tiểu không tự chủ thực sự nhưng hiếm khi là nguyên nhân gây ra nó.

Hầu hết bệnh nhân đều có sự xấu hổ khi đề cập đến tiểu không tự chủ, không tự nói ra thông tin đó, mặc dù họ có thể đề cập đến các triệu chứng liên quan (ví dụ: tiểu nhiều lần, tiểu đêm, tiểu ngập ngừng). Vì vậy tất cả người lớn nên được kiểm tra với một câu hỏi như "Bạn có bao giờ bị rò rỉ nước tiểu?".

Bệnh sử tập trung vào khoảng thời gian và hình thức đi tiểu, chức năng ruột, sử dụng thuốc, và tiền sử sản khoa và phẫu thuật vùng chậu. Một cuốn nhật ký đi tiểu có thể cung cấp các đầu mối để tìm các nguyên nhân. Từ 48 đến 72 giờ, bệnh nhân hoặc người chăm sóc ghi lại thể tích và thời gian của mỗi lần đi tiểu và mỗi khi tiểu không tự chủ liên quan đến các hoạt động kèm theo (đặc biệt là ăn uống, và sử dụng thuốc) và trong khi ngủ. Lượng nước tiểu rỉ ra có thể được ước tính theo giọt, mức ít, vừa hoặc nhiều; hoặc bằng test thử miếng dán (đo trọng lượng nước tiểu được hấp thụ bởi miếng dán hoặc miếng đệm cho trường hợp tiểu không tự chủ được đo trong khoảng thời gian 24 giờ).

Nếu thể tích của hầu hết các lần đi tiểu ban đêm nhỏ hơn nhiều so với sức chứa bàng quang chức năng (được định nghĩa như là thể tích lớn nhất được tiểu ghi trong nhật ký), nguyên nhân là một vấn đề liên quan đến giấc ngủ (bệnh nhân đi tiểu vì họ đang thức) hoặc bất thường ở bàng quang (bệnh nhân không bị rối loạn chức năng bàng quang hoặc vấn đề liên quan đến giấc ngủ thức dậy chỉ để đi tiểu khi bàng quang đầy).

Trong số nam giới có triệu chứng tắc nghẽn (tiểu ngập ngừng, dòng tiểu yếu, tiểu ngắt quãng, cảm giác tiểu không hết), khoảng 1/3 có bàng quang tăng hoạt mà không có sự tắc nghẽn.

Tiểu gấp hoặc són tiểu đột ngột mà không có dấu hiệu báo trước hoặc không do tăng áp lực trong ổ bụng (thường được gọi là tiểu không tự chủ phản xạ hoặc tiểu không tự chủ vô thức) đa số là để ám chỉ bàng quang tăng hoạt.

Trọng tâm là thăm khám thần kinh, vùng chậu, và thăm trực tràng.

Chi phối thần kinh cho cơ thắt niệu đạo ngoài, cơ này chia sẻ rễ thần kinh cùng với cơ thắt vòng hậu môn, có thể được kiểm tra bằng cách đánh giá:

  • Cảm giác đáy chậu

  • Sự co cơ vòng hậu môn (S2 đến S4)

  • Phản xạ hậu môn (S4 đến S5), đó là sự co lại của cơ vòng hậu môn được kích hoạt bằng cách kích thích nhẹ da quanh hậu môn

  • Phản xạ hành hang (S2 đến S4), đó là sự co lại của cơ vòng hậu môn gây ra bằng cách bóp mạnh quy đầu dương vật hoặc kích thích lực lên âm vật

Tuy nhiên, sự vắng mặt của những phản xạ này không nhất thiết là bệnh lý.

Khám vùng chậu ở nữ giới có thể xác định viêm teo âm đạo và viêm niệu đạo Viêm niệu đạo Các vi khuẩn gây nhiễm trùng đường tiết niệu có thể liên quan đến niệu đạo, tuyến tiền liệt, bàng quang hoặc thận. Triệu chứng có thể không có hoặc bao gồm: tiểu nhiều lần, tiểu gấp, tiểu buốt... đọc thêm , tăng động niệu đạo và yếu vùng đáy chậu có hoặc không có chứng sa cơ quan vùng chậu. Niêm mạc âm đạo mỏng, màu nhạt và mất nếp nhăn niêm mạc cho thấy viêm teo âm đạo. Tăng động niệu đạo có thể quan sát được trong khi bệnh nhân ho khi thành sau âm đạo được cố định bằng mỏ vịt. Sa bàng quang, sa ruột, trực tràng, hoặc tử cung gợi ý yếu vùng đáy chậu Tổng quan về sa cơ quan vùng chậu Sa cơ quan vùng chậu là kết quả từ tình trạng lỏng lẻo (tương tự như thoát vị) ở các dây chằng, cân và cơ nâng đỡ các tạng vùng chậu (sàn chậu) - xem hình Sa cơ quan vùng chậu). Sự phổ biến... đọc thêm

