Phân tích khổ 1 2 viếng lăng bác

Phân tích khổ 1 2 viếng lăng bác

Phân tích 2 khổ thơ đầu bài Viếng lăng Bác là một trong những đề văn nghị luận. Bài viết cung cấp cho thầy cô và các em học sinh tư liệu này.

Đề 1: Phân tích 2 khổ thơ đầu bài Viếng lăng Bác

A.Mở bài Phân tích 2 khổ thơ đầu bài Viếng lăng Bác

Trái tim con người có sức mạnh phi thường và kì diệu. Ngạn ngữ Pháp có câu: “Mọi điều xuất phát từ trái tim”. Trước khi rỏ từng giọt tâm hồn ra ngòi bút để viết nên những câu chữ đẹp đẽ tinh khôi, mỗi nhà thơ luôn để dòng tư tưởng thấm xuyên qua con tim thổn thức để viết nên những câu chữ đẹp. Và với sự nghiệp sáng tác của Viễn Phương thì ông đã hướng cái nhìn sâu sắc của mình về con người, cuộc sống thật thấu đáo. Có thể thấy rằng Viếng lăng Bác là một bài thơ thể hiện cảm xúc bồi hồi, xúc động, tự hào lại vô cùng biết ơn, thành kính của Viễn Phương khi vào thăm lăng Bác. Và đoạn trích dưới đây sẽ minh chứng rất rõ điều đó:

“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi, hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ.
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân”
B. Thân bài Phân tích 2 khổ thơ đầu bài Viếng lăng Bác
1.Khái quát:

Bài thơ được viết vào tháng 4 năm 1976, một năm sau ngày giải phóng miền Nam,đất nước vừa được thống nhất. Đó cũng là khi lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa được khánh thành, đáp ứng nguyện vọng tha thiết của nhân dân cả nước là được đến viếng lăng Bác. Tác giả là một người con của miền Nam, suốt ba mươi năm hoạt động và chiến đấu ở chiến trường Nam Bộ xa xôi. Cũng như đồng bào và chiến sĩ miền Nam, nhà thơ mong mỏi được ra thăm Bác và chỉ đến lúc này, khi đất nước đã thống nhất, ông mới có thể thực hiện được ước nguyện ấy. Tình cảm đối với Bác trở thành nguồn cảm hứng để ông sáng tác bài thơ này.

2.Cảm nhận
2.1. Khổ 1

 * LĐ 1:   Mở đầu bài thơ, tác giả đã giúp người đọc cảm nhận được những tình cảm, cảm xúc của nhà thơ khi lần đầu tiên được ra thăm lăng Bác:

Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi, hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng”

Bài thơ được bắt đầu bằng một lời kể hết sức giản dị nhưng chứa đựng trong nó biết bao điều sâu xa. Nhà thơ xưng “con” và gọi chủ tịch Hồ Chí Minh là Bác. Đây là cách xưng hô quen thuộc của những người con của vùng đất Nam bộ đồng thời nó cũng gửi gắm biết bao nhiêu tình cảm và nỗi niềm xúc động của nhà thơ. Trong ngôn ngữ của nhân loại thì có lẽ “con” là cách xưng hô thiêng liêng và gần gũi nhất bởi ở đó có cả tình thân máu mủ ruột già. Cách xưng hô của Viễn Phương khiến ta nhớ đến những vần thơ của Tố Hữu:

“Người là cha, là bác, là anh
Quả tim lớn lọc trăm dòng máu nhỏ”

Nhà thơ lúc này giống như một đứa con xa cha lâu ngày, ngay trở về thăm cha với bao nghẹn ngào xúc động. Chỉ với một chữ “con” ấy, người đọc cũng đủ cảm nhận được lòng thành kính và niềm biết ơn vô hạn của nhà thơ đối với Bác Hồ. Và cũng trong câu thơ mở đầu này, nếu để ý người đọc có thể nhận thấy tác giả đã sử dụng biện pháp tu từ nói giảm nói tránh khi sử dụng từ “thăm” thay cho từ “viếng” ở nhan đề bài thơ. Viếng có nghĩa là thắp hương, phúng viếng người đã khuất còn “ thăm” là thăm hỏi, trò chuyện  với người vẫn còn sống trên đời.

Với cách dùng từ như thế, Viễn Phương đã làm vơi đi những đau buồn, mất mát cho người đọc khi Bác đã không còn. Tuy nhiên không chỉ có thế, lời thơ ấy còn là lời khẳng định Bác sẽ còn sống mãi trong trái tim của mỗi con người VN.

