Ông tơ bà nguyệt nghĩa là gì


"Ông tơ bà nguyệt" xe duyên cho các cặp vợ chồng trên thế gian [Ảnh minh họa/Nguồn: Internet]

Nam nữ trong nhân gian, chỉ cần một sợi chỉ hồng của “ông Tơ bà Nguyệt” thắt vào chân thì cho dù ở bất cứ nơi đâu, bất cứ địa vị cao thấp cũng sẽ đúng thời gian mà gặp nhau, kết duyên làm vợ chồng, cùng dắt tay nhau đi qua quãng đời còn lại. Vậy “ông Tơ bà Nguyệt” là ai? “Ông Tơ bà Nguyệt” gọi tắt là “Nguyệt lão” hoặc là “ông già ngồi dưới trăng”. “Ông Tơ bà Nguyệt” là nhân vật nổi tiếng thời cổ đại của Trung Hoa, là thần nắm giữ việc mai mối hôn nhân trong thần thoại Trung Quốc, là “bà mối” trong thiên hạ, chủ trì nhân duyên của cả nam và nữ.

Những ghi chép về “ông Tơ bà Nguyệt”:

Miêu tả về hình tượng “ông Tơ bà Nguyệt”, trong “phù sinh lục ký ” có ghi: “Nhất thủ vãn hồng ti, nhất thủ huề trượng huyền hôn nhân bộ, đồng nhan hạc phát.” [Tạm dịch: Ông già tóc bạc trắng, da hồng hào một tay cầm sợi chỉ đỏ, một tay cầm cuốn sổ ghi chép hôn nhân].

Câu chuyện về “ông Tơ bà Nguyệt” xuất hiện sớm nhất là ở vào triều đại nhà Đường, sau đó được lưu truyền rộng rãi trong nhân gian. Dân chúng thời ấy cho rằng, “ông Tơ bà Nguyệt” nắm giữ nhân duyên của nam nữ bởi vì tại khắp nơi người ta đều dựng tượng “ông Tơ bà Nguyệt” để cầu phúc, nói lên thái độ tin tưởng rằng “duyên đã định từ kiếp trước”trong tình yêu và hôn nhân của người triều nhà Đường. Nhà văn họ Lý, nổi tiếng của triều nhà Đường có ghi chép về “ông Tơ bà Nguyệt” trong “Tục huyền quái lục • đính hôn điếm”. Kể rằng, có một thư sinh tên là Vi Cố đi kén vợ. Anh ta gặp một ông cụ ngồi dựa túi xem sách dưới bóng trăng ở trên bậc thềm. Anh ta tiến lại hỏi ông cụ xem sách gì, liền được ông cụ trả lời rằng sách này ghi chép tên những người lấy nhau trong thiên hạ. Vi Cố lại hỏi ông cụ rằng trong túi vải đựng vật gì? Ông cụ trả lời rằng: Trong túi đựng những sợi chỉ hồng, dùng để buộc hai người trai gái phải lấy nhau, không sao gỡ ra được. Cho dù hai người ở cách xa nhau, địa vị cao thấp thể nào thì chỉ cần một sợi chỉ hồng này cũng sẽ suốt đời không thoát ra được. Trong “Tục huyền quái lục • đính hôn điếm”, “ông Tơ bà Nguyệt” dùng sợi chỉ hồng buộc hai người nam nữ lại với nhau thì tức là nhân duyên đã được kết thành. Đồng thời cũng phản ánh quan niệm hôn nhân của người triều nhà Đường: Nhân duyên giữa người với người là do trời xanh định sẵn, người đời sau không thể cải sửa. Hai người sở dĩ có thể trở thành vợ chồng đều là do trước đó đã được “ông Tơ bà Nguyệt” tuyển định và dùng sợi chỉ hồng buộc họ lại. Vì vậy, trong dân gian, người ta dựng tượng ông lão dưới trăng, lập miếu để khẩn cầu được nhân duyên tốt lành.

Nguồn gốc của “ông Tơ bà Nguyệt”


Vi Cố gặp “Nguyệt lão”

Truyền thuyết dân gian kể lại rằng, vào thời nhà Đường, có một thư sinh tên là Vi Cố, trên đường đi đến Tống thành nghỉ tại một nhà trọ. Buổi tối anh ta ra ngoài đi dạo bộ thì gặp một ông lão trên lưng khoác một chiếc túi vải đang ngồi đọc sách. Vi Cố kinh ngạc, lập tức tiến đến trước mặt ông lão hành lễ rồi hỏi: “Vì sao đã hơn nửa đêm rồi mà ông còn ngồi một mình ở đây?”

Ông lão trả lời: “Ta đang xem sách hôn nhân! Cuốn sách này ghi lại quan hệ nhân duyên của con người trong thế gian.”