Tại sao không được nhịn tiểu
. Khi thành đối diện được cố định bằng mỏ vịt, sự phồng lên của thành trước cho thấy sa bàng quang, và phình to của thành sau cho thấy sa trực tràng hoặc sa ruột. Sự suy yếu của đáy chậu không gợi ý nguyên nhân, trừ khi có sa bàng quang lớn.

Nghiệm pháp đi tiểu khi gắng sức có thể được thực hiện trên bàn kiểm tra nếu nghi ngờ tiểu không tự chủ khi gắng sức; phương pháp này có độ nhạy và độ đặc hiệu > 90%. Bàng quang phải đầy; bệnh nhân ngồi thẳng lưng hoặc ngồi gần thẳng với chân dạng ra, thả lỏng vùng đáy chậu và ho mạnh một lần:

  • Sự rò rỉ nước tiểu xảy ra ngay lập tức và kết thúc đồng thời với ho khẳng định tiểu không tự chủ dưới áp lực.

  • Sự rò rỉ nước tiểu chậm chút hoặc rò rỉ liên tục gợi ý cơ bàng quang tăng hoạt được kích hoạt bởi ho.

Nếu ho kích hoạt tiểu không tự chủ, hoạt động ho có thể được lặp lại trong khi người khám đặt 1 hoặc 2 ngón tay vào trong âm đạo để nâng niệu đạo (Marshall-Bonney test); sự tiểu không tự chủ cải thiện bởi hành động này có thể đáp ứng với phẫu thuật.

  • Kết quả có thể là dương tính giả nếu bệnh nhân có sự thôi thúc đi tiểu gấp trong quá trình thử nghiệm.

  • Kết quả có thể là âm tính giả nếu bệnh nhân không thư giãn, bàng quang không đầy, ho không mạnh, hoặc có hiện tượng sa bàng quang lớn (ở phụ nữ). Ở phụ nữ có sa bàng quang lớn, test thử cần được lặp lại với bệnh nhân nằm ngửa và giảm hiện tượng sa bàng quang, nếu có thể

  • Xét nghiệm tổng phân tích nước tiểu, nuôi cấy nước tiểu

  • Urea (BUN), creatinin huyết thanh

  • Thể tích nước tiểu tồn dư

  • Đôi khi xét nghiệm đo niệu động học

Thể tích nước tiểu tồn dư sau khi đi tiểu cần được xác định bằng cách đặt ống thông tiểu hoặc siêu âm (ưu tiên). Thể tích nước tiểu tồn dư sau khi đi tiểu cộng thể tích nước tiểu đã đi ra ngoài ước lượng dung tích bàng quang và giúp đánh giá sự nhận cảm của bàng quang. Một thể tích < 50 mL là bình thường; < 100 mL thường được chấp nhận ở bệnh nhân > 65 tuổi nhưng không bình thường ở bệnh nhân trẻ tuổi hơn; và > 100 mL có thể gợi ý bàng quang giảm hoạt hoặc tắc nghẽn đường ra.

Đo niệu động học được chỉ định khi đánh giá lâm sàng kết hợp với các xét nghiệm thích hợp không cho chẩn đoán xác định hoặc khi sự bất thường phải được xác định chính xác trước khi phẫu thuật.

Đo áp lực bàng quang có thể giúp chẩn đoán tiểu gấp không tự chủ, nhưng độ nhạy và độ đặc hiệu không rõ. Nước vô trùng được đưa vào bàng quang mỗi 50 ml bằng cách sử dụng một xi lanh 50 ml và một ống thông cỡ từ 12 đến 14-F cho đến khi bệnh nhân cảm giác buồn đi tiểu gấp hoặc có những cơn co thắt bàng quang, phát hiện sự thay đổi lượng dịch trong xi lanh. Nếu < 300 mL gây ra tình trạng buồn tiểu khẩn cấp hoặc co thắt, có thể là chứng bàng quang tăng hoạt và chứng tiểu gấp không tự chủ.

