Chú thế nào có trách nhiệm đảm bảo cho pháp luật được mọi người thi hành và tuân thủ trong thực tế

Mục lục bài viết

  • 1. Thực hiện pháp luật là gì?
  • 2. Cơ sở của trách nhiệm nhà nước trong việc thực hiện pháp luật của công dân
  • 3. Trách nhiệm nhà nước trong xây dựng pháp luật
  • 4. Trách nhiệm nhà nước trong tổ chức thực hiện pháp luật
  • 4.1. Trách nhiệm của nhà nước trong việc tổ chức phổ biến, giáo dục pháp luật
  • 4.2. Trách nhiệm nhà nước trong việc tạo lập và quản lý dư luận xã hội về việc thực hiện pháp luật của công dân
  • 4.3. Trách nhiệm nhà nước về xây dựng môi trường xã hội – pháp lý cho việc thực hiện pháp luật của công dân
  • 4.4. Đảm bảo tôn trọng quyền con người, công bằng, bình đẳng, nhất quán và nghiêm minh trong tổ chức thực hiện pháp luật
  • 4.5. Trách nhiệm xác lập và đảm bảo thực hiện cơ chế giám sát, kiểm soát việc tổ chức thực hiện pháp luật

1. Thực hiện pháp luật là gì?

Thực hiện pháp luật là hành vi của chủ thể [hành động hoặc không hành động] được tiến hành phù hợp với quy định, với yêu cầu của pháp luật, tức là không trái, không vượt quá khuôn khổ mà pháp luật đã quy định. Thực hiện pháp luật có thể là một xử sự có tính chủ động, được tiến hành bằng một thao tác nhất định nhưng đó cũng có thể là một xử sự có tính thụ động, tức là không tiến hành vượt xử sự bị pháp luật cấm.

2. Cơ sở của trách nhiệm nhà nước trong việc thực hiện pháp luật của công dân

Thực hiện pháp luật là nghĩa vụ pháp lý và đạo đức của mỗi công dân trong nhà nước pháp quyền dân chủ. Pháp luật được xây dựng và thực hiện trên cơ sở đạo đức. Quy định pháp luật không thể tự động hóa thực hiện theo kiểu “mệnh lệnh – phục tùng” hay chỉ đơn thuần dựa vào sự áp chế của các chế tài pháp luật. Với tư cách là tổ chức thực hiện quyền lực công, nhà nước nói chung, các cơ quan, cá nhân công quyền nói riêng có trách nhiệm đảm bảo thực hiện pháp luật của công dân. Việc thực hiện pháp luật của mỗi công dân phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố khách quan và chủ quan, trong đó có bản thân hoạt động hàng ngày của nhà nước. Đặc biệt là đối với nhà nước pháp quyền, đảm bảo cho pháp luật được thực hiện là trách nhiệm đạo đức, trách nhiệm chính trị và pháp lý của nhà nước nói chung, các cơ quan nhà nước, cá nhân công quyền nói riêng.

Mặc dù thực hiện pháp luật là trách nhiệm của mỗi một công dân, song nhà nước có trách nhiệm tổ chức thực hiện pháp luật, đảm bảo cho các quy định, các nguyên tắc pháp luật được hiện thực hóa trong đời sống xã hội. Đây là vấn đề mang tính nguyên tắc và là một trong những đặc điểm, tiêu chí nhận diện nhà nước pháp quyền, nhận diện tính hiện thực của các quyền, lợi ích của con người. Vấn đề này cần được nhận thức một cách đầy đủ và thiết thực trong thực tiễn hoạt động của các cơ quan nhà nước cũng như trong quá trình tổ chức thực hiện pháp luật, đưa pháp luật vào cuộc sống.

