Nghiên cứu khoa học có bắt buộc không

Vì nhiều lý do khác nhau, giảng viên đang “né” NCKH trong khi đây là nhiệm vụ bắt buộc.

70% tiến sĩ không làm nghiên cứu khoa học

Nghiên cứu khoa học có bắt buộc không
Phóng to
Giảng viên và công trình nghiên cứu khoa học chế tạo thiết bị Test chip và IC của mình. Đây là một trong số khá ít sản phẩm từ nghiên cứu khoa học của giảng viên Trường ĐH Công nghệ Sài Gòn - Ảnh: NHƯ HÙNG

Theo quy định, giảng viên mỗi năm phải đảm bảo 900 giờ giảng dạy, 500 giờ NCKH. NCKH là một tiêu chí đánh giá lao động giảng viên. Thế nhưng, nhiều trường ĐH, CĐ với quy mô hàng nghìn, thậm chí hàng chục nghìn SV suốt một năm không có đề tài NCKH nào.

“Trả nợ” bằng giờ dạy

Theo thống kê, Trường ĐH Hồng Bàng có 32 PGS, GS, 31 tiến sĩ và 62 thạc sĩ nhưng trong năm học vừa qua, trường này chỉ có sáu công trình NCKH cấp cơ sở (cấp trường), không có công trình cấp thành phố hay nhà nước. Tương tự, Trường ĐH Văn Lang có 9 GS, PGS, 30 tiến sĩ và 151 thạc sĩ nhưng chỉ có một công trình NCKH cấp thành phố. Khá hơn một ít, Trường ĐH Kỹ thuật công nghệ TP.HCM có hai đề tài cấp bộ, ba đề tài cấp thành phố và 30 đề tài cấp cơ sở. Lực lượng giảng viên của trường này khá hùng hậu khi có 21 GS, PGS, 75 tiến sĩ và 178 thạc sĩ. Trường ĐH Tài chính marketing cũng chỉ có một đề tài cấp thành phố và 14 đề tài cấp cơ sở, Trường ĐH Sư phạm TP.HCM có ba công trình cấp bộ và 64 công trình cấp cơ sở, ĐH Công nghệ Sài Gòn có bốn công trình cấp cơ sở và một công trình cấp thành phố...

TS Phạm Thị Ly (ĐH Quốc gia TP.HCM) cho biết do tỉ lệ sinh viên/giảng viên quá cao nên nhiều giảng viên phải chạy sô giảng dạy (có giảng viên dạy 2.000 giờ/năm), không còn thời gian nghiên cứu. Điều bất hợp lý tại VN đó là khoảng 2/3 người có học hàm học vị cao lại chủ yếu làm công tác quản lý chứ không tham gia trực tiếp việc giảng dạy, nghiên cứu. Hơn nữa, kinh phí NCKH được cấp không theo những tiêu chí rõ ràng minh bạch, năng lực nghiên cứu của giảng viên và nghiên cứu viên còn hạn chế, lương bổng thấp... cũng khiến giảng viên không mặn mà nghiên cứu.

Tại Trường ĐH Tôn Đức Thắng, giảng viên được chia làm ba nhóm: giảng viên chuyên giảng dạy (không NCKH), giảng viên nghiên cứu (vừa dạy vừa nghiên cứu) và nghiên cứu viên (chỉ chuyên nghiên cứu). Theo bà Trịnh Minh Huyền - phó hiệu trưởng Trường ĐH Tôn Đức Thắng, việc làm này nhằm tránh thầy cô NCKH theo kiểu đối phó như trước đây cũng như góp phần nâng cao chất lượng công trình nghiên cứu theo chuẩn quốc tế.

Và để tránh tình trạng nghiên cứu đối phó, năm nay trường đã bỏ thực hiện nghiên cứu cấp cơ sở. Mặc dù trường có nhiều công trình nghiên cứu được công bố trên các tạp chí trong và ngoài nước nhưng rõ ràng đó chỉ là công trình của một bộ phận giảng viên nhất định.

GS.TS Đỗ Văn Dũng, phó hiệu trưởng Trường ĐH Sư phạm kỹ thuật TP.HCM, dẫn ra những khó khăn vướng mắc đối với công tác NCKH ở các trường ĐH hiện nay: “Thực tế nhiều trường không đảm bảo đủ cơ sở vật chất, phòng thí nghiệm cho giảng viên làm nghiên cứu. Một bộ phận giảng viên chưa đủ kiến thức cũng như thiếu ngoại ngữ để nghiên cứu. Giảng viên bây giờ cũng rất bận rộn giảng dạy, ngày càng xa rời thực tế các xí nghiệp, công ty, không biết xí nghiệp đang cần gì”.

