Điểm giống nhau của pháp luật và đạo đức

Đạo đức và pháp luật gắn bó chặt chẽ với nhau vì cả hai đều tập trung vào đúng và sai, ngăn chặn các hành vi trái đạo đức và tạo ra các quy tắc cho các nhóm thương mại như bác sĩ và nhân viên xã hội. Tuy nhiên, đạo đức và pháp luật là hoàn toàn khác và nghĩa vụ đạo đức thường vượt quá nghĩa vụ của một người đối với luật pháp.

Luật pháp cũng có thể buộc mọi người thực hiện những gì họ cho là hành vi phi đạo đức. Các bác sĩ cảm thấy rằng luật buộc họ không có đạo đức phải làm việc trong thế giới luật để thay đổi luật. Tất nhiên, một bác sĩ đã được miễn tội trước mắt pháp luật có thể vẫn có tội và vô trách nhiệm về mặt đạo đức.

Tuy nhiên, một ví dụ khác về sự khác biệt giữa luật pháp và đạo đức có thể được nhìn thấy trong các mối quan hệ giữa các cá nhân. Cha mẹ không dành thời gian cho con cái của mình có thể bị coi là vô trách nhiệm về mặt đạo đức vì con cái có quyền dành thời gian cho cha mẹ. Tuy nhiên, trừ khi thiếu thời gian dẫn đến bỏ bê nghiêm trọng, lựa chọn dành thời gian xa con cái này không phải là vi phạm pháp luật.

Mặc dù cả luật pháp và đạo đức đều có tác dụng thiết lập ranh giới đạo đức cho tất cả mọi người, đạo đức là quy tắc danh dự cá nhân hơn trong khi luật pháp là sách quy tắc dựa trên công lý. Vi phạm luật sẽ đưa một người vào tù hoặc phạt một người. Vi phạm quy tắc đạo đức sẽ dẫn đến sự xấu hổ và có thể bị người khác khinh miệt; tuy nhiên, các quy tắc đạo đức không mang theo những hình phạt pháp lý.

So sánh, phân biệt đạo đức và pháp luật? Điểm giống và khác nhau giữa đạo đức và pháp luật, phong tục tập quán?

1. Giống nhau

– Pháp luật và đạo đức đều có những quy tắc xử sự chung hay quy phạm xã hội để hướng dẫn cách xử sự cho mọi người trong xã hội cho nên chúng đều có các đặc điếm của các quy phạm xã hội, đó là:

+ Pháp luật và đạo đức đều là những khuôn mẫu, chuẩn mực để hướng dẫn cách xử sự cho mọi người trong xã hội, để bất kỳ ai khi ở vào điều kiện, hoàn cảnh do chúng dự liệu thì đều phải xử sự theo những cách thức mà chúng đã nêu ra – Căn cứ vào pháp luật, đạo đức, các chủ thể sẽ biết mình đuợc làm gì, không đuợc làm gì, phải làm gì và làm như thế nào khi ở vào một điều kiện, hoàn cảnh nhất định.

+ Pháp luật và đạo đức đều là tiêu chuẩn để xác định giới hạn và đánh giá hành vi của con người. Căn cứ vào các quy định của pháp luật, các quy tắc đạo đức, có thể xác định được hành vi nào là hợp pháp, hành vi nào là hợp đạo đức; hành vi nào là trái pháp luật, hành vi nào là trái đạo đức.

+ Pháp luật và đạo đức đều được đặt ra không phải cho một chủ thể cụ thể hay một tổ chức, cá nhân cụ thể mà là cho tất cả các chủ thể tham gia vào quan hệ xã hội do chúng điều chỉnh.

+ Pháp luật và đạo đức đều được thực hiện nhiều lần trong thực tế cuộc sống, bởi vì chúng được ban hành không phải để điều chỉnh một quan hệ xã hội cụ thế, một trường hợp cụ thế mà để điều chỉnh một quan hệ xã hội chung, tức là mọi trường hợp, khi điều kiện hoặc hoàn cảnh do chúng dự kiến xảy ra.

– Cả pháp luật và đạo đức đều tham gia điều chỉnh các quan hệ xã hội nhằm thiết lập và giữ gìn trật tự xã hội.

– Cả pháp luật và đạo đức đều vừa có tính giai cấp, vừa có tính xã hội và tính dân tộc.

2. Khác nhau:

(i) Pháp luật:

– Pháp luật có tính quyền lực nhà nước, bởi vì pháp luật được hình thành bằng con đường nhà nước, do nhà nước đặt ra (ví dụ như các quy định về tổ chức bộ máy nhà nước), hoặc do nhà nước thừa nhận (các phong tục, tập quán, các quan niệm, quy tắc đạo đức…) nên pháp luật luôn thể hiện ý chí của nhà nước – Pháp luật được nhà nước bảo đảm thực hiện bằng nhiều biện pháp, từ tuyên truyền, phổ biến, giáo dục, thuyết phục, động viên, khen thưởng, tổ chức thực hiện cho đến áp dụng các biện pháp cưỡng chế nhà nước.