Thực hiện pháp luật vừa có tính chất quá trình, vừa như là kết quả cuối cùng của điều chỉnh pháp luật đối với từng trường hợp cụ thể trong cuộc sống. Bản chất của thực hiện pháp luật là “sự chuyển hóa các yêu cầu chung được xác định trong các nguyên tắc và quy phạm pháp luật vào trong các hành vi cụ thể của các chủ thể”. Cơ sở đạo đức của trách nhiệm nhà nước đối với quyền con người yêu cầu phải xác lập nguyên tắc và cơ chế trách nhiệm nhà nước về bảo đảm thực hiện pháp luật của công dân trong đó có bảo đảm thực hiện các quyền con người, quyền công dân.

Trách nhiệm nhà nước đảm bảo thực hiện pháp luật của công dân được thể hiện trong tất cả các lĩnh vực hoạt động của nhà nước, từ xây dựng chính sách, pháp luật đến tổ chức thực hiện pháp luật, áp dụng pháp luật, kiểm tra, giám sát, dự báo và quản lý quá trình vận hành, phát triển của hệ thống pháp luật quốc gia.

3. Trách nhiệm nhà nước trong xây dựng pháp luật

Xây dựng pháp luật vừa là tiền đề, vừa là điều kiện của thực hiện pháp luật, ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng, hiệu quả thực hiện pháp luật của công dân. Việc thực hiện pháp luật của công dân ngoài những yếu tố khách quan và chủ quan tác động đến thì còn phụ thuộc vào tính hợp lý, hợp pháp của các quy định pháp luật. Trách nhiệm của nhà nước thông qua các cơ quan nhà nước có thẩm quyền là phải đảm bảo tính minh bạch, công khai, tính dân chủ, tính nhất quán, thống nhất, tính hài hòa, cân bằng các loại lợi ích trong quá trình xây dựng các văn bản pháp luật, trong nội dung các quy định pháp luật.

Các chế tài pháp luật cần đủ độ răn đe, đây là một trong những điều kiện quan trọng đảm bảo cho các quy định pháp luật được thực hiện. Có nhiều trường hợp, các chủ thể pháp luật sẵn sàng vi phạm pháp luật vì chế tài xử lý vi phạm quá nhẹ so với lợi ích mà họ có thể đạt được do vi phạm pháp luật đem lại.

Chất lượng, tính hợp lý, khả thi của văn bản pháp luật cần được tiếp cận từ góc độ đảm bảo thực hiện pháp luật. Theo đó, về nguyên tắc, trong văn bản pháp luật cần thể hiện rõ ràng những vấn đến cơ bản sau đây: đối tượng có trách nhiệm thực hiện; cơ quan có trách nhiệm tổ chức thực hiện; cơ quan áp dụng chế tài; cơ quan giải quyết tranh chấp; cơ quan cấp vốn; cơ quan giám sát và đánh giá; cơ quan ban hành các văn bản dưới luật; cơ quan duy trì trật tự văn bản.

Hài hòa, cân bằng các loại lợi ích là một trong những điều kiện căn bản để đảm bảo tính đúng đắn của các quy định pháp luật và tính khả thi của chúng trong thực tiễn. Đây là yếu tố rất cơ bản tác động đến ý thức, hành vi của con người, cùng với những điều kiện khác, có thể dẫn dắt con người thực hiện pháp luật một cách tốt nhất. Hiệu lực của pháp luật phụ thuộc vào sự tôn trọng cân bằng lợi ích của chủ thể thực thi pháp luật. Các chế tài nghiêm minh và những biện pháp kiểm soát chặt chẽ việc thực thi là điều kiện quan trọng ảnh hưởng tới hiệu lực của pháp luật, đến ý thức và hành vi hợp pháp của công dân.

Sự mâu thuẫn, chồng chéo giữa các quy định, các văn bản pháp luật cũng là một trong những yếu tố tiêu cực đối với việc thực hiện pháp luật, cản trở việc thực thi pháp luật, dẫn đến tâm lý coi thường, mất niềm tin vào các quy định pháp luật, tạo điều kiện cho những chuỗi vi phạm pháp luật ngoài vòng xử lý. Có rất nhiều lực cản đối với việc thực hiện hành vi hợp pháp. Ngoài những nguyên nhân về ý thức, đạo đức, trình độ, sự thiếu thông tin, tác động từ mặt trái của kinh tế thị trường, từ hoàn cảnh lịch sử, chiến tranh, tập tục lạc hậu… còn phải kể đến những tác động từ phía pháp luật và cơ chế quản lý nhà nước. Đơn cử như tình trạng có quá nhiều văn bản hướng dẫn thi hành văn bản pháp luật, bất cập, mâu thuẫn, chồng chéo, sự chậm trễ trong việc ban hành các văn bản hướng dẫn từ phía các cơ quan trung ương hay thói quen chờ văn bản hướng dẫn thi hành cũng là những trở ngại cho việc thực hiện hành vi hợp pháp.