Một giảng viên Trường ĐH Kỹ thuật công nghệ TP.HCM cho biết trường có quy định giờ dạy và giờ NCKH đối với giảng viên, nhưng giảng viên không nghiên cứu mà “trả nợ” bằng giờ dạy. Theo giảng viên này, kinh phí cấp cho việc nghiên cứu rất ít ỏi, thù lao ít trong khi thời gian nghiên cứu một đề tài lại khá dài và tốn nhiều công sức. Do đó giảng viên chấp nhận bị hạ một bậc thi đua ở trường nhưng có thời gian dạy thêm, thu nhập sẽ cao hơn NCKH. Bản thân ông đăng ký viết giáo trình từ đầu năm đến nay vẫn chưa được trường duyệt.

Trong khi đó, một giảng viên kinh tế đang “chạy sô” ở hai trường CĐ tư thục không mấy áy náy khi cho biết anh chỉ đến dạy, hưởng lương theo giờ dạy, chưa bao giờ được yêu cầu hay bắt buộc phải có tham gia nghiên cứu. Ở trường tư, đội ngũ giảng dạy cơ hữu còn chưa đủ nói gì đến công trình NCKH!

NCKH kiểu... đối phó

Việc áp dụng chế độ làm việc của giảng viên theo quy định của Bộ GD-ĐT, theo nhiều trường là bất khả thi, gắng gượng thì lại làm theo kiểu đối phó. GS.TS Đỗ Văn Dũng nói: “Ai cũng biết NCKH phải song hành với giảng dạy nhưng các quy định hiện nay chúng ta đang tự làm khó mình. Do bắt buộc phải có NCKH mới được tính thi đua, không nghiên cứu bị trừ tiền... dẫn đến việc NCKH nhiều nơi làm không thực chất. Muốn làm tốt và thực chất những việc này phải dài hơi chứ không phải làm theo quy định là phong trào vọt lên liền”.

Hiệu trưởng một trường ĐH ngoài công lập tại TP.HCM nhìn nhận: đúng là số lượng công trình NCKH của trường còn quá ít so với đội ngũ hiện có. Tuy vậy ông này cho rằng đặc thù trường ĐH ngoài công lập khác với trường công lập, đội ngũ đang trong quá trình xây dựng và chủ yếu đáp ứng nhu cầu giảng dạy. Trường chủ trương chỉ cấp kinh phí cho các công trình nghiên cứu có tính ứng dụng cao vì kinh phí hạn hẹp. Và trong bối cảnh như vậy, ông này thẳng thắn: đành rằng có quy định thời gian nghiên cứu, giảng dạy đối với giảng viên nhưng những người có học hàm học vị, có kinh nghiệm giảng dạy thì tội gì trường không quy đổi giờ nghiên cứu thành giờ giảng dạy.

Lý giải về số lượng công trình NCKH của trường quá ít, ông Trịnh Hữu Chung - trợ lý hiệu trưởng Trường ĐH Hồng Bàng - cho rằng trường chỉ tập trung cho hoạt động NCKH của sinh viên, kinh phí nghiên cứu cũng tập trung cho đối tượng này. Đối với giảng viên, trường khuyến khích thầy cô nghiên cứu. Tuy nhiên việc nghiên cứu của giảng viên cũng gặp nhiều khó khăn do tập trung chuyên môn quản lý, giảng dạy quá nhiều, một số thầy cô khá lớn tuổi nên cũng khó khăn trong việc NCKH.

MINH GIẢNG - PHÚC ĐIỀN

Thông báo NCKH Sinh Viên

Nghiên cứu khoa học có bắt buộc không

Quy định về hoạt động nghiên cứu khoa học sinh viên Trường Đại học Kinh tế - Luật


Quyết định số 168/QĐ-ĐHKTL ngày 6 tháng 1 năm 2018 Về việc ban hành Quy định hoạt động nghiên cứu khoa học sinh viên Trường Đại học Kinh tế - Luật



Sinh viên thời đại ngày nay luôn hướng tới mục tiêu phát triển toàn diện. Bên cạnh học tập tốt; tham gia câu lạc bộ; hội nhóm; làm thêm… nghiên cứu khoa học cũng là một hướng đi tiềm năng cho sinh viên. Nhằm thúc đẩy việc tham gia nghiên cứu, Bộ Giáo dục và đào tạo ban hành nhiều văn bản pháp luật. Từ đó đảm bảo quyền lợi cho sinh viên. Vậy để không lãng phí những năm đại học, sinh viên có nên tham gia nghiên cứu khoa học hay không? Phòng tư vấn pháp lý của Luật sư X xin thông tin tới bạn đọc.

Thông tư 26/2021/TT-BGDĐT

Nội dung tư vấn

Nghiên cứu khoa học là gì?

Khoa học nói một cách đơn giản bao gồm những tính toán và thử nghiệm các giả thuyết dựa trên những bằng chứng và thí nghiệm được quan sát là quan trọng và có thể ứng dụng.