Ra thăm lăng Bác, điều đầu tiên gây ấn tượng cho tác giả là hình ảnh “hàng tre”. Miêu tả hình ảnh này, tác giả viết:

“Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa vẫn thẳng hàng”

Hàng tre trong câu thơ này là một hình ảnh giàu ý nghĩa là gợi nhiều liên tưởng trong lòng người đọc. Đó trước hết là một hình ảnh thực. Đó là rặng tre đằng ngà được trồng bên lăng Bác. Song không chỉ có thế, đây còn là một hình ảnh ẩn dụ đầy sáng tạo. Nó làm ta liên tưởng đến những lũy tre xanh mát ở làng quê VN gợi cuộc sống thanh bình yên ả nơi thôn dã.

Hình ảnh ấy còn là biểu tượng của con người và dân tộc Việt Nam bền bỉ, dẻo dai, bất khuất, kiên cường. Hàng tre ấy cũng như những con người VN ta dù phải trải qua bao “bão táp mưa sa” thì vẫn “đứng thẳng hàng”. Câu thơ như một lời khẳng định dân tộc ta dù có gian khổ, khó khăn thì vẫn hiên ngãng, kiên cường, bất khuất. Ý thơ có sự đồng điệu với những câu thơ trong bài “Tre Việt Nam” của nhà thơ Nguyễn Duy:

“Ở đâu tre cũng xanh tươi
Cho dù đất sỏi đá vôi bạc màu”

Có thể thấy rằng, khổ thơ đầu tiên đã để lại rất nhiều ấn tượng trong lòng bạn đọc. bằng những từ ngữ và hình ảnh chọn lọc, lời thơ cho ta nhận ra niềm xúc động của nhà thơ khi được ra lăng viếng Bác. Đồng thời cũng qua đó ta cảm nhận được lòng thành kính và niềm biết ơn vô hạn của Viễn Phương dành cho Bác Hồ kính yêu.

2.2. Khổ 2
         Và tình cảm ấy lại tiếp tục được thể hiện ở khổ thơ thứ 2 thông qua các hình ảnh ẩn dụ rất đẹp:

“Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ” Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ

Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân”

Đề bài: Cảm nhận của em về hai khổ thơ đầu bài thơ Viếng Lăng Bác của Viễn Phương.

***

Bài văn hay và xúc động cảm nhận về hai khổ đầu bài Viếng lăng Bác

Viễn Phương cũng là người có may mắn được nhiều năm sống và làm việc gần gũi với Bác Hồ. Đặc biệt, đối với Bác Hồ kính yêu, nhà thơ đã có nhiều bài thơ thể hiện lòng luyến thương tiếc nhớ khâm phục tự hào về Bác Hồ mà bài “Viếng Lăng Bác” là một điển hình. Hai khổ thơ đầu thể hiện sâu sắc tình cảm ấy:

“Con ở miền Nam thăm lăng Bác Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát Ôi ! Hàng tre xanh xanh Việt Nam Bão táp mưa xa đứng thẳng hàng.

Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân…”

Bạn đang xem: Cảm nhận của em về hai khổ đầu bài thơ Viếng lăng Bác – Viễn Phương

Mở đầu bài thơ Viễn Phương đã bày tỏ cảm xúc của mình qua lời tự giới thiệu như lời tâm tình nhẹ nhàng:

“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác”.

Đại từ nhân xưng “con”, “Bác” nghe sao ngọt ngào thân thương, gần gũi đến thế. Cách xưng hô này thật gần gũi, thật thân thiết, ấm áp tình thân thương mà vẫn rất mực thành kính, thiêng liêng. Đồng thời, cũng diễn tả tâm trạng xúc động của người con ra thăm cha sau bao nhiêu năm xa cách.

“Con” ở đây cũng là cả miền Nam, là tất cả tấm lòng của đồng bào Nam Bộ đang hướng về Bác, hướng về vị cha già kính yêu của dân tộc với một niềm xúc động lớn lao. Nhà thơ sử dụng từ “thăm” thay cho từ “viếng”một cách tinh tế. “Viếng” là đến chia buồn với thân nhân người chết, thành kính phân ưu cùng tang chủ. Còn “thăm” là gặp gỡ, trò chuyện với người đang sống, là cuộc hội ngộ được mong ngóng từ lâu ngày.