Vi Cố nhìn thấy một túi gấm to bên cạnh ông lão thì lại hiếu kỳ mà hỏi. Ông lão không trực tiếp trả lời mà lấy ra một sợi chỉ hồng từ trong túi gấm, loáng một cái trong không trung xuất hiện một đường ánh sáng màu đỏ sáng rực rồi lấp lánh ở dưới chân của Vi Cố. Ông lão nói với Vi Cố rằng: “Sợi chỉ hồng này dùng để buộc chặt chân của hai người sẽ trở thành vợ chồng. Cho dù hai người là kẻ thù của nhau, dù là ở cách xa nhau vạn dặm, chỉ cần sợ chỉ này thắt vào chân hai người thì họ sẽ cả đời không thể tách rời nhau.”

Vi Cố nhìn thấy việc hôn sự của mình vừa được ông lão định rồi liền sốt ruột hỏi vợ mình là ai.

Ông lão chỉ nói một câu: “Con gái của bà lão bán rau ở chợ phía bắc”. Nói xong, ông lão liền biến mất.

Sáng sớm hôm sau, Vi Cố vì muốn nhìn thấy người vợ tương lai của mình như thế nào nên ăn mặc sạch đẹp đi về nơi mà ông lão đã nói. Anh ta chỉ nhìn thấy một bà lão bế một bé gái xấu xí nên vô cùng bực bội và buồn bã. Anh ta lệnh cho người hầu phải giết chết bé gái này. Người hầu sau khi đâm một nhát trúng lông mày của bé gái đó liền sợ hãi bỏ chạy.


Vi Cố kết hôn mới phát hiện ra vợ mình chính là bé gái năm xưa

Mười lăm năm sau, Vi Cố thành thân. Anh ta lấy con gái của vị quan thứ sử Tương Châu làm vợ. Lúc động phòng, nhìn thấy người vợ xinh đẹp như hoa, Vi Cố vô cùng ưng ý và mừng rỡ. Chỉ có điều, trên lông mày của người vợ này có một vết thương lớn. Vi Cố sau khi hỏi rõ nguyên do của vết thương này mới biết rằng, vợ anh ta chính là bé gái năm xưa từng bị chính mình ghét bỏ mà làm hại. Sau đó vì mất mẹ nên được vị quan thương tình nhận về làm con. Vi Cố vô cùng xấu hổ, cho nên càng dùng tâm đối xử thật tốt với vợ mình. Hai vợ chồng họ sống hạnh phúc đến lúc đầu bạc.

Sau này, câu chuyện của Vi Cố được truyền đến Tống thành. Người dân Tống thành vì để tưởng niệm Nguyệt lão liền đem “Nam điếm” đổi tên thành “Đính hôn điếm”. Từ đó về sau, câu chuyện về Nguyệt lão dần dần được lưu truyền cho đến ngày nay. Mọi người cũng tin tưởng rằng, nhân duyên giữa nam và nữ là do Nguyệt lão kết thành. Người ta bắt đầu dựng lập tượng và chùa thờ cúng Nguyệt lão. Các chàng trai và cô gái mong muốn có mối nhân duyên tốt đều đến những ngôi chùa này để cầu phúc, hy vọng Nguyệt lão cho mình một mối nhân duyên tốt đẹp.

