Phụ nữ nuôi con dưới 36 tháng tuổi phạm tội

nam dương   -   Thứ năm, 19/11/2020 14:00 (GMT+7)

Trên đây là nội dung câu hỏi của bạn đọc có email hongchucxx@xx nhờ Văn phòng Tư vấn pháp luật Báo Lao Động tư vấn.

Văn phòng Tư vấn pháp luật Báo Lao Động trả lời:

Điều 11 Luật Đặc xá 2018 quy định về điều kiện của người được đề nghị đặc xá như sau:

1. Người đang chấp hành án phạt tù có thời hạn, người bị kết án phạt tù chung thân nhưng đã được giảm xuống tù có thời hạn được đề nghị đặc xá phải có đủ các điều kiện sau đây:

a) Có nhiều tiến bộ, có ý thức cải tạo tốt và được xếp loại chấp hành án phạt tù khá hoặc tốt theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự;

b) Đã chấp hành án phạt tù được một thời gian do Chủ tịch Nước quyết định nhưng ít nhất là một phần ba thời gian đối với trường hợp bị phạt tù có thời hạn, nếu trước đó đã được giảm thời hạn chấp hành án phạt tù thì thời hạn được giảm không được tính vào thời gian đã chấp hành án phạt tù; đã chấp hành án phạt tù ít nhất là 14 năm đối với trường hợp bị phạt tù chung thân đã được giảm xuống tù có thời hạn, nếu sau khi đã được giảm xuống tù có thời hạn mà tiếp tục được giảm thời hạn chấp hành án phạt tù thì thời hạn được giảm sau đó không được tính vào thời gian đã chấp hành án phạt tù.

Người bị kết án về tội phá hoại việc thực hiện các chính sách kinh tế - xã hội; tội phá hoại chính sách đoàn kết; tội tổ chức, cưỡng ép, xúi giục người khác trốn đi nước ngoài hoặc trốn ở lại nước ngoài nhằm chống chính quyền nhân dân; tội trốn đi nước ngoài hoặc trốn ở lại nước ngoài nhằm chống chính quyền nhân dân; người bị kết án từ 10 năm tù trở lên về một trong các tội quy định tại chương các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người của Bộ luật Hình sự do cố ý hoặc người bị kết án từ 07 năm tù trở lên về tội cướp tài sản; tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản; tội sản xuất trái phép chất ma túy; tội mua bán trái phép chất ma túy; tội chiếm đoạt chất ma túy của Bộ luật Hình sự đã chấp hành án phạt tù được một thời gian do Chủ tịch Nước quyết định nhưng ít nhất là một phần hai thời gian đối với trường hợp bị kết án phạt tù có thời hạn, nếu trước đó đã được giảm thời hạn chấp hành án phạt tù thì thời hạn được giảm không được tính vào thời gian đã chấp hành án phạt tù; đã chấp hành án phạt tù ít nhất là 17 năm đối với trường hợp bị phạt tù chung thân nhưng đã được giảm xuống tù có thời hạn, nếu sau khi đã được giảm xuống tù có thời hạn mà tiếp tục được giảm thời hạn chấp hành án phạt tù thì thời hạn được giảm sau đó không được tính vào thời gian đã chấp hành án phạt tù;

c) Đã chấp hành xong hình phạt bổ sung là phạt tiền, đã nộp án phí;

d) Đã thi hành xong nghĩa vụ trả lại tài sản, bồi thường thiệt hại, nghĩa vụ dân sự khác đối với người bị kết án phạt tù về các tội phạm tham nhũng hoặc tội phạm khác do Chủ tịch Nước quyết định trong mỗi lần đặc xá;

đ) Đã thi hành xong hoặc thi hành được một phần nghĩa vụ trả lại tài sản, bồi thường thiệt hại, nghĩa vụ dân sự khác nhưng do lâm vào hoàn cảnh kinh tế đặc biệt khó khăn thuộc trường hợp chưa có điều kiện thi hành tiếp phần còn lại theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự đối với người bị kết án phạt tù không thuộc trường hợp quy định tại điểm d khoản này.

Trường hợp phải thi hành nghĩa vụ trả lại tài sản, bồi thường thiệt hại, nghĩa vụ dân sự khác đối với tài sản không thuộc sở hữu của Nhà nước thì phải được người được thi hành án đồng ý hoãn thi hành án hoặc không yêu cầu thi hành án đối với tài sản này;

e) Khi được đặc xá không làm ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự;

g) Không thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điều 12 của luật này.