– Pháp luật có tính quy phạm phổ biến, nó có giá trị bắt buộc phải tôn trọng và thực hiện đối với mọi tổ chức và cá nhân có liên quan trong phạm vi lãnh thổ quốc gia – Pháp luật có tác động bao trùm lên toàn xã hội, tới mọi tổ chức và cá nhân có liên quan trong xã hội; đồng thời có tác động thường xuyên, liên tục trên toàn lãnh thổ và trong nhiều lĩnh vực hoạt động của xã hội.

– Có những quan hệ xã hội pháp luật điều chỉnh nhưng đạo đức không điều chỉnh, ví dụ như những quan hệ liên quan tới việc tổ chức bộ máy nhà nước.

– Pháp luật có tính hệ thống, bởi vì pháp luật là một hệ thống các quy phạm để điều chỉnh nhiều loại quan hệ xã hội phát sinh trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống như dân sự, kinh tế, lao động…, song các quy phạm đó không tồn tại một cách biệt lập mà giữa chúng có mối hên hệ nội tại và thống nhất với nhau để tạo nên một chỉnh thể là hệ thống pháp luật.

– Pháp luật có tính xác định về hình thức, tức là pháp luật thường được thể hiện trong những hình thức nhất định, có thể là tập quán pháp, tiền lệ pháp hoặc văn bản quy phạm pháp luật.

Trong các văn bản quy phạm pháp luật, các quy định của pháp luật thường rõ ràng, cụ thể, bảo đảm có thể được hiểu và thực hiện thống nhất trong một phạm vi rộng.

– Pháp luật chỉ ra đời và tồn tại trong những giai đoạn lịch sử nhất định, giai đoạn có sự phân chia giai cấp, mâu thuẫn và đấu tranh giai cấp.

(ii) Đạo đức:

– Đạo đức lúc đầu được hình thành một cách tự phát trong cộng đồng xã hội, sau đó có thể là tự giác khi được bổ sung bằng những quan điểm, quan niệm và phong cách sống của các vĩ nhân; được lưu truyền từ đời này sang đời khác theo phương thức truyền miệng; được bảo đảm thực hiện bằng thói quen, bằng dư luận xã hội, bằng lương tâm, niềm tin của mỗi người và bằng các biện pháp cưỡng chế phi nhà nước – Đạo đức thường thể hiện ý chí của một cộng đồng dân cư.

– Đạo đức chủ yếu có tính chất khuyên răn đối với mọi người, chỉ cho mọi người biết nên làm gì, không nên làm gì, phải làm gì và chỉ tác động tới các cá nhân trong xã hội.

– Có những quan hệ xã hội đạo đức điều chỉnh nhưng pháp luật không điều chỉnh, ví dụ như quan hệ tình bạn, tình yêu…

– Đạo đức không có tính hệ thống, ví dụ như quan niệm và quy tắc đạo đức trong lĩnh vực ma chay hầu như không có liên quan với quan niệm và quy tắc đạo đức trong lĩnh vực cưới hỏi và trong các lĩnh vực khác.

– Đạo đức không có tính xác định về hình thức, bởi vì nó tồn tại dưới dạng bất thành văn, được lưu truyền từ đời này sang đời khác bằng hình thức truyền miệng.

– Đạo đức ra đời và tồn tại trong tất cả các giai đoạn phát triển của lịch sử.

Điểm giống nhau cơ bản giữa pháp luật và đạo đức là:


A.

Đều là những quy tắc bắt buộc mọi người phải tuân theo.

B.

Đều điều chỉnh hành vi dựa trên tính tự giác của công dân.

C.

Đều điều chỉnh hành vi dựa trên sức ép của dư luận xã hội.

D.

Đều điều chỉnh hành vi để hướng tới các giá trị xã hội.

So sánh đạo đức và pháp luật. Xã hội được điều chỉnh bởi rất nhiều các quy phạm, trong đó không thể không kể đến là hai quy phạm đạo đức và pháp luật. Cả hai quy phạm này đều có vai trò quan trọng và có mối tương hỗ lẫn nhau. Vậy điểm giống và khác nhau của chúng là gì? Bài viết dưới đây sẽ so sánh và giải đáp về mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật. Mời bạn đọc tham khảo cùng HoaTieu.vn.

Đạo đức và pháp luật

Điểm giống nhau của pháp luật và đạo đức
Đạo đức và pháp luật có mối quan hệ hữu cơ tương hỗ và bổ trợ cho nhau.