Đây là cách nói giảm, nói tránh nhằm làm giảm nhẹ nỗi đau thương mất mát. Bác đã mãi mãi ra đi nhưng hình ảnh của Người vẫn còn mãi trong trái tim nhân dân miền Nam,trong lòng dân tộc. Đồng thời ý thơ còn gợi sự thân mật, gần gũi như đưa con phương xa về thăm cha, thăm người thân ruột thịt, thăm chỗ Bác nằm, thăm nơi Bác ở để thỏa lòng khát khao mong nhớ bấy lâu để tìm lại chính mình trong nỗi đau thương vô tận.

Đọc lên câu thơ, ta không không khỏi nghẹn ngào. Câu thơ không có một dụng công nghệ thuật nào nhưng lại vô cùng gợi cảm, dồn nén biết bao cảm xúc. Đó không chỉ là tình cảm riêng của nhà thơ mà còn là tình cảm chung của đồng bào miền nam, tình cảm của cả dân tộc Việt Nam. Thế hệ này tiếp nối thế hệ khác song tất cả đều có chung một tình cảm như thế với Bác Hồ kính yêu.

Với niềm sung sướng dâng trào, với niềm vui chất ngất Viễn Phương đã tập trung chiêm ngưỡng cảnh quan quanh lăng Bác:

“Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng.

Bằng bút pháp tả thực, tác giả đã giúp ta hình dung một hiện thực trong màu sương trắng mờ ảo, cảnh quan quanh lăng Bác hiện ra thật lung linh mà cũng vô cùng thú vị. Màn sương trắng là dấu hiệu của cảnh trời hãy còn sớm tinh mơ. Ấy thế mà tác giả đã có mặt tự bao giờ! Điều đó chứng tỏ Viễn Phương đã rất mong mỏi và cũng rất háo hức khi được đến thăm lăng Bác dù chỉ qua việc viếng lăng.

Trong màn sương trắng, hình ảnh gây ấn tượng nhất đối với Viễn Phương là hàng tre. Từ “hàng tre” được điệp lại hai lần trong khổ thơ. Nhờ phép dùng điệp ngữ ấy, hàng tre hiện lên vẻ đẹp đẽ vô cùng. Nó đẹp trong sắc “xanh xanh” thật tươi thắm. Kết hợp phép nhân hóa vận dụng trong dòng thơ:“Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng” giúp hình ảnh hàng tre hiện lên càng thêm đẹp đẽ vô cùng.

Trước hết, hàng tre là hình ảnh thực hết sức thân thuộc và gần gũi của làng quê, đất nước Việt Nam. Hình ảnh hàng tre còn là một biểu tượng con người, dân tộc Việt Nam kiên trung bất khuất. Thành ngữ “bão táp mưa sa”nhằm chỉ những khó khăn thử thách của lịch sử dân tộc tộc. Dáng “đứng thẳng hàng” là tinh thần đoàn kết đấu tranh, chiến đấu anh hùng, không bao giờ khuất phục của một dân tộc tuy nhỏ bé nhưng vô cùng mạnh mẽ.

Từ hình ảnh hàng tre bát ngát trong sương quanh lăng Bác, nhà thơ đã suy nghĩ, liên tưởng và mở rộng khái quát thành một hình ảnh hàng tre mang ý nghĩa ẩn dụ, biểu tượng cho sức sống bền bỉ, kiên cường, bất khuất của con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam trong lớp lớp thời gian.

Nhắc tới hình ảnh hàng tre ta không thể quên đó là một loại vũ khí vốn gắn bó với truyền thống đánh giặc thật hào hùng của dân tộc Việt Nam thân yêu này. Hình ảnh Thánh Gióng nhổ cụm tre ngà đánh tan giậc Ân còn đọng lại trong kí ức dân tộc biết bao cảm xúc. Ngô Quyền dùng cọc tre tạo thành trận địa mai phục đánh chìm tàu thuyền quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng năm nào khiến cho kẻ thù đến trăm năm sau còn kinh hồn bạc vía.

Biết bao gậy gộc tầm vong những cây chông dài vót nhọn được nhân dân, bộ đội ta vận dụng để đánh Pháp, chống Mỹ dưới lá cờ cách mạng do Bác lãnh đạo trở thành biểu tượng của tinh thần vượt khó của nhân dân ta. Nó tái hiện lại cả quá khứ hào hùng, lẫm liệt; gợi nhớ đến những chiến công hiển hách của thời đại Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung,… Nó làm hiện ra trước mắt người đọc những đau thương, mát mát, sự hi sinh của dân tộc trong cuộc chiến đấu chống xâm lược và âm mưu đồng hóa của kẻ thù.