Xét nghiệm đo lưu lượng đỉnh dòng nước tiểu với một đồng hồ đo lưu lượng dòng chảy được sử dụng để khẳng định hoặc loại trừ sự tắc nghẽn đường ra ở nam giới. Kết quả phụ thuộc vào thể tích bàng quang ban đầu, nhưng tốc độ dòng chảy tối đa < 12 mL/giây với lượng nước tiểu là 200 mL và quá trình đi tiểu kéo dài gợi ý tắc nghẽn đường ra hoặc cơ bàng quang giảm hoạt. Tốc độ 12 mL/giây loại trừ được tắc nghẽn và có thể gợi ý bàng quang tăng hoạt. Trong quá trình thử nghiệm, bệnh nhân được hướng dẫn đặt tay lên bụng để kiểm tra sự rặn tiểu, đặc biệt là nếu nghi ngờ tiểu không tự chủ dưới áp lực và phẫu thuật được dự tính. Sự rặn tiểu cho thấy cơ trơn bàng quang yếu có thể dự đoán tình trạng bí tiểu sau mổ ở bệnh nhân.

Trong đo lưu lượng bàng quang, các đường cong áp lực-thể tích và cảm giác bàng quang được ghi lại trong khi bàng quang được làm đầy bằng nước vô trùng; test kích thích (với bethanechol hoặc nước đá) được sử dụng để kích thích các cơn co bàng quang.

Điện cơ cơ đáy chậu được sử dụng để đánh giá sự kích thích và chức năng cơ vòng. Áp lực niệu đạo, ổ bụng, và trực tràng có thể được đo.

Phân tích video niệu động học, thường được thực hiện cùng với chụp bàng quang niệu đạo Chụp niệu đạo bàng quang

Tại sao không được nhịn tiểu
khi đi tiểu, xét nghiệm có thể đánh giá mối liên quan với sự co thắt của bàng quang, cổ bàng quang, và sự đồng vận cơ bàng quang-cơ thắt, nhưng thiết bị không được phổ biến rộng rãi.

  • Tập luyện bàng quang

  • Bài tập Kegel

  • Thuốc

Các nguyên nhân cụ thể được điều trị, và các thuốc có thể là nguyên nhân hoặc làm tình trạng tiểu không tự chủ xấu thêm phải được dừng lại hoặc thay đổi thời gian dùng thuốc (ví dụ thuốc lợi tiểu nếu dùng phải được tính thời gian để vấn đề đi vệ sinh thuận lợi nhất khi thuốc có hiệu lực). Việc điều trị khác tùy thuộc vào các thể của tiểu không tự chủ. Bất kể loại và nguyên nhân, một số biện pháp chung thường hữu ích.

Bệnh nhân được hướng dẫn để hạn chế tiêu thụ chất lỏng vào những thời điểm nhất định (ví dụ, trước khi đi ra ngoài, 3 đến 4 giờ trước khi đi ngủ), để tránh nước tiểu kích thích bàng quang (ví dụ như đồ uống chứa caffeine), và uống từ 48 đến 64 ounce (1500 đến 2000 mL) chất lỏng mỗi ngày (vì nước tiểu đậm đặc làm kích thích bàng quang).

Bệnh nhân có thể hưởng lợi từ việc tập luyện bàng quang (thay đổi thói quen đi tiểu) và thay đổi lượng chất lỏng tiêu thụ. Tập luyện bàng quang thường là tập khoảng cách giữa các lần đi tiểu (mỗi 2 đến 3 giờ) trong khi thức. Theo thời gian, khoảng cách thời gian này có thể tăng lên 3-4 giờ khi thức. Nhắc đi tiểu cho bệnh nhân suy giảm nhận thức; họ sẽ được nhắc mỗi 2 h đi tiểu một lần mặc dù họ cần phải đi tiểu hoặc kể cả họ đang tiểu ra quần hoặc không. Một cuốn nhật ký đi tiểu sẽ giúp xác định mức độ thường xuyên và khi nào cần đi tiểu và liệu bệnh nhân có thể cảm nhận được bàng quang đầy.