Đạo đức là gì? Pháp luật là gì? Đạo đức và pháp luật giống và khác nhau thế nào? Phần dưới đây sẽ cung cấp thông tin chi tiết để trả lời cho những câu hỏi này.

1.1 Điểm giống nhau giữa đạo đức và pháp luật

  • Đạo đức và pháp luật đều là hệ thống các quy tắc xử sự chung, chuẩn mực xã hội đối với con người
  • Đạo đức và pháp luật giúp con người điều chỉnh hành vi để phù hợp với các quy tắc trong xã hội, qua đó tích cực hơn trong cộng đồng.
  • Đạo đức và pháp luật đều được áp dụng chung cho tất cả mọi người, có tính cộng đồng
  • Pháp luật và đạo đức đều được đặt ra không phải cho một chủ thể cụ thể hay một tổ chức, cá nhân cụ thể mà là cho tất cả các chủ thể tham gia vào quan hệ xã hội do chúng điều chỉnh
  • Pháp luật và đạo đức đều tham gia điều chỉnh các quan hệ xã hội nhằm thiết lập và giữ gìn trật tự xã hội.
Tiêu chíĐạo đứcPháp luật
Khái niệmHệ thống các quy tắc, yêu cầu đối với hành vi xã hội của con người, trong đó xác lập những quan điểm, quan niệm chung về công bằng và bất công, về cái thiện và cái ác, về lương tâm, danh dự, trách nhiệm và những phạm trù khác thuộc đời sống đạo đức tinh thần của xã hội.Hệ thống các quy tắc xử sự do nhà nước ban hành và được bảo đảm thực hiện, thể hiện ý chí nhà nước, điều chỉnh các quan hệ xã hội.
Nguồn gốc hình thànhTừ thực tế cuộc sống và nhận thức của con ngườiCác quy tắc xử sự trong đời sống xã hội, được nhà nước ghi nhận thành các quy phạm pháp luật
Nội dungNhững triết lí, quy tắc, bài học ứng xử trong cuộc sốngCác quy tắc xử sự (việc được làm, không được làm...)
Hình thức thể hiệnNhiều hình thức: truyền miệng, được ghi chép lại,...1 hình thức: Văn bản pháp luật
Phương thức tác độngGiáo dục, tuyên truyềnGiáo dục, cưỡng chế bằng quyền lực nhà nước
Tính chấtKhông bắt buộc, mang tính chung chung và không thống nhấtBắt buộc, chính xác, thống nhất
Không thực hiệnKhông bị xử phạtBị xử lý theo quy định của pháp luật
Chủ thể ban hànhDo ông cha đúc rút, truyền lại qua quá trình sống lâu dàiCác cơ quan nhà nước có thẩm quyền
Phạm viRộng hơn pháp luật (do có một số khía cạnh pháp luật không quy định như trong lĩnh vực tình bạn, tình yêu, sự giúp đỡ lẫn nhau trong đời sống hằng ngày...)Điều chỉnh quan hệ xã hội do nhà nước quy định

Trong khi pháp luật do Nhà nước ban hành và được đảm bảo thực hiện bằng những biện pháp cưỡng chế có khi rất nghiêm khắc như hình phạt tù, tử hình,… thì đạo đức lại được đảm bảo thực hiện bằng những biện pháp mang tính xã hội và thường ít nghiêm khắc hơn.

Mặc dù đạo đức không có bất kỳ biện pháp đảm bảo thực hiện nào từ phía Nhà nước và ít nghiêm khắc hơn nhưng hiệu quả trong việc điều chỉnh hành vi của con người không lại hề kém cạnh pháp luật.

Vì đạo đức tác động hành vi của con người qua dư luận xã hội và nó có sức mạnh to lớn trong việc tác động đến ý thức và hành vi của con người. Việc truy cứu trách nhiệm pháp lý còn có thời hiệu nhưng sự lên án, xử lý của đạo đức, của dư luận xã hội và của chính lương tâm con người thì không phụ thuộc vào thời hiệu nào cả, trái lại rất triền miên, day dứt, thậm chí suốt cả cuộc đời người vi phạm.

2. Mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật

Giữa đạo đức và pháp luật có mối quan hệ gắn bó, khăng khít với nhau. Đạo đức và pháp luật có sự tương quan lẫn nhau, tuy nhiên, sự tương quan này lại tại mỗi thời kì mà mỗi khác tùy thuộc vào tình hình xã hội, tư tưởng của xã hội và nhà nước lúc đó.

Điểm giống nhau của pháp luật và đạo đức
Giữa đạo đức và pháp luật có mối quan hệ gắn bó, khăng khít với nhau.