Chỉ một khổ thơ ngắn thôi nhưng cũng đủ để thể hiện những cảm xúc chân thành, thiêng liêng của nhà thơ và cũng là của nhân dân đối với Bác kính yêu. Với cảm xúc dâng trào ấy, nhà thơ đã thả hồn liên tưởng tới hình ảnh vĩ đại khi bước đến gần lăng Bác:

“Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ Kết tràng hoa dâng bảy chín mùa xuân.”

Khổ thơ được bắt đầu bằng cụm từ chỉ thời gian: “ngày ngày” vận dụng như một điệp ngữ như muốn diễn tả hiện thực đang vận chuyển của thiên nhiên, vạn vật mà sự vận chuyển của mặt trời là một điển hình. Để diễn tả sự vận chuyển của mặt trời, Viễn Phương đã viết: “Mặt trời đi qua” và“thấy”. Hầu như Viễn Phương đã có chuyển tự nhiên chính là hoạt động“đi” của con người. Hiện thực ấy kết hợp với điệp ngữ “ngày ngày” như muốn trở thành một chúng nhân đang say sưa ngắm nhìn một đối nhân thật đẹp mà từ “thấy” đã góp phần khẳng định phép nhân hóa thật tài tình của nhà thơ đối với hình ảnh “mặt trời tự nhiên” ấy.

Hình ảnh “mặt trời đi qua trên lăng” là hình ảnh thực. Đó là mặt trời thiên tạo, là nguồn sáng của vũ trụ, nó gợi ra sự kì vĩ, sự bất tử, vĩnh hằng. Mặt trời là nguồn cội của sự sống và ánh sáng. Hình ảnh “mặt trời trong lăng”còn là một ẩn dụ đầy sáng tạo và độc đáo. Đó là hình ảnh của Bác Hồ vĩ đại. Giống như “mặt trời”, Bác Hồ cũng là nguồn nánh sáng, nguồn sức mạnh.

Ở Bác Hồ là sự kết tinh của tình yêu thương ấm áp, là ý chí vượt khó, là tinh thần bất khuất, là niềm tin tất thắng. Bác đã cùng nhân dân vượt qua trăm ngàn gian khổ, hi sinh để đi tới chiến thắng quanh vinh, trọn vẹn. Ý thơ vừa góp phần đề cao tầm vóc vĩ đại của Bác, đồng thời cũng đã miêu tả được thái độ đầy tôn kính của nhà thơ đối với Bác

Nhà thơ Tố Hữu đã so sánh Bác như: “Quả tim lớn lọc trăm dòng máu nhỏ”. Cái nghĩa, cái nhân lớn lao của Bác đã tác động mạnh mẽ, sâu xa tới mỗi số phận con người.

Nhìn dòng người đang tuần tự tiến vào thăm lăng Bác Viễn Phương đã liên tưởng đó là “tràng hoa”. Một lần nữa nhà thơ đã kết hợp hai hình ảnh thực và ẩn dụ sóng đôi nhau để miêu tả sự nhớ thương của nhân dân đối với Bác và đồng thời cũng khắc họa công ơn Bác:

“Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ Kết tràng hoa dâng bảy chín mùa xuân”.

“Tràng hoa” được kết từ dòng người đang tuần tự, trang nghiêm bước vào viếng lăng như đang dâng hương hoa lòng thơm ngát lên Bác kính yêu. Điệp ngữ “ngày ngày” cùng cấu trúc câu giống hình thức của câu thơ trước đã góp phần miêu tả thời gian cứ dần trôi qua còn dòng người cứ đến viếng lăng Bác không hết.

Hình ảnh ấy còn góp phần thể hiện tấm lòng yêu kính, biết ơn của muôn dân đối với Bác. Để rồi, cuối cùng bằng những hình ảnh hoán dụ: “bảy mươi chín mùa xuân”, Viễn Phương đã trân trọng ngợi ca cả cuộc đời Bác là một trường ca xuân đem lại cho đời, cho người niềm hạnh phúc ấm no. Hình ảnh hoán dụ ấy đồng thời cũng bày tỏ lòng tri ân của tác giả mà cũng là của tất cả mọi người đối với Bác.