Các bài tập cơ vùng chậu (ví dụ, bài tập Kegel) thường có hiệu quả, đặc biệt dành cho tiểu không tự chủ dưới áp lực. Bệnh nhân phải co cơ chậu (cơ mu cụt và cơ cạnh âm đạo) thay vì cơ đùi, bụng, hoặc cơ mông. Các cơ được co trong 10 giây, sau đó thư giãn cho 10 giây, tập 10 đến 15 lần mỗi lần và ngày 3 lần. Cần phải có hướng dẫn lại, và phản hồi thường rất hữu ích. Ở phụ nữ < 75 tuổi, tỷ lệ chữa khỏi là 10 đến 25%, và cải thiện triệu chứng ở 40 đến 50%, đặc biệt nếu bệnh nhân có động lực và quyết tâm; tập bài tập theo hướng dẫn; và nhận được các hướng dẫn bằng văn bản, theo dõi và khuyến khích bệnh nhân hoặc cả hai. Cơ sàn chậu yếu hoặc rối loạn chức năng thường có thể được tăng cường thông qua các chương trình vật lý trị liệu chuyên biệt do những người có chuyên môn trong lĩnh vực này hướng dẫn.

Kích thích đáy chậu là một phiên bản tự động của bài tập Kegel; nó sử dụng dòng điện để ức chế bàng quang tăng hoạt và co các cơ chậu ở vùng chậu. Ưu điểm là cải thiện sự tuân thủ và sự co của cơ xương chậu đúng, nhưng những lợi ích của việc thay đổi hành vi đơn độc vẫn chưa rõ ràng.

Thuốc thường rất hữu ích (xem bảng Thuốc được sử dụng để điều trị chứng mất kiểm soát Thuốc được sử dụng để điều trị sự tiểu không tự chủ

Tại sao không được nhịn tiểu
). Thuốc được sử dụng để điều trị sự tiểu không tự chủ Các loại thuốc này bao gồm thuốc kháng cholinergic và kháng muscarinic, giúp giãn cơ trơn bàng quang, và các chất chủ vận alpha, làm tăng trương lực cơ thắt. Thuốc có tác dụng kháng cholinergic mạnh nên được sử dụng một cách thận trọng ở người cao tuổi. Các chất đối kháng alpha và các chất ức chế 5-alpha-reductase có thể được sử dụng để điều trị tắc nghẽn đường ra ở nam giới với tiểu gấp hay tiểu không tự chủ. Một số loại thuốc này được sử dụng ngoài nhãn.

Tại sao không được nhịn tiểu

Điều trị nhằm mục đích giảm bàng quang tăng hoạt; bắt đầu bằng tập luyện bàng quang, các bài tập Kegel, và kỹ thuật thư giãn (1 Tài liệu tham khảo về điều trị Tiểu không tự chủ hoặc tiểu són là tình trạng mất hoạt động tự chủ của việc tiểu tiện; một số chuyên gia cho rằng nó chỉ tồn tại khi một bệnh nhân nghĩ rằng đó là một vấn đề. Rối loạn này được... đọc thêm ). Đáp ứng vô thức của cơ thể Phản hồi sinh học Đối với phản hồi sinh học, một loại y học tâm-thân, các thiết bị điện tử được sử dụng để cung cấp thông tin cho bệnh nhân về các chức năng sinh học (nhịp tim, BP, hoạt động của cơ, nhiệt độ... đọc thêm có thể được sử dụng với các phương pháp điều trị này. Thuốc cũng có thể cần thiết, cũng như có thể tự đặt ống thông tiểu ngắt quãng (ví dụ, khi thể tích nước tiểu tồn dư sau khi đi tiểu lớn). Việc kích thích thần kinh cùng Tiểu gấp không tự chủ , trị liệu tại chỗ nội bàng quang và phẫu thuật được sử dụng không phổ biến.

Tập luyện bàng quang giúp bệnh nhân dung nạp và ức chế các cơn co thắt cơ trơn bàng quang. Các khoảng thời gian giữa các lần đi tiểu được kéo dài dần dần (ví dụ, 30 phút mỗi 3 ngày để duy trì sự kiểm soát nước tiểu) để cải thiện khả năng chịu đựng các cơn co thắt bàng quang. Kỹ thuật thư giãn có thể cải thiện đáp ứng về cảm xúc và sinh lý với tiểu gấp. Thư giãn, đứng nguyên ở vị trí hoặc ngồi xuống (thay vì việc vội vã đi vệ sinh), và siết chặt cơ đáy chậu có thể giúp bệnh nhân trấn áp sự thôi thúc đi tiểu.