Theo Secretchina
Mai Trà biên dịch

Trang chủ » Văn học Việt Nam » Giải thích Thành ngữ - Tục ngữ » Ông Tơ bà Nguyệt

Giải thích Thành ngữ - Tục ngữ

Đèo heo hút gió Con cà con kê Có công mài sắt, có ngày nên kim Chưa biết mèo nào cắn mỉu nào Chạy như cờ lông công Cạn tàu ráo máng Ăn ốc nói mò Sống để dạ chết mang theo Cà cuống chết đến đít còn cay Ba chìm bảy nổi Giàu vì bạn, sang vì vợ Chim sa cá lặn Cái tổ con chuồn chuồn Chờ được mạ, má đã sưng Bợm già mắc bẫy cò ke Bá Nha - [Chung] Tử Kỳ Bầu dục chấm mắm cáy Áo vải, cờ đào Ăn cơm nhà thổi tù và hàng tổng Áo gấm đi đêm Ăn cháo đái bát Chân nam đá chân chiêu Bóc ngắn cắn dài Lá lành đùm lá rách Cõng rắn cắn gà nhà Được voi đòi tiên Ăn vóc học hay Vụng chèo khéo chống Nhạt phấn phai hương Rau muống tháng 9 nhịn cho mẹ chồng Ếch ngồi đáy giếng Cú kêu cho ma ăn Ăn chay niệm phật nói lời từ bi Vàng thau lẫn lộn Năm tao bảy tuyết Chạy như cờ lông công Có nếp có tẻ Ba chìm bảy nổi Nước mắt cá sấu Tức nước vỡ bờ Thả mồi bắt bóng Chưa biết mèo nào cắn mỉu nào Tứ cố vô thân Trúc dẫu cháy đốt ngay vẫn thẳng Thua keo này bày keo khác Tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa Ướt như chuột lột Cú kêu cho ma ăn Bóng chim tăm cá Như nước đổ đầu vịt Kẻ tám lạng người nửa cân Trộm cắp như rươi Một nắng hai sương Mạt cưa mướp đắng Chó mái chim mồi Máu ghen Hoạn Thư Ma ăn cỗ Nói có sách, mách có chứng Xác như vờ, xơ như nhộng Len lét như rắn mùng năm Dốt có đuôi Nợ như chúa Chổm Tham bát bỏ mâm Tấc đất cắm dùi Hàng tôm hàng cá Lời ong tiếng ve Lệnh ông không bằng cồng bà Sơn cùng thủy tận Tha phương cầu thực Sống để dạ chết mang theo Rách như tổ đỉa Rước voi giày mả tổ Ba que xỏ lá Ba hồn bảy vía - Ba hồn chín vía Cáo mượn oai hùm Đi một ngày đàng, học một sàng khôn Đồng không mông quạnh Nói nhăng nói cuội Chết đứng như Từ Hải Đười ươi giữ ống Hồn xiêu phách lạc Nói toạc móng heo Quýt làm cam chịu Vừa ăn cướp vừa la làng Trướng rủ màn che Lo bò trắng răng Nát như tương Cửa Khổng sân Trình Sức dài vai rộng Tiền trảm hậu tấu Khôn cho người ta rái, dại cho người ta thương Bách phát bách trúng Ướt như chuột lột Chén tạc chén thù Ông chẳng bà chuộc Kín cổng cao tường Há miệng mắc quai Oan Thị Kính Lá mặt lá trái Há miệng chờ sung Gửi trứng cho ác Giàu làm kép hẹp làm đơn Được voi đòi tiên Đa nghi như Tào Tháo Dở dở ương ương Thoả chí tang bồng Cõng rắn cắn gà nhà Niêu cơm Thạch Sanh Như vợ chồng sam Gửi trứng cho ác Chết đuối vớ được cọc Chữ như gà bới Ốc không nổi mình ốc lại mang cọc cho rêu Ông Tơ bà Nguyệt Cốc mò cò xơi Mưa không khắp Một miệng thì kín, chín miệng thì hở Mất bò mới lo làm chuồng Lừa ưa nặng Một nghề thì sống đống nghề thì chết Mèo già hóa cáo Lươn ngắn lại chê chạch dài, thờn bơn méo miệng chê trai lệch mồm Tham thì thâm Như vợ chồng ngâu Qua cầu rút ván Xui nguyên giục bị Lấy thúng úp voi Chuồn chuồn đạp nước Hằng hà sa số Gan cóc tía Một mất mười ngờ Ruột để ngoài da Phúc họa khó lường Mũ ni che tai Giậu đổ bìm leo Chuột sa chĩnh gạo Bàn tay có ngón ngắn ngón dài Cá chậu chim lồng Đẽo cày giữa đường Yêu nên tốt, ghét nên xấu Quạ nào mà chẳng đen đầu Nằm gai nếm mật Chắp cánh liền cành Đứt đuôi con nòng nọc Gương vỡ lại lành Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo Đồ Sở Khanh Của ít lòng nhiều Nước chảy chỗ trũng Cha truyền con nối Rồng đến nhà tôm Môi hở răng lạnh Muỗi đốt chân voi Học vẹt Văn hay chữ tốt Ngang như cua Nhanh như cắt Mỗi cây mỗi hoa Của người phúc ta Tương cà gia bản Thuốc đắng dã tật Cháy nhà mới ra mặt chuột Cá không ăn muối cá ươn Cá hóa rồng Cá chuối đắm đuối vì con Lá thắm chỉ hồng Bọ ngựa chống xe Ăn lông ở lỗ Bàn tay không che nổi mặt trời Ngựa quen đường cũ Tấc đất tấc vàng Lòng vả cũng như lòng sung Hồng nhan bạc mệnh Đẹp như Tiên Dốt hay nói chữ Công cha nghĩa mẹ Giật gấu vá vai Đất có thổ công, sông có hà bá Bán lợi mua danh Bán trời không văn tự Ăn mày đánh đổ cầu ao Ăn như rồng cuốn Ăn cơm chúa, múa tối ngày Ăn chay niệm phật Cháy nhà ra mặt chuột Đục nước béo cò Già đòn non nhẽ

Thành ngữ chỉ những người mối lái trong việc dựng vợ gả chồng, xe duyên cho đôi lứa.