2. Người đang được tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù được đề nghị đặc xá phải có đủ các điều kiện sau đây:

a) Có nhiều tiến bộ, có ý thức cải tạo tốt và được xếp loại chấp hành án phạt tù khá hoặc tốt theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự trong thời gian chấp hành án phạt tù trước khi có quyết định tạm đình chỉ;

b) Đã có thời gian chấp hành án phạt tù quy định tại điểm b khoản 1 điều này;

c) Các điều kiện quy định tại các điểm c, d, đ, e và g khoản 1 điều này;

d) Chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật trong thời gian được tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù.

3. Người có đủ các điều kiện quy định tại các điểm a, c, d, đ, e và g khoản 1, các điểm a, c và d khoản 2 điều này được Chủ tịch Nước quyết định thời gian đã chấp hành án phạt tù ngắn hơn so với thời gian quy định tại điểm b khoản 1 điều này khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:

a) Đã lập công lớn trong thời gian chấp hành án phạt tù, có xác nhận của trại giam, trại tạm giam, cơ quan thi hành án hình sự công an cấp huyện hoặc cơ quan có thẩm quyền khác;

b) Người có công với cách mạng theo quy định của pháp luật về ưu đãi người có công với cách mạng; người được tặng thưởng danh hiệu Dũng sĩ trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước; người được tặng thưởng danh hiệu “Anh hùng Lao động”; người được tặng thưởng một trong các loại Huân chương, Huy chương Kháng chiến; cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ và người có công nuôi dưỡng liệt sĩ khi còn nhỏ; con của Bà mẹ Việt Nam anh hùng; cha, mẹ, vợ, chồng, con của người có công giúp đỡ cách mạng được tặng Kỷ niệm chương “Tổ quốc ghi công” hoặc Bằng “Có công với nước”;

c) Người đang mắc bệnh hiểm nghèo, người đang ốm đau thường xuyên mà không tự phục vụ bản thân;

d) Khi phạm tội là người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp quy định tại khoản 4 điều này;

đ) Người từ đủ 70 tuổi trở lên;

e) Có hoàn cảnh gia đình đặc biệt khó khăn và bản thân là lao động duy nhất trong gia đình;

g) Phụ nữ có thai hoặc có con dưới 36 tháng tuổi đang ở với mẹ trong trại giam, trại tạm giam, nhà tạm giữ;

h) Người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng theo quy định của pháp luật về người khuyết tật; người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi theo quy định của pháp luật về dân sự;

i) Trường hợp khác do Chủ tịch Nước quyết định.

4. Người dưới 18 tuổi đang chấp hành án phạt tù có đủ điều kiện quy định tại điểm a và điểm g khoản 1 điều này hoặc người dưới 18 tuổi đang được tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù có đủ điều kiện quy định tại điểm g khoản 1, điểm a và điểm d khoản 2 điều này được Chủ tịch Nước quyết định thời gian đã chấp hành án phạt tù ngắn hơn so với thời gian quy định tại điểm b khoản 1 điều này.

Điều 12 Luật Đặc xá 2018 quy định: Các trường hợp không được đề nghị đặc xá

Người có đủ điều kiện quy định tại Điều 11 của luật này không được đề nghị đặc xá khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:

1. Bị kết án phạt tù về tội phản bội Tổ quốc; tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân; tội gián điệp; tội xâm phạm an ninh lãnh thổ; tội bạo loạn; tội khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân; tội phá hoại cơ sở vật chất - kỹ thuật của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; tội làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; tội phá rối an ninh; tội chống phá cơ sở giam giữ; tội khủng bố hoặc một trong các tội quy định tại chương các tội phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh của Bộ luật Hình sự;

2. Bản án, phần bản án hoặc quyết định của tòa án đối với người đó đang bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm theo hướng tăng nặng trách nhiệm hình sự;

3. Đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội khác;

4. Trước đó đã được đặc xá;

5. Có từ 2 tiền án trở lên;

6. Trường hợp khác do Chủ tịch Nước quyết định.

Căn cứ vào đây, bạn có thể biết có đủ điều kiện để hưởng đặc xá hay không.

Tư vấn pháp luật

Hãy liên hệ tổng đài tư vấn pháp luật miễn phí 19008088 - gọi đường dây nóng: 0979310518; 0961360559 để nhận được câu trả lời nhanh chóng, kịp thời hoặc gửi email cho chúng tôi: hoặc đến số 6 Phạm Văn Bạch, Hà Nội và 198 Nguyễn Thị Minh Khai, P6, Q3, TPHCM để được Luật sư tư vấn trực tiếp vào các ngày thứ Ba, thứ Sáu hàng tuần.

Quy định của pháp luật

Chính sách hình sự nhân đạo luôn được Nhà nước ta quan tâm quy định để áp dụng đối với người phạm tội. Trong tất cả các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến giải quyết vụ án hình sự đều thể hiện các quy định có lợi cho người bị buộc tội và chấp hành án. Trong Bộ luật Hình sự (BLHS), Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) và các văn bản hướng dẫn áp dụng đều thể hiện rõ chính sách hình sự nhân đạo này.