Những dòng người bất tận đang ngày ngày vào lăng viếng Bác, nối kết nhau như những tràng hoa bất tận dâng lên Người. Những tràng hoa rực rỡ đó dưới ánh mặt trời của Bác đã trở thành những tràng hoa đẹp nhất dâng lên“bảy mươi chín mùa xuân” – 79 năm cuộc đời của Người với sự thành kính và mến yêu vô hạn.

Ngày nay, yêu kính, nhớ ơn Bác, toàn dân, toàn Đảng ra sức bồi đắp, xây dựng, phát triển đất nước. Riêng học sinh chúng em xin luôn tâm niệm lời nhắn nhủ của Bác “Non sông Việt Nam có tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước lên đài vinh quang sánh vai các cường quốc năm châu được hay không chính nhờ phần lớn ở công học tập của các cháu” mà cố gắng chăm ngoan ra sức học tập, rèn luyện tốt nhân cách đạo đức, mai sau góp công sức nhỏ bé của mình vào việc xây dựng, bảo vệ quê hương đất nước, đền đáp phần nào công lao vĩ đại của Bác.

Phân tích 2 khổ đầu bài Viếng lăng Bác

Viếng lăng Bác” của Viễn Phương là một bài văn xuất sắc được sáng tác vào năm 1976, bài thơ mang đậm chất trữ tình ghi lại tình cảm thành kính, sâu lắng của nhà thơ khi hòa vào dòng người đang vào viếng lăng Bác. Qua đó bài thơ được xem là tiếng nói nỗi niềm tâm sự của nhân dân giành cho Bác. Tình cảm ấy chất chứa dạt dào cho chúng ta thấy ở hai khổ thơ đầu tiên.

Khổ thơ đầu là những cảm xúc của nhà thơ khi đã đến lăng Bác, đứng trước không gian, cảnh vật bên ngoài lăng. Câu thơ đầu Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác như một thông báo giản dị mà chứa đựng bao tình cảm thân thương.

“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác

Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát

Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam

Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng”

Cách đi vào bài của tác giả thật gần gũi và thân thương bởi nhà thơ đã hết sức khéo léo giới thiệu được vị trí của quãng đường từ miền Nam xa xôi để viếng lăng Bác. Tiếng “con” mở đầu cho bài thơ được cất lên với giọng tha thiết trìu mến, thân thuộc. Đó là cách xưng hô của người dân Nam Bộ, đã bộc lộ hết sự thương nhớ ngậm ngùi của nhà thơ nói chung và toàn thể đồng bào miền Nam nói riêng.

Trong cái mênh mang của sương mù Hà Nội, qua con mắt của nhà thơ thì ta chợt thấy một hàng tre xanh bát ngát. Khi đến với Bác, đến với hàng tre của thủ đô ta như nhớ về quê nhà, nhớ về làng mạc với những nhà mái lá che ngang, rồi nhớ về tiếng ru à ơi của bà, của mẹ. Hình ảnh nhân hóa được sử dụng trong đoạn thơ này đó chính là “Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng”, không những đơn thuần là hình ảnh cây tre mà tác giả còn muốn nói rằng đó là biểu tượng bất diệt, kiên cường của con người Việt Nam chúng ta, màu xanh của cây tre là màu xanh của sức sống, của hi vọng và hòa bình. Những dòng thơ độc đáo giàu ý nghĩa tượng trưng mộc mạc chân thành.

Hàng tre xanh trồng xung quanh lăng của Bác Hồ kính yêu như muốn thay cả dân tộc canh giấc ngủ ngàn thu cho Người, thổi những làn gió mát vào trong lăng để Bác được ngủ ngon. Từ “ôi” đươc đặt đứng ở vị trí đầu câu, biểu hiện sự xúc động xen lẫn với niềm tự hào khôn xiết của tác giả. Đó chính là niềm tự hào của con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam, tự hào về người Cha đã làm nên lịch sử hào hùng của cả dân tộc.

Ở khổ thơ thứ hai làm chúng ta lắng đọng với những vần thơ mộc mạc chứa chan tình yêu thương.

“Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng

Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ

Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ

Kết tràng hoa dâng bảy chín mùa xuân”

Bài thơ được xem là cuộc hành hương sau bao năm chờ đợi để được trở về bên người cha già kính yêu của dân tộc. Nếu như ở khổ thơ đầu miêu tả hình ảnh hàng tre xanh như canh giấc ngủ trong lăng Bác thì ở khổ thơ thứ hai tác giả lại bộc lộ những suy nghĩ trực tiếp về Bác với những lời thơ mộc mạc chân tình.

Mở đầu cho đoạn thơ là những hình ảnh đẹp vừa mang tính cụ thể lại mang một ý nghĩa tượng trưng sâu sắc.

“Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng

Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ”

Chúng ta phải nhận ra được rằng nhà thơ phải kính yêu lắm, phải quý mến Bác lắm mới viết được những hình ảnh ẩn dụ tài tình như thế. Ở trong hai câu thơ này, có hai mặt trời được tác giả nhắc tới, mặt trời thứ nhất tượng trưng cho mặt trời của vũ trụ thiên nhiên còn mặt trời thứ hai là mặt trời của nhân dân “mặt trời trong lăng” luôn chiếu sáng vĩnh hằng, luôn luôn đỏ mãi. Bác chính là vầng sáng hồng tỏa sáng giúp soi đường dẫn lối cho chúng ta đi, thoát khỏi kiếp nô lệ, là sức mạnh giúp cho cả dân tộc có thể chèo lái con thuyền cập tới bến bờ vinh quang, đi đến thắng lợi cuối cùng. Cho dù Bác đã ra đi nhưng đối với mọi người dân Việt Nam thì người vẫn luôn luôn sống bất tử, soi đường dẫn lối cho đồng bào đứng lên.

Ở đoạn thơ tiếp theo khi dòng người bùi ngùi bước vào lăng, tác giả xúc động mà viết:

“Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ

Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân”

Hình ảnh dòng người khi đi vào trong lăng Bác được tác giả ví như những tràng hoa dâng Người, bảy mươi chín tràng hoa được tác giả ví như bảy mươi chín mùa xuân của người, những năm người đang sống là những năm cống hiến hết mình cho quê hương đất nước. Và Bác chính là mùa xuân, mùa xuân ấy đã làm cho cuộc đời của những người con của Người nở hoa. Điệp ngữ “ngày ngày“ đứng ở đầu câu như một quy luật tự nhiên, ngày ngày dòng người vào viếng lăng Bác không bao giờ hết, đó là quy luật của tạo hóa. Tràng hoa ở đây không chỉ là hoa thơm của thiên nhiên đất trời dâng cho Bác mà còn là những tràng hoa của niềm thương nhớ, biết ơn và ngưỡng mộ. Chính niềm thương nhớ ấy đã kết một tràng hoa đầy đủ hương và sắc để dâng lên Người.

Như chúng ta vừa nhắc ở trên về hình ảnh bảy mươi chín mùa xuân, đó là hình ảnh ẩn dụ, cho thấy cuộc đời của Bác đẹp như mùa xuân vậy, đó là bảy mươi chín năm sống và cống hiến cuộc đời cho sự nghiệp giải phóng của đất nước. Tràng hoa dâng lên như được thấy Bác mãi luôn sống trong lòng mọi người dân Việt Nam.

Tóm lại, chỉ với hai khổ thơ trên đã thể hiện được những suy nghĩ của nhà thơ về vị cha già của dân tộc. Tác giả đã cho chúng ta hình dung ra một cách rõ nét về hình ảnh của Người đồng thời bộc lộ niềm thương nhớ và sự thành kính sâu sắc của cả dân tộc đối với Bác.

» Tham khảo thêm: Viếng lăng Bác là bài ca ân tình cảm động, đẹp đẽ

——————————————————————–

Các bạn vừa tham khảo một số bài văn mẫu hay phân tích và nêu cảm nhận về hai khổ đầu bài Viếng lăng Bác của Viễn Phương (chương trình Ngữ Văn 9). Truy cập kho tài liệu Văn mẫu 9 để cập nhật thêm nhiều bài văn hay khác giúp bạn rèn luyện kỹ năng làm văn, chuẩn bị tốt cho các bài thi và kiểm tra môn Văn. Chúc các bạn học tốt !

Phân tích khổ 1 2 viếng lăng bác

[Văn mẫu 9] Những bài văn mẫu hay phân tích, cảm nhận về hai khổ đầu bài thơ Viếng lăng Bác của nhà thơ Viễn Phương.

Đăng bởi: THPT Sóc Trăng

Chuyên mục: Giáo dục