Thuốc (xem bảng Thuốc điều trị mất kiểm soát Thuốc được sử dụng để điều trị sự tiểu không tự chủ

Tại sao không được nhịn tiểu
) nên bổ sung, không thay thế, thay đổi hành vi. Loại thuốc được sử dụng phổ biến nhất là oxybutynin và tolterodine; cả hai đều có tính kháng cholinergic và kháng muscarinic và có sẵn trong các dạng phóng thích kéo dài có thể được uống một lần/ngày. Oxybutynin có sẵn dạng một miếng dán da, thay hai lần/tuần cũng như các gel bôi tại chỗ lên da có thể dùng hàng ngày.

Các thuốc mới có tính chất kháng cholinergic và kháng muscarinic bao gồm solifenacin và darifenacin, được dùng đường uống một lần mỗi ngày, và trospium được dùng một lần mỗi ngày hoặc 2 lần/ngày. Thuốc có thể được dùng để ngăn chặn các triệu chứng tiểu gấp do bàng quang tăng hoạt (hoạt động quá mức) với tình trạng co bóp bất thường. Vibegron là một thuốc chủ vận beta-3 adrenergic được sử dụng để điều trị bàng quang hoạt động quá mức với các triệu chứng tiểu không tự chủ, tiểu gấp và tiểu dắt (2 Tài liệu tham khảo về điều trị Tiểu không tự chủ hoặc tiểu són là tình trạng mất hoạt động tự chủ của việc tiểu tiện; một số chuyên gia cho rằng nó chỉ tồn tại khi một bệnh nhân nghĩ rằng đó là một vấn đề. Rối loạn này được... đọc thêm ). Thuốc có thể khởi phát nhanh chóng (ví dụ oxybutynin dạng tác dụng ngay) có thể được sử dụng dự phòng nếu chứng tiểu không tự chủ được xảy ra vào những thời điểm có thể dự đoán được. Sự kết hợp thuốc có thể làm tăng cả hiệu quả và tác dụng phụ, nên hạn chế phối hợp thuốc ở người cao tuổi. OnabotulinumtoxinA được điều trị bằng tiêm qua nội soi bàng quang vào cơ trơn bàng quang và rất hiệu quả trong điều trị chứng tiểu không tự chủ mà ít đáp ứng với các liệu pháp điều trị khác ở bệnh nhân có các nguyên nhân thần kinh (ví dụ, đa xơ cứng Xơ cứng rải rác (MS) Xơ cứng rải rác (MS) được đặc trưng bởi mất các mảng myelin ở não và tủy sống. Các triệu chứng thường gặp gồm những bất thường về vận nhãn, dị cảm, yếu cơ, co cứng, rối loạn tiểu tiện và rối... đọc thêm

Tại sao không được nhịn tiểu
, rối loạn chức năng tủy sống Chấn thương cột sống Chấn thương cột sống có thể gây thương tích đến tủy sống, đốt sống, hoặc cả hai. Thỉnh thoảng, tổn thương dây thần kinh kèm theo. Giải phẫu các cột của cột sống được xem xét ở nơi khác. Tổn... đọc thêm
Tại sao không được nhịn tiểu
).

Kích thích thần kinh cùng được chỉ định cho những bệnh nhân bị tiểu gấp không tự chủ không đáp ứng với các phương pháp điều trị khác. Thần kinh cùng được cho là có tác dụng ức chế trung tâm cảm giác bàng quang. Thủ thuật bắt đầu bằng kích thích rễ thần kinh S3 qua da ít nhất 3 ngày; nếu bệnh nhân đáp ứng, máy kích thích thần kinh được cấy vĩnh viễn dưới da mông.

Kích thích thần kinh chày sau (PTNS) là một kỹ thuật tương tự điều chế điện thế thần kinh để điều trị rối loạn chức năng tiểu tiện, được phát triển như một phương pháp thay thế ít xâm lấn hơn phương pháp kích thích thần kinh cùng truyền thống. Một mũi kim được đưa vào phía trên mắt cá trong gần dây thần kinh chày sau, tiếp đó cung cấp kích thích điện thế thấp trong 30 phút hàng tuần trong khoảng 10 đến 12 tuần. Hiệu quả kéo dài của PTNS là không chắc chắn.