Một trong những quy định này được thể hiện khi giải quyết vụ án hình sự là áp dụng quy định có lợi liên quan đến người phạm tội là phụ nữ có thai hoặc phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi.

– Các quy phạm trong BLHS điều chỉnh nhiều nội dung liên quan đến áp dụng quy định có lợi cho người bị buộc tội là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, cụ thể:

+ Khi tuyên hình phạt cải tạo không giam giữ, không áp dụng biện pháp lao động phục vụ cộng đồng đối với phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 06 tháng tuổi.

+ Không áp dụng hình phạt tử hình đối với người phạm tội là phụ nữ có thai, phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi khi phạm tội hoặc khi xét xử. Không thi hành án tử hình đối với người bị kết án là phụ nữ có thai hoặc phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi.

+ Áp dụng tình tiết giảm nhẹ đối với người phạm tội là phụ nữ có thai.

+ Điều kiện về thời gian chấp hành án để được xem xét tha tù trước thời hạn có điều kiện đối với phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi được xem xét ngắn hơn, chỉ phải chấp hành được ít nhất là một phần ba mức phạt tù có thời hạn hoặc ít nhất là 12 năm đối với trường hợp bị phạt tù chung thân nhưng đã được giảm xuống tù có thời hạn.

+ Người bị kết án phạt tù là phụ nữ có thai hoặc nuôi con dưới 36 tháng tuổi được xem xét cho hoãn chấp hành hình phạt tù cho đến khi con đủ 36 tháng tuổi.

+ Người bị kết án phạt tù là phụ nữ có thai hoặc nuôi con dưới 36 tháng tuổi được xem xét cho tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù cho đến khi con đủ 36 tháng tuổi.

– Trong BLTTHS quy định về áp dụng biện pháp tạm giam, thể hiện rõ, đối với bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi mà có nơi cư trú và lý lịch rõ ràng thì không tạm giam mà áp dụng biện pháp ngăn chặn khác. Tuy nhiên, bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc nuôi con dưới 36 tháng tuổi sẽ bị tạm giam nếu thuộc một trong các trường hợp: bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã; tiếp tục phạm tội; có hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm hoặc người thân thích của những người này; bị can, bị cáo về tội xâm phạm an ninh quốc gia và có đủ căn cứ xác định nếu không tạm giam đối với họ thì sẽ gây nguy hại đến an ninh quốc gia.

Tất cả các quy định trong BLHS và BLTTHS như trên đều nhằm mục đích chính là tạo điều kiện thuận lợi cho người mẹ có điều kiện để chăm sóc con được tốt nhất; theo đó sẽ thể hiện rõ chính sách hình sự nhân đạo của Nhà nước về bảo vệ quyền lợi của phụ nữ và trẻ em. Tuy nhiên, bên cạnh những quy định có lợi này cho người phạm tội là phụ nữ có thai hoặc nuôi con dưới 36 tháng tuổi, trong thực tiễn áp dụng, chế định này xảy ra bất cập dẫn đến việc xử lý chưa nghiêm đối với hành vi phạm tội, cũng như trong phòng, chống tội phạm.

Một số bất cập xảy ra trong thực tế áp dụng

Trong thực tế áp dụng những quy định của pháp luật đã nảy sinh một số bất cập.

– Thứ  nhất, việc nuôi con dưới 36 tháng tuổi, không chỉ riêng là người mẹ, mà trong thực tế vẫn có thể là do người cha nuôi dưỡng. Vì có nhiều trường hợp vì lý do nào đó, trẻ dưới 36 tháng tuổi có thể khi mới sinh ra người mẹ qua đời thì chỉ còn lại người cha nuôi dưỡng. Trong trường hợp này, để đảm bảo quyền lợi của đứa trẻ thì việc người cha trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con là vấn đề đương nhiên và cần thiết. Nhưng trong các quy định hiện hành không xác định người cha được áp dụng chế định có lợi này nếu có hành vi phạm tội. Nếu cho rằng, việc quy định chế định này là nhằm đảm bảo quyền lợi của người mẹ, vì “mang nặng, đẻ đau” nên được xem xét tính nhân đạo đối với người mẹ, thì bản chất của chế định này chỉ nhằm bảo vệ quyền lợi của người mẹ, chứ không nhằm mục đích bảo vệ quyền lợi cho đứa trẻ.

– Thứ hai, trường hợp nhận trẻ dưới 36 tháng tuổi làm con nuôi; hoặc ông bà, chú bác, cô dì… nuôi cháu dưới 36 tháng tuổi khi không may cha mẹ qua đời… Tất cả những trường hợp này về bản chất đều thuộc trường hợp nuôi con dưới 36 tháng tuổi. Trong các quy định chưa xác định rõ những trường hợp này. Tuy nhiên, trong quy định hiện hành thể hiện “phụ nữ nuôi con dưới 36 tháng tuổi”, quy định này không thể hiện rõ là con đẻ hay con nuôi; do vậy, nếu trên thực tế có việc phụ nữ nuôi con (là con nuôi) cũng có thể xem xét để áp dụng theo quy định hiện hành.

– Thứ ba, thời gian tính để thực hiện các thủ tục tố tụng tiếp theo đối với phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi trong một số trường hợp cũng chưa phù hợp. Trên thực tế việc mang thai, có nhiều trường hợp sẽ sẩy thai và cũng có trường hợp việc nuôi con vì lý do nào đó cũng dẫn đến đứa bé tử vong trước khi đủ 36 tháng tuổi. Với các quy định hiện hành như đối với trường hợp cho hoãn chấp hành án phạt tù hoặc tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù thì phải đảm bảo thời gian đủ như trên thực tế đưa trẻ đủ 36 tháng tuổi (kể cả trong trường hợp mang thai nhưng bị sẩy thai hoặc đứa trẻ chết trước khi đủ 36 tháng tuổi) thì mới hết thời gian hoãn hoặc tạm đình chỉ thi hành án hình phạt tù. Rõ ràng, khi áp dụng như quy định là không phù hợp; quy định chỉ phù hợp khi đứa trẻ thành thai và sinh ra nuôi đến khi đủ 36 tháng tuổi hoặc đứa trẻ được nuôi đến khi đủ 36 tháng tuổi.

Kiến nghị sửa đổi

Kiến nghị sửa đổi, bổ sung các vấn đề liên quan đến chế định áp dụng đối với phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi:

Một là, để đảm bảo tính nhân đạo liên quan đến việc tạo điều kiện đứa trẻ dưới 36 tháng tuổi được chăm sóc và phát triển ổn định trong 36 tháng tuổi đầu đời; bên cạnh đó để ghi nhận công lao đối với người trực tiếp chăm sóc đứa trẻ, nếu không may có hành vi phạm tội thì được xem xét sự khoan hồng của pháp luật. Theo đó, trong các quy định liên quan đến chế định “phụ nữ có thai hoặc phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi” cần sửa đổi, bổ sung lại: “phụ nữ có thai hoặc người trực tiếp nuôi trẻ em dưới 36 tháng tuổi”. Việc sửa đổi, bổ sung này, đảm bảo phụ nữ có thai và người mẹ trực tiếp nuôi con hoặc người cha trực tiếp nuôi con hoặc bất kỳ người nào khác trực tiếp nuôi đứa trẻ dưới 36 tháng tuổi đều được hưởng chính sách nhân đạo này.

Hai là, các quy định liên quan đến hoãn chấp hành hình phạt tù và tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù cần sửa đổi, bổ sung quy định “Phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, thì được hoãn cho đến khi con đủ 36 tháng tuổi” theo hướng mở rộng đối tượng áp dụng và quy định rõ thêm về điều kiện áp dụng. Quy định này có thể sửa đổi, bổ sung như sau: “Phụ nữ có thai hoặc người đang nuôi trẻ em dưới 36 tháng tuổi, thì được hoãn cho đến khi đứa trẻ đủ 36 tháng tuổi. Trường hợp thai nhi chết trước khi sinh ra, thì hoãn đến đủ (06 tháng) kể từ ngày biết thai nhi chết; trường hợp đứa trẻ chết trước khi đủ 36 tháng tuổi thì hoãn đến đủ (ba tháng) kể từ khi đứa trẻ chết”.

Ba là, nếu không sửa đổi, bổ sung theo hướng mở rộng đối tượng áp dụng thì quy định hiện hành phải thể hiện rõ lại. Cụ thể, phải bổ sung rõ lại là “phụ nữ nuôi con đẻ dưới 36 tháng tuổi”.

Tóm lại, chế định về áp dụng các quy định có lợi cho người phạm tội là phụ nữ có thai hoặc phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi là một trong những chính sách hình sự nhân đạo, khoan hồng của Đảng và Nhà nước ta được quy định trong BLHS và BLTTHS. Tuy nhiên, để đảm bảo áp dụng thống nhất chế định này đối với người phạm tội thì cần quy định chặt chẽ, đảm bảo phù hợp, điều chỉnh toàn diện và đảm bảo tính khả thi. Do vậy, các quy định liên quan đến chế định này cần sửa đổi, bổ sung theo hướng mở rộng đối tượng được áp dụng và đảm bảo chặt chẽ hơn về điều kiện áp dụng./.

Nguồn: Theo Tạp chí Tòa án