Pháp luật chỉ ra đời khi trong xã hội có sự xuất hiện của chế độ tư hữu và giai cấp. Giai cấp cầm quyền hay nhà nước quy định pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội và thực hiện sự thống trị của giai cấp đó đối với xã hội.

Các quy định của pháp luật sẽ không vi phạm, đi ngược lại với đạo đức xã hội. Quy phạm đạo đức có vai trò làm định hướng cho nhà làm luật trong việc xác định tội phạm hóa hay phi tội phạm hóa. Có nhiều quy định của pháp luật quy định chủ thể không được làm những hành vi trái với đạo đức xã hội và thuần phong mỹ tục.

Nhiều quy tắc đạo đức, chuẩn mực đạo đức phù hợp với ý chí của nhà nước nên được thể chế hóa, được nhà nước thừa nhận, được nhà nước nâng lên thành các quy phạm pháp luật.

Ví dụ như quy phạm pháp luật về quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối với con cái, của con cái đối với cha mẹ, của ông và đối với cháu, của cháu đối với ông bà là được nhà nước thừa nhận từ những chuẩn mực và quy tắc đạo đức lâu đời.

2.2. Pháp luật điều chỉnh lại đạo đức:

Pháp luật có vai trò trong việc bảo vệ, duy trì và phát triển các quy tắc, chuẩn mực đạo đức phù hợp, tiến bộ phù hợp với xã hội.

Pháp luật góp phần vào công cuộc củng cố, phát huy vai trò của các chuẩn mực đạo đức nếu chúng phù hợp với ý chí của nhà nước, với tình hình của xã hội. Một số chuẩn mực đạo đức có thể được thừa nhận trong các quy phạm pháp luật. Ví dụ như nghĩa vụ của cha mẹ đối với con cái được quy định trong Luật Hôn nhân và Gia đình.

Pháp luật có vai trò giữ gìn và phát huy những giá trị đạo đức đẹp đẽ, lâu đời của dân tộc; ngăn chặn sự tha hóa đạo đức.

3. Ví dụ về mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật

3.1. Ví dụ đạo đức là nền tảng hình thành pháp luật

Các phạm trù đạo đức như: nghĩa vụ đạo đức, lương tâm, nhân đạo, công bằng,... có ý nghĩa quan trọng trong hoạt động xây dựng và áp dụng pháp luật của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Chẳng hạn như trong quy định pháp luật về phẩm chất của cán bộ trong ngành Tư pháp luôn nêu lên nguyên tắc: thực hiện nhiệm vụ theo đúng pháp luật và phải có phẩm chất đạo đức tốt.

Việc những người vi phạm pháp luật có hành vi tự thú khi chưa bị phát hiện về hành vi vi phạm pháp luật đó luôn được sự khoan hồng từ phía Nhà nước và được sự đánh giá cao của pháp luật và đạo đức. Trong Bộ luật Hình sự có quy định về tình tiết giảm nhẹ, có thể miễn trách nhiệm hình sự trong một số trường hợp cũng đã thể hiện sự nhân đạo, khoan hồng của Nhà nước ta nhằm tạo cơ hội cho những người có hành vi vi phạm pháp luật có cơ hội để hoàn lương. Như vậy, việc đưa quan niệm đạo đức vào quy định pháp luật có tác dụng rất to lớn trong việc giáo dục nhân cách, phẩm chất của con người, đồng thời điều này cũng thể hiện tinh thần nhân đạo của Nhà nước.

3.2. Ví dụ pháp luật điều chỉnh lại đạo đức

Điểm c khoản 1 Điều 117 Bộ luật Dân sự 2015 nước ta quy định: “Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội”. Quy định này đòi hỏi người xác lập giao dịch dân sự không chỉ tuân thủ quy định pháp luật mà còn phải cân nhắc đến những quy tắc đạo đức. Như vậy, pháp luật sẽ là yếu tố đảm bảo cho hành vi của con người phù hợp với đạo đức hơn.

Hay trong Bộ luật hình sự cũng có quy định về tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng. Tội này đã được quy định tại điều 102 Bộ luật hình sự năm 1999 trước đây và được quy định tại điều 132 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017). Đây cũng là ví dụ tiêu biểu cho pháp luật điều chỉnh lại đạo đức, có tác dụng bắt buộc mọi người phải thực hiện những nghĩa vụ về đạo đức, lương tâm, nhân đạo...

Hoatieu.vn vừa giúp bạn đọc So sánh đạo đức và pháp luật. Để biết thêm các thông tin hữu ích khác, mời các bạn tham khảo thêm các thông tin hữu ích khác trên chuyên mục Tài liệu của HoaTieu.vn.

Các bài viết liên quan: