Chức năng cung cấp dịch vụ công của hành chính nhà nước

Bạn muốn biết dịch vụ hành chính công là gì? Cùng một số thông tin về các loại hình cơ bản và đặc trưng của dịch vụ hành chính công tại Việt Nam. Trong bài viết dưới đây, chúng tôi sẽ chia sẻ cụ thể để bạn tham khảo và áp dụng trong việc giải quyết những công việc liên quan đến tổ chức và cá nhân.

1. Dịch vụ hành chính công

Trả lời cho câu hỏi: Dịch vụ hành chính công là gì? Vâng, đây là những dịch vụ liên quan đến hoạt động thực thi pháp luật, không nhằm mục tiêu lợi nhuận, do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp cho tổ chức, cá nhân dưới hình thức các loại giấy tờ có giá trị pháp lý trong các lĩnh vực mà cơ quan nhà nước đó quản lý. Mỗi dịch vụ hành chính công gắn liền với một thủ tục hành chính nhất định, có chức năng giúp giải quyết hoàn chỉnh một công việc cụ thể liên quan đến một tổ chức và cá nhân nào đó. 

Dịch vụ hành chính công liên quan đến hoạt động thực thi pháp luật cần tuân thủ

Tính đến thời điểm hiện tại, đối tượng cung ứng duy nhất các dịch vụ hành chính công này là cơ quan công quyền hay các cơ quan nhà nước thành lập được ủy quyền thực hiện cung ứng dịch vụ hành chính công. Đây là một phần trong chức năng quản lý nhà nước. 

Để thực hiện chức năng này nhà nước phải tiến hành những hoạt động phục vụ trực tiếp như cấp giấy phép, giấy chứng nhận, đăng ký, công chứng, thị thực, hộ tịch…

2. Một số loại hình cơ bản của dịch vụ hành chính công Việt Nam

Dịch vụ hành chính công Việt Nam có những đặc trưng riêng gắn với từng loại hình riêng biệt, cụ thể là:

  • Hoạt động cấp các loại giấy phép: Giấy phép là một loại giấy tờ do các cơ quan hành chính nhà nước cấp cho các tổ chức và công dân để thừa nhận về mặt pháp lý quyền của các chủ thể này được tiến hành một hoạt động nào đó phù hợp với các quy định của pháp luật trong lĩnh vực được cấp phép.
  • Cấp các loại giấy xác nhận, chứng thực, bao gồm: công chứng, cấp chứng minh thư nhân dân, giấy khai sinh, khai tử, giấy đăng ký kết hôn, giấy phép lái xe, đăng ký ô tô, xe máy, tàu thuyền…

Dịch vụ hành chính công gắn liền với từng loại hình riêng biệt

  • Cấp giấy đăng ký kinh doanh và chứng chỉ hành nghề như: Giấy đăng ký kinh doanh được cấp cho chủ thể kinh doanh khi thành lập doanh nghiệp hoặc cơ sở kinh doanh. Giấy phép hành nghề nhằm chứng minh chủ thể có đủ khả năng và điều kiện hoạt động theo quy định của pháp luật đối với một nghề nhất định nào đó. Ví dụ như: giấy phép hành nghề khám chữa bệnh, hành nghề luật,…
  • Hoạt động thu các khoản đóng góp vào ngân sách và các quỹ của Nhà nước: Các hoạt động này gắn với nghĩa vụ mà Nhà nước yêu cầu các chủ thể trong xã hội phải thực hiện.
  • Giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân và xử lý các vi phạm hành chính: Hoạt động này nhằm bảo vệ những quyền cơ bản của công dân trong mối quan hệ giữa cơ quan hành chính nhà nước với công dân.

3. Đặc trưng của dịch vụ hành chính công Việt Nam

Dịch vụ hành chính công có những đặc trưng cơ bản là:

  • Việc cung ứng dịch vụ hành chính công luôn gắn với thẩm quyền mang tính quyền lực pháp lý, gắn với các hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước trong việc cấp các loại giấy phép, giấy khai sinh, chứng minh thư nhân dân; công chứng, xử lý và xử phạt hành chính, kiểm tra, thanh tra hành chính… Loại dịch vụ này chỉ có thể do các cơ quan hành chính nhà nước thực hiện.
  • Phục vụ cho hoạt động quản lý của Nhà nước: Dịch vụ hành chính công thực chất không thuộc về chức năng quản lý nhà nước, nhưng những hoạt động nhằm phục vụ cho chức năng quản lý. Dịch vụ hành chính công là những dịch vụ mà nhà nước bắt buộc và khuyến khích người dân phải làm để bảo đảm trật tự và an toàn xã hội. Nhu cầu được cấp các loại giấy tờ trên không xuất phát từ nhu cầu tự thân của họ, mà xuất phát từ những quy định có tính chất bắt buộc của nhà nước. Càng nhiều người sử dụng dịch vụ hành chính công thì càng tạo điều kiện cho hoạt động quản lý nhà nước được thực hiện tốt hơn.

Dịch vụ hành chính công thuộc về trách nhiệm của nhà nước với xã hội và công dân

  • Dịch vụ hành chính công là những hoạt động không vụ lợi, theo đó tiền thu dưới dạng lệ phí để nộp ngân sách nhà nước. Lệ phí không mang tính chất bù đắp hao phí lao động cho bản thân người cung cấp dịch vụ, mà chủ yếu là nhằm tạo ra sự công bằng giữa người sử dụng dịch vụ với người không sử dụng dịch vụ.
  • Mọi người dân có quyền ngang nhau trong việc tiếp cận và sử dụng các dịch vụ hành chính công với tư cách là đối tượng phục vụ của chính quyền. Nhà nước có trách nhiệm và nghĩa vụ cung cấp dịch vụ để phục vụ cho mọi người dân, không phân biệt đó là người như thế nào.

Có thể nói, cung ứng dịch vụ hành chính công là trách nhiệm của nhà nước trước xã hội, là sự thể hiện trực tiếp nhất vai trò của nhà nước trước các tổ chức và công dân. Hoạt động cải cách dịch vụ hành chính công đang trở thành một trong những vấn đề quan trọng của bộ máy nhà nước. Thực hiện tốt công tác này, sẽ giúp nhằm nâng cao hiệu quả và hiệu lực hoạt động của Nhà nước, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của công dân.

Nếu muốn biết rõ hơn về dịch vụ hành chính công là gì? Cũng như các yêu cầu, quy định, phạm vi thực hiện,… của dịch vụ hành chính công. Bạn có thể truy cập vào trang web: //giaiphaptinhhoa.com để tham khảo thông tin và được các chuyên viên tư vấn cụ thể, tận tình!

[QLNN] – “Dịch vụ công” và “quản lý cung ứng dịch vụ công” là những thuật ngữ khá phố biến trong lĩnh vực quản lý công. Đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu, phân tích và đưa ra các khái niệm, làm rõ nội hàm của những thuật ngữ này, tuy nhiên, trong bối cảnh hội nhập và toàn cầu hoá thì khái niệm “dịch vụ công” và “quản lý cung ứng dịch vụ công” vẫn cần được tiếp tục nghiên cứu từ giác độ khoa học quản lý công để xác định thêm những hàm nghĩa mới.

Ảnh minh hoạ: Internet Dịch vụ công

Dịch vụ công [DVC] được hiểu lànhững hoạt động phục vụ nhu cầu thiết yếu của xã hội và người dan; vì lợi ích chung của cộng đồng, của xã hội; do Nhà nước trực tiếp đảm nhận hay ủy quyền và tạo điều kiện cho khu vực tư nhân thực hiện.

Cung ứng dịch vụ [Sevice delivery] được hiểu “liên quan đến việc cung cấp hàng hóa công hữu hình và bản thân các dịch vụ vô hình”1. Như vậy, DVC không chỉ thuần tuý là dịch vụ do Nhà nước cung cấp, bản chất của nó là sự cung ứng hàng hóa, sản phẩm hữu hình hoặc vô hình cho lợi ích công cộng.

Theo đó, xuất hiện các mô hình cung ứng DVC: mô hình nhà nước cung cấp tài chính và tổ chức cung ứng dịch vụ; mô hình tư nhân cung ứng tài chính và tư nhân tổ chức cung ứng dịch vụ; mô hình liên kết giữa nhà nước và tư nhân trong cung ứng dịch vụ; mô hình “lấp chỗ trống” [thay thế]. Khi hoạt động cung ứng dịch vụ còn khoảng trống nào đó chưa được tính đến thì các cá nhân, tổ chức sẽ được quyền đề xuất bổ sung và thực hiện.

Việc cung ứng DVC được chia thành khu vực cung ứng DVC cốt lõi. Theo đó, khu vực cốt lõi này sẽ cung cấp dịch vụ dựa trên cơ sở pháp lý và các nguyên tắc trong quản lý công. Đối với khu vực cung ứng DVC mở rộng, chủ yếu dựa trên nhu cầu người thụ hưởng, do đó mang tính cạnh tranh cao. Hoạt động cung ứng DVC được thực hiện trên nguyên tắc, cái gì xã hội làm được thì “Nhà nước sẽ chuyển giao”. Nhà nước chỉ đảm nhận cung ứng các DVC cốt lõi mà không thể thay thế được.