Nghiên cứu khoa học là gì? Nghiên cứu khoa học là hành động tìm hiểu, quan sát, thí nghiệm… dựa trên những số liệu, dữ liệu, tài liệu thu thập được để phát hiện ra bản chất, quy luật chung của sự vật, hiện tượng, tìm ra những kiến thức mới hoặc tìm ra những ứng dụng kỹ thuật mới, những mô hình mới có ý nghĩa thực tiễn.

Theo quy định tại Khoản 2 Điều 12 Thông tư 26/2021/TT-BGDĐT;

Khi tham gia nghiên cứu khoa học, sinh viên sẽ được hưởng những quyền lợi sau:

  • Được đề xuất, đăng ký thực hiện đề tài nghiên cứu khoa học;
  • Được tạo điều kiện sử dụng cơ sở vật chất và trang thiết bị sẵn có của cơ sở giáo dục đại học để thực hiện hoạt động nghiên cứu;
  • Được hỗ trợ kinh phí nghiên cứu khoa học theo định mức quy định của cơ sở giáo dục đại học;
  • Được công bố, hỗ trợ công bố kết quả nghiên cứu trên các tạp chí khoa học, kỷ yếu, các ấn phẩm khoa học và công nghệ khác trong và ngoài nước theo quy định;
  • Được hỗ trợ đăng ký quyền sở hữu trí tuệ đối với các kết quả nghiên cứu theo quy định hiện hành;
  • Được xem xét ưu tiên cộng điểm học tập, điểm rèn luyện; ưu tiên xét cấp học bổng và các danh hiệu thi đua, hình thức khen thưởng theo quy định của cơ sở giáo dục đại học;
  • Được hưởng các quyền lợi khác theo quy định.

Trách nhiệm của sinh viên khi tham gia nghiên cứu khoa học

  • Thực hiện các nghiên cứu khoa học một cách trung thực, nghiêm túc;
  • Chịu trách nhiệm thực hiện đề tài nghiên cứu khoa học dành cho sinh viên; tham gia các hội nghị, hội thảo khoa học, diễn đàn, các hoạt động khoa học và công nghệ khác trong các cơ sở giáo dục đại học;
  • Tuân thủ các quy định của pháp luật về sở hữu trí tuệ, hoạt động khoa học và công nghệ và các quy định khác của pháp luật hiện hành.

Hy vọng bài viết sẽ có ích cho bạn đọc!

Thông tin liên hệ Luật Sư X

Trên đây là tư vấn của Luật sư X về Vợ có thể đơn phương ly hôn khi chồng đi tù. Chúng tôi hi vọng rằng bạn có thể vận dụng các kiến thức trên để sử dụng trong công việc và cuộc sống.

Để biết thêm thông tin chi tiết; và nhận thêm sự tư vấn, giúp đỡ của luật sư X hãy liên hệ 0833.102.102

Câu hỏi thường gặp

Các bước để thực hiện một công trình nghiên cứu khoa học là gì?

– Tìm ý tưởng– Xác định hướng nghiên cứu– Chọn tên đề tài nghiên cứu khoa học– Lập đề cương nghiên cứu khoa học

– Tham khảo ý kiến của giảng viên

Đề cương nghiên cứu khoa học gồm những gì?

– Đặt vấn đề– Mục đích nghiên cứu– Phạm vi nghiên cứu– Phương pháp nghiên cứu khoa học– Câu hỏi nghiên cứu– Các giả thuyết– Kết cấu đề tài

– Nguồn số liệu, tài liệu tham khảo

Một số khái niệm trong nghiên cứu khoa học như thế nào?

– Đề tài nghiên cứu (research project): là hình thức tổ chức nghiên cứu khoa học do một người hoặc một nhóm người thực hiện để trả lời những câu hỏi mang tính học thuật hoặc ứng dụng vào thực tế. Mỗi đề tài nghiên cứu có tên đề tài (research title), là phát biểu ngắn gọn và khái quát về các mục tiêu nghiên cứu của đề tài.
– Nhiệm vụ nghiên cứu (research topic): là những nội dung được đặt ra để nghiên cứu, trên cơ sở đã xác định tên đề tài nghiên cứu.
– Đối tượng nghiên cứu (research focus): là bản chất cốt lõi của sự vật hay hiện tượng cần xem xét và làm rõ trong đề tài nghiên cứu.
– Mục tiêu nghiên cứu (research objective): những nội dung cần được xem xét và làm rõ trong khuôn khổ đối tượng nghiên cứu đã xác định nhằm trả lời câu hỏi “Nghiên cứu cái gì?”. Dựa trên mục tiêu, các câu hỏi nghiên cứu được xây dựng.

5 trên 5 (1 Phiếu)