Dấu ấn ung thư đầu tiên được Ai là người nghiên cứu ra


Theo đánh giá của dự án “GLOBOCAN” về ung thư toàn cầu của Tổ chức Y tế Thế giới [WHO], ung thư phổi hiện là loại ung thư hay gặp nhất trên thế giới, với số ca mới được chẩn đoán trong năm 2012 là 1.825.000 ca, chiếm 13% trong tổng số các ung thư, tiếp theo là ung thư vú và đại trực tràng. Trong số đó, ở nam giới, số ung thư phổi phổi là 1.242.000 ca [16,7%], chiếm vị trí số 1, tiếp theo là ung thư tuyến tiền liệt và đại trực tràng, còn ở nữ giới là 583.000 ca [8,8%], đứng ở vị trí thứ 3, sau ung thư vú và đại trực tràng.

Hình 1. Ung thư phổi


Ung thư phổi được chia ra thanh 2 loại chính:

- Ung thư phổi tế bào không nhỏ [non-small cell lung cancer: NSCLC] chiếm 85- 90%, gồm 3 thể: ung thư biểu mô tế bào vảy [squamous cell carcinoma: 25-30%], ung thư biểu mô tuyến [adenocarcinoma: 40%] và ung thư biểu mô tế bào lớn [Large cell carcinoma: 10 -15%].

- Ung thư phổi tế bào nhỏ [small cell lung cancer: SCLC]: chiếm 10-15%.

Ngoài ra còn có một số loại ung thư phổi thể hiếm khác, chẳng hạn như khối u phổi ác tính [Lung carcinoid tumors], ung thư biểu mô nang tuyến [adenoid cystic carcinomas], các u hạch [lymphomas], u liên kết [sarcomas]; còn lại là các khối u phổi lành tính [benign lung tumors].

Trong những năm gần đây, mặc dù có tiến bộ trong chẩn đoán và điều trị, tiên lượng của ung thư phổi vẫn còn nghèo nàn, tỷ lệ sống sót sau 5 năm cũng chỉ là 15%.

1. Sinh học của CYFRA 21-1

CYFRA 21-1 [cytokeratin 19] có khối lượng phân tử 36 kDa, là một cytokeratin nhỏ nhất trong các cytokeratin và là các yếu tố cấu trúc cơ bản của bộ khung tế bào biểu mô, gồm cả các tế bào biểu mô phế quản. Các cytokeratin là các thành phần cơ bản của các sợi mảnh của tế bào biểu mô được phân thành 20 dạng khác nhau dựa trên khối lượng phân tử và điểm đẳng điện của chúng. Các cytokeratin ở dạng riêng rẽ hoặc kết hợp đều có tính đặc hiệu mô. Các biểu mô đa lớp như biểu mô tế bào vẩy được đặc trưng bởi các cytokeratin 6-11 và 9-17, trong khi các biểu mô đơn lớp được đặc trưng bởi các cytokin 8 và 18, còn biểu mô tuyến được đặc trưng bởi các cytokin 7, 19 và 20.

CYFRA 21-1 được thể hiện ở biểu mô lót trong các phế quản và được thể hiện quá mức trong các bệnh ác tính, đặc biệt là trong ung thư phổi tế bào không nhỏ. Ngoài ra, một số nghiên cứu cho rằng sự thể hiện của CYFRA 21-1 có liên quan với các hạch lympho di căn, giai đoạn TNM [Tumour: khối u, Node: hạch, và Metastases: di căn], kích thước khối u và sự biệt hóa. CYFRA 21-1 có thời gian bán hủy [half-life] là khoảng 2-5 giờ.

CYFRA 21-1 huyết thanh hoặc huyết tương được định lượng bằng phương pháp miễn dịch hóa phát quang [electro-chemiluminescence immunoassay: ECLIA] dựa trên nguyên tắc là 2 kháng thể đơn dòng đặc hiệu [KS 19.1 và BM 19.21] chống lại các mảnh của cytokeratin 19*.

2. Sử dụng CYFRA 21-1 CYFRA 21-1 có thể được sử dụng để chẩn đoán, đánh giá hiệu quả điều trị và theo dõi tiên lượng ung thư phổi, đặc biệt là ung thư phổi tế bào không nhỏ, cũng có thể sử dụng kết hợp với một số dấu ấn khác để chẩn đoán các ung thư khác như ung thư thực quản, vú, tụy, cổ tử cung hoặc bàng quang.

3. Chỉ định của CYFRA 21-1

- Chỉ định tuyệt đối: các trường hợp nghi ung thư phổi, đặc biệt là chỉ định để đánh giá hiệu quả điều trị, theo dõi diễn biến của bệnh và phát hiện tái phát sau điều trị ung thư phổi tế bào không nhỏ.

- Chỉ định tương đối: được chỉ định như một dấu ấn thứ hai để chẩn đoán và theo dõi các ung thư thực quản, vú, tụy, cổ tử cung hoặc bàng quang.