Tính chất của DVC hiện nay đã có nhiều thay đổi. Có thể đưa ra một số thay đổi cơ bản sau:

– Nhu cầu, thị hiếu của người thụ hưởng DVC thay đổi. Toàn cầu hóa tạo nên một “thế giới phẳng”, do đó, những nhu cầu gắn với thói quen, truyền thống văn hóa của cư dân bản địa dần được bổ sung, dịch chuyển theo khuynh hướng chung của cộng đồng quốc tế. Cùng với đó là sự phát triển của công nghệ, cơ hội mở rộng, giao thoa về kinh tế, văn hóa – xã hội khiến mảng “cầu” trong dịch vụ trở nên đa dạng hơn.

– Sự thay đổi về “cầu” tác động trực tiếp đến nguồn cung và các biện pháp cung ứng dịch vụ: Phạm vi cung ứng dịch vụ mở rộng. Để cạnh tranh, hoạt động cung ứng dịch vụ sẽ tiếp cận người tiêu dùng trực tiếp hơn, nắm bắt xu thế nhanh nhạy hơn, do đó, việc cạnh tranh cũng quyết liệt hơn do cơ hội lựa chọn của người tiêu dùng nhiều hơn.

– Sản phẩm hàng hóa DVC thay đổi: các sản phẩm hàng hóa DVC sẽ chứa đựng nhiều giá trị văn hóa tích hợp, không thuần nhất gắn với một vùng lãnh thổ hay một nền văn hóa nào do đối tượng thụ hưởng dịch vụ cũng không thuần nhất như trước đây.

– Việc tiếp cận và sử dụng dịch vụ thay đổi: Đó là khuynh hướng tiện ích, thiết thực, dễ thay đổi mang tính phổ biến. Việc sử dụng sản phẩm dịch vụ dễ bị tác động theo xu thế, trào lưu. Chính những thay đổi trong cung ứng DVC đặt ra yêu cầu thay đổi trong quản lý nhà nước đối với lĩnh vực này.

Quản lý cung ứng dịch vụ công

Cung ứng DVC là do Nhà nước hoặc khu vực tư thực hiện, tuy nhiên, quản lý cung ứng DVC lại là chức năng quan trọng của Nhà nước.

Tuy nhiên, vấn đề đưa ra là, nhà nước sẽ quản lý như thế nào và quản lý bằng cách nào để một mặt, thỏa mãn nhu cầu hưởng thụ của người dân, của cộng đồng xã hội, mặt khác vẫn bảo đảm sự bình ổn, phát triển lâu dài và theo sát các mục tiêu đã đề ra.

Quản lý [hoặc hành chính] – Administration là việc: “Thực thi hoạt động của những người được giao mục tiêu chung. Một cách xem xét hệ thống hành chính là: [1] Một môi trường kích thích công tác hành chính cũng như tiếp cận những sản phẩm được tạo ra từ những hoạt động của nó. [2] Các nguồn vào chuyển tải đi khả năng kích thích của môi trường đến công tác hành chính. [3] Các nguồn chuyển tải đi những kết quả của hành động hành chính đến môi trường. [4] Quá trình chuyển hóa nguồn vào thành nguồn ra. [5] Thông tin phản hồi đưa các nguồn ra của một giai đoạn trở lại quá trình chuyển hóa và trở thành nguồn của giai đoạn sau”2.

Liên quan đến thuật ngữ quản lý, còn có một cụm từ khác cũng cần được quan tâm, đó là “Quy trình quản lý phù hợp”. Trong tiếng Anh, “Quy trình quản lý phù hợp” [Administrtive due process] được luận giải là: “Một thuật ngữ bao quát một số điểm trong luật hành chính, đòi hỏi các thủ tục hành chính của các cơ quan chính phủ, các uỷ ban phải dựa trên các chỉ dẫn được ghi thành văn bản nhằm bảo vệ các quyền của cá nhân và bảo vệ họ trước việc sử dụng quyền lực hành chính một cách tùy tiện, không công bằng”3.

Nhà nước quản lý DVC thông qua bộ máy hành chính quan liêu. Bộ máy hành chính quan liêu [Bureaucracy] là hệ thống hành chính có nhiệm vụ tổ chức thực hiện chính sách thông qua các thủ tục đã được tiêu chuẩn hóa và dựa trên khả năng chuyên môn hóa nhiệm vụ. Theo nghĩa ban đầu, nó được mô tả như một phương pháp hành chính được chính thức hóa và hệ thống và hệ thống hóa [mà Max Weber gọi là các quy tắc có thể tính toán được, các tổ chức với những đặc điểm cấu trúc nhằm thúc đẩy hiệu lực và nhằm phấn đấu đạt được một số mục tiêu nhất định].