Phẫu thuật là phương thức cuối cùng, thường chỉ được sử dụng cho những bệnh nhân trẻ tuổi bị tiểu gấp không tự chủ rất nặng mà không đáp ứng với các phương pháp điều trị khác. Phẫu thuật tạo hình bàng quang, trong đó một phần của ruột được khâu vào bàng quang để tăng dung tích bàng quang, là phổ biến nhất. Tự đặt ống thông tiểu ngắt quãng có thể là bắt buộc nếu phẫu thuật tạo hình bàng quang làm yếu co thắt bàng quang hoặc phối hợp kém với áp lực ổ bụng (nghiệm pháp Valsalva) với sự giãn cơ thắt. Có thể làm thủ thuật cắt bỏ cơ trơn bàng quang để giảm các cơn co thắt không mong muốn. Cuối cùng, chuyển dòng nước tiểu có thể được tiến hành để điều trị cho bệnh nhân. Lựa chọn các phương pháp dựa trên sự hiện diện của các rối loạn khác, những hạn chế về thể chất, và sở thích của bệnh nhân.

Thuốc (xem bảng Thuốc điều trị mất kiểm soát Thuốc được sử dụng để điều trị sự tiểu không tự chủ

Tại sao không được nhịn tiểu
) bao gồm pseudoephedrine, có thể hữu ích ở nữ giới yếu đường ra; imipramine, có thể được sử dụng cho stress hỗn hợp và tiểu gấp không tự chủ hoặc một trong hai tình trạng trên; tương tự với duloxetine. Nếu tiểu không tự chủ dưới áp lực do viêm teo niệu đạo, thuốc bôi estrogen (0,3 mg liên hợp hoặc 0,5 mg estradiol một lần/ngày trong 3 tuần, sau đó hai lần/tuần sau) thường hiệu quả.

Phương pháp tập luyện sử dụng nón âm đạo – hiện đang được nghiên cứu – các thiết bị hình nón có độ nặng tăng dần được đưa vào âm đạo và giữ lại trong 15 phút x 2 lần/ngày tạo co thắt cơ đáy chậu.

Việc điều trị phụ thuộc vào nguyên nhân gây ra tắc nghẽn đường ra, giảm hoạt của cơ trơn bàng quang, hoặc cả hai.

  • Đi tiểu hai lần (cố gắng làm rỗng bàng quang lần thứ hai trước khi rời khỏi phòng vệ sinh)

  • Nghiệm pháp Valsalva

  • Ép lên vùng trên xương mu [Phương pháp Credé] trong quá trình đi tiểu

Các phương pháp điều trị bổ sung có thể bao gồm: giảm co thắt bàng quang và thúc đẩy việc rỗng bàng quang gồm kích thích điện và bethanechol, chủ vận cholinergic. Tuy nhiên, bethanechol thường không hiệu quả và có tác dụng phụ (xem bảng Thuốc điều trị mất kiểm soát Thuốc được sử dụng để điều trị sự tiểu không tự chủ

Tại sao không được nhịn tiểu
).

  • 1. Lightner DJ,Gomelsky A, Souter L, et al: Diagnosis and treatment of overactive bladder (non-neurogenic) in adults: AUA/SUFU Guideline Amendment 2019. J Urol 202(3):558-563, 2019. doi: 10.1097/JU.0000000000000309

  • 2. Staskin D, Frankel J, Varano S, et al: International phase III, randomized, double-blind, placebo and active controlled study to evaluate the safety and efficacy of vibegron in patients with symptoms of overactive bladder: EMPOWUR. J Urol 204(2):316-324, 2020. doi: 10.1097/JU.0000000000000807

  • 3. Kobashi KC, Albo ME, Dmochowski RR, et al: Surgical treatment of female stress urinary incontinence: AUA/SUFU guideline. J Urol 198(4):875-883, 2017. doi: 10.1016/j.juro.2017.06.061

  • Cần chủ động hỏi bệnh nhân về triệu chứng tiểu không tự chủ, bởi họ sẽ không tự trình bày về vấn đề này.

  • Tiểu không tự chủ không phải là hậu quả của lão hóa thông thường và cần được tiến hành khảo sát.

  • 4 loại tiểu không tự chủ là tiểu gấp không tự chủ, tiểu không tự chủ dưới áp lực, tiểu không tự chủ do bàng quang đầy, và tiểu không tự chủ do rối loạn chức năng.

  • Nhiều nguyên nhân gây tiểu không tự chủ kéo dài vẫn có thể đảo ngược được.

  • Ít nhất là xét nghiệm tổng phân tích nước tiểu, cấy nước tiểu, BUN và creatinine huyết thanh, và đo thể tích nước tiểu tồn dư sau khi đi tiểu trên tất cả các bệnh nhân tiểu không tự chủ.

  • Xem xét tập luyện bàng quang và các bài tập Kegel.

  • Liệu pháp dùng thuốc trực tiếp điều chỉnh cơ chế rối loạn chức năng bàng quang.