Chuyện kể:

Tương truyền Vi Cố, đời nhà Đường, bên Trung Quốc, một hôm gặp một bà già chột mắt ẵm đứa bé đi qua chợ. Một người không rõ ở đâu đến bảo: “Đứa bé sau này sẽ là vợ anh”.

Giận quá, Vi Cố cho đầy tớ đi giết đứa bé. Người đầy tớ lùng sục, rồi lén đâm đứa bé, sau đó bỏ trốn.

Mười bốn năm sau, Vi Cố lấy vợ. Vợ Vi Cố là Vương Thái, con quan Thái Sử Trương Châu. Cô gái có dung nhan đẹp, giữa lông mày có đính điểm một bông hoa vàng. Gạn hỏi vợ mới bảo:

- Thuở còn bé, một bà vú họ Trần bế vào chợ bị cuồng tặc đâm dao. Vi Cố bèn gạn hỏi:

- Người vú đó có phải bị chột một con mắt không?

Vợ Vi Cố trả lời:

- Đúng thế.

Chuyện cũ nhắc lại khiến Vi Cố ngày đêm lo nghĩ khôn nguôi.

Một đêm trăng sáng, Vi Cố mơ thấy có con hạc ở đâu bay đến, mời Vi Cố ngồi lên lưng rồi bay lên trời. Đến cung trăng, Vi Cố thấy một ông già quắc thước, râu trắng như cước và một bà lão ngồi trên hai bậc đá. Vi Cố đánh bạohỏi ông cụ:

- Dám hỏi hai cụ làm gì ở đây và tên họ là gì?

Cụ già điềm tĩnh đáp:

- Ta là lão Tơ, còn kia là Nguyệt lão. Chúng ta chỉ có một việc là xe duyên.

Vi Cố lại hỏi tiếp:

- Hai cụ xe duyên thế nào?

Cụ già đáp:

- Cứ đợi đấy sẽ biết!

Một lúc sau, có đôi trai gái từ đâu tới. Lão Tơ lấy ra một sợi tơ hồng trong một cái giỏ buộc hai cổ chân của đôi nam nữ lại với nhau. Đoạn Nguyệt lão vẩy lên tóc của hai người một thứ nước tiên, rồi hai người ra đi. Cứ thế, chốc chốc lại có một đôi trai gái đến để được buộc tơ hồng vào cổ chân rồi lại được vẩy lên tóc một thứ nước thơm. Lúc vãn việc cụ già nói với Vi Cố:

- Họ đã thành vợ thành chồng rồi đấy.

Tỉnh giấc, nghĩ cái duyên của mình với người con gái ngày xưa mà mình cố ý lén cho người đâm chết, chính lại là vợ mình, mới cho rằng “tình duyên là do trời xe nên”. Đó cũng là nhân là nghĩa, những đôi trai gái mà Vi Cố đã gặp trên cung trăng cũng là duyên phận. Nghĩ mình, Vi Cố mới hết sức lập ra người mối lái, giống như ông Tơ, bà Nguyệt trên trời để se duyên kết chỉ cho các đôi trai gái, và cũng đặt tên cho người mối lái xe duyên là ông Tơ, bà Nguyệt. Ông Tơ, bà Nguyệt ở dưới trần gian do Vi Cố lập ra dùng chỉ hồng buộc cổ tay cho các đôi trai gái hoặc dùng cau trầu đặt lễ để bắt mối se duyên.

Vi Cố hết sức mãn nguyện và cảm ơn hạc trời đa đưa ông lên tận ông Tơ, bà Nguyệt để học cách xe duyên.

Trải qua nhiều đời, ông Tơ, bà Nguyệt hay còn gọi là ông mối, bà mối vẫn còn lưu truyền. [1]

Mối lái với nhân duyên là chuyện gắn bó với nhau. Nét văn hóa đẹp lưu giữ muôn đời và được thêu dệt từ những sợi tơ hồng và ánh trăng, với nước thơm. Đó là tình yêu lung linh bền chặt. Tuy nhiên trong thực tế, càng ngày trai gái càng có nhu cầu tự mình tìm và lựa chọn, quyết định người bạn đời của mình nên vai trò ông Tơ, bà Nguyệt ít được nói đến. Thậm chí, khi xe duyên, nếu không xuất phát từ tình yêu thì cũng thật trớ trêu.

Theo Đi tìm điển tích thành ngữ của Tiêu Hà Minh,

NXB Thông tấn

[1]: Theo truyện “Nguyệt Lão” – “Điển tích Văn học” Mai Thục- Đỗ Đức Hiểu- NXB Văn học, 1997

  • Ốc không nổi mình ốc lại mang cọc cho rêu
  • Cốc mò cò xơi

Video liên quan

Chủ Đề