Một số đặc điểm của bộ máy hành chính quan liêu đó là: một hệ thống phân bậc thẩm quyền và tập trung hóa dựa trên các đạo luật, với một phạm vi thẩm quyền nhà nước đã được xác định và được kiểm soát; một hệ thống hoạt động chuyên môn hóa; mức thẩm quyền được phân chia theo thứ bậc với những kênh thông tin liên lạc chính thức giữa các mức khác nhau; cắt giảm tất các các công việc cho phù hợp vói các quy tắc và thủ tục chính thức; thực thi nhiệm vụ mà không cần đếm xỉa đến cảm nghĩ hay cảm tình cá nhân, song nhấn mạnh đến chức năng và thẩm quyền4.

Quay trở lại với việc quản lý cung ứng DVC. Rõ ràng, hoạt động quản lý của nhà nước với bộ máy và tất cả các quy trình, công cụ của nó sẽ tác động trực tiếp hoạt động cung ứng DVC, tức là môi trường của hoạt động hành chính. Nhà nước quản lý hoạt động cung ứng dịch vụ để bảo đảm sự công bằng, tính hiệu quả cũng như kiểm soát chất lượng dịch vụ.

Đặc biệt, đối với một số lĩnh vực dịch vụ thiết yếu, ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống tinh thần, sức khoẻ, năng lực và trình độ của người dân, hoạt động quản lý của nhà nước càng đòi hỏi sự chặt chẽ, giải quyết nhanh chóng và xử lý kịp thời. Cùng với đó, nhà nước sẽ phải tạo ra một môi trường kết nối, hình thành chuỗi cung ứng dịch vụ để bảo đảm hiệu quả cao nhất. Việc quản lý không chỉ thiết lập các trật tự trong cung ứng dịch vụ, cũng không chỉ đơn thuần điều tiết các hoạt động này.

Ở một khía cạnh khác, quản lý cung ứng dịch vụ còn phải quan tâm đến quản lý “cầu”. Nghĩa là, các nhà quản lý sẽ phải nắm bắt nhu cầu của người dân, của các cộng đồng và xã hội. Việc nắm bắt đó giúp Nhà nước xây dựng được khung pháp lý cũng như các quy trình, thủ tục trong quản lý phù hợp với thực tế, tránh được “bệnh quan liêu” mang tính “bàn giấy” cứng nhắc…

Mặt khác, việc nắm bắt nhu cầu này sẽ giúp cơ quan quản lý nhà nước định hướng được xu thế phát triển mang tính chiến lược, tức là tiếp cận “Thông tin phản hồi đưa các nguồn ra của một giai đoạn trở lại quá trình chuyển hóa và trở thành nguồn của giai đoạn sau” như trên đã nêu.

Trong một số trường hợp, nếu thấy “cầu” chững lại, ảnh hưởng đến dịch vụ “cung”, tác động đến sự phát triển kinh tế – xã hội thì Nhà nước sẽ phải có chính sách “kích cầu”. Bên cạnh đó, qua phân tích, nắm bắt và xử lý thông tin, nếu nhận thấy có những sản phẩm dịch vụ mang tính thiết yếu, phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội và có lợi cho người dân, cho cộng đồng, Nhà nước phải thực hiện chức năng “định hướng cầu”.

Hiện nay, có khá nhiều những vấn đề đặt ra với việc quản lý cung ứng DVC, qua đó cũng cho thấy sự lúng túng của nhiều cơ quan quản lý nhà nước khi giải quyết, xử lý các “sự cố” xảy ra đối với hoạt động này.

“Quản lý DVC” cần phải có cách hiểu chính xác, đầy đủ và linh hoạt. Theo đó, quản lý cung ứng DVC là sự quản lý phải đáp ứng với nhu cầu được cung ứng DVC trong thực tiễn.

Chú thích:
1,2,3,4. Nguyễn Minh Y. Từ điển Hành chính công Anh – Việt. H. NXB Thống kê, 2002, tr.411,17,19, 62.
Tài liệu tham khảo:
1. TS. Nguyễn Ngọc Hiến [Chủ biên]. Vai trò của nhà nước trong cung ứng DVC. H. NXB Văn hóa – Thông tin, 2002. TS. Nguyễn Thị Hường
Học viện Hành chính Quốc gia

Video liên quan

Chủ Đề