4. Giá trị bình thường

95% người khỏe mạnh bình thường có mức độ CYFRA 21-1 huyết thanh < 2,0 µg/L.

95% người bị các bệnh phổi lành tính có mức độ CYFRA 21-1 huyết thanh < 3,3 µg/L.

5. Ý nghĩa lâm sàng

5.1. Trong các bệnh ác tính

Vì CYFRA 21-1 không đặc hiệu cơ quan nên một kết quả [+] tính có thể xuất hiện trong nhiều loại khối u rắn.

5.1.1. Ung thư phổi

- Trong chẩn đoán ung thư phổi nguyên phát nói chung: CYFRA 21-1 với giá trị cắt 3,5 ng/mL có độ nhạy là 43% và độ đặc hiệu là 89% [Okamura K, 2013 [6]].

- Trong chẩn đoán ung thư phổi tế bào không nhỏ: CYFRA 21-1 có độ nhạy từ 59% [Wieskopf B, 1995 [10]] đến 78% [Pavicevic R, 2008 [8]] và độ đặc hiệu là 94% [Wieskopf B, 1995 [10]]. Mức độ tăng CYFRA 21-1 huyết tương tỷ lệ với mức độ xâm lấn của khối u [T1: 15%, T2: 49%, T3: 68%, T4: 55%] và giai đoạn ung thư [I: 29%, II: 56%, III: 63%, IV: 63%].

- Trong ung thư phổi tế bào nhỏ [small cell lung cancer: SCLC], độ nhạy của CYFRA 21-1 là 19% và độ đặc hiệu là 94% [Wieskopf B, 1995 [10]]. Trong ung thư phổi tế bào nhỏ, dấu ấn ung thư đầu tiên được chọn là NSE có độ nhạy là 54%, tuy nhiên khi kết hợp với CYFRA 21-1, độ nhạy lâm sàng của NSE tăng lên đến 62%.

- Trong ung thư phổi tế bào vẩy [squamous cell carcinoma]: CYFRA 21-1 có giá trị chẩn đoán [+] tính là 84,6% [Pavićević R, 2008 [8]], trong khi SCC và CEA chỉ có giá trị chẩn đoán [+] tính tương ứng là 30 và 20%.

- Trong ung thư phổi biểu mô tuyến [adenocarcinoma] và ung thư phổi tế bào lớn [large cell carcinoma]: CYFRA 21-1 là một dấu ấn của ung thư biểu mô tuyến với độ nhạy là 74,3% và của ung thư phổi tế bào lớn với độ nhạy là 75,3% [Pavićević R, 2008 [8]]. Độ nhạy của dấu ấn ung thư này tăng thêm khoảng 10% khi kết hợp với CEA. Nếu cả 2 dấu ấn ung thư này đều [+] tính thì để theo dõi diễn biến của các ung thư này theo thời gian, chỉ cần theo dõi một dấu ấn ung thư là đủ. CYFRA 21-1 là một yếu tố tiên lượng độc lập có hiệu lực trước điều trị của ung thư phổi cả ở thể tuyến chưa di căn và đã di căn [Ono A, 2013 [7]].

- Chẩn đoán phân biệt: để chẩn đoán phân biệt giữa ung thư phổi và các bệnh phổi lành tính, cũng như giữa ung thư phổi tế bào không nhỏ và ung thư phổi tế bào nhỏ, giữa ung thư phổi nguyên phát và thứ phát, sự kết hợp dấu ấn ung thư đầu tiên của CYFRA 21-1 được lựa chọn là NSE - một dấu ấn khác của ung thư phổi tế bào nhỏ. Trong các bệnh phổi lành tính, mức độ CYFRA 21-1 thường < 10 ng/mL, còn mức độ NSE thường < 20 ng/mL. Mức độ CYFRA 21-1 huyết thanh thường cao hơn trong ung thư phổi tế bào không nhỏ, nhưng mức độ NSE thường thấp hơn trong ung thư này. Các nghiên cứu cũng chỉ ra rằng trong các ung thư phổi thứ phát từ các ung thư nguyên phát ở các nơi khác di căn đến, chẳng hạn như ung thư đại trực tràng, vú, dạ dày, tinh hoàn, …, mức độ CYFRA 21-1 tương đối thấp, thường < 30 ng/mL.

- Tiên lượng bệnh: trong ung thư phổi tế bào không nhỏ, mức độ ban đầu của CYFRA 21-1 cho phép tiên lượng tốt hơn sự đánh giá giai đoạn dự trên lâm sàng [Vollmer RT, 2003 [9]]. CYFRA 21-1 là một yếu tố tiên lượng tốt cho các giai đoạn I, IIIA so với giai đoạn IIIB, trong khi NSE không thể hiện điều này. Nguy cơ tương đối đối với mức độ CYFRA 21-1 >3,3 ng/mL ở các giai đoạn IIIB và IV so với CYFRA 21-1

Chủ Đề