Tình trạng chờ đợi các văn bản dưới luật, hướng dẫn thi hành văn bản luật còn khá phổ biến, dẫn đến hiệu lực và hiệu quả thấp của thực hiện pháp luật. Do vậy, cần đảm bảo tính hệ thống giữa các văn bản quy phạm pháp luật, các quy định pháp luật. Tính hệ thống của các văn bản pháp luật phải được đảm bảo không chỉ về hình thức, kết cấu mà còn về nội dung, xuất phát từ đòi hỏi đáp ứng tính thứ bậc về trật tự hiệu lực pháp luật.

Về nguyên tắc, để đảm bảo thực hiện các quy định pháp luật cụ thể cần phải có các điều kiện đảm bảo chung của cả hệ thống các biện pháp, cơ chế pháp lý, bao gồm: cơ chế kiểm tra, giám sát việc thi hành pháp luật, bảo đảm tuân thủ hiến pháp; cơ chế bảo đảm quyền tiếp cận thông tin, tiếp cận pháp luật, tiếp cận tư pháp; vai trò của các cơ chế dân chủ cơ sở, của việc giáo dục đạo đức và lối sống, hệ thống các biện pháp khuyến khích hành vi pháp luật tích cực; hệ thống kiểm soát xã hội, phòng ngừa và chống các vi phạm và tội phạm. Chẳng hạn, để đảm bảo cho các chủ thể tham gia giao thông chấp hành pháp luật thì cần đến sự huy động, sự “vào cuộc” của hàng loạt các thiết chế pháp lý và xã hội.

Trách nhiệm của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền là phải làm cho hệ thống pháp luật đơn giản, gọn nhẹ, khắc phục nhanh chóng sự phức tạp, rườm rà, số lượng quá lớn, khó tiếp cận, khó vận dụng và kiểm soát của hệ thống pháp luật hiện hành. Đây chính là một trong những điều kiện cơ bản đảm bảo cho công dân thực hiện pháp luật.

4. Trách nhiệm nhà nước trong tổ chức thực hiện pháp luật

Tổ chức thực hiện pháp luật vừa là một trong những hình thức hoạt động chủ yếu của nhà nước vừa là trách nhiệm của nhà nước đối với xã hội, đối với việc bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân. Hoạt động tổ chức thực hiện pháp luật của các cơ quan nhà nước là quá trình đưa các quy định pháp luật vào đời sống xã hội bằng các thiết chế pháp lý kết hợp với các thiết chế xã hội. Trong đó, nhà nước luôn đóng vai trò, trách nhiệm trụ cột, chính yếu mặc dù mỗi cá nhân, tổ chức phải chịu trách nhiệm pháp lý về mọi hành vi của mình theo quy định pháp luật. Nhà nước cần tạo lập những điều kiện vật chất và tinh thần cần thiết để thực thi pháp luật.

4.1. Trách nhiệm của nhà nước trong việc tổ chức phổ biến, giáo dục pháp luật

Nhà nước có nghĩa vụ tổ chức phổ biến, giáo dục pháp luật phù hợp với các nhóm đối tượng xã hội trong các lĩnh vực quan hệ xã hội. Ngay cả trong điều kiện xã hội hóa phổ biến, giáo dục pháp luật thì nhà nước cũng vẫn phải là trung tâm, chịu trách nhiệm chủ yếu. Vấn đề đặt ra là cần nghiên cứu để đổi mới mạnh mẽ cách thức, nội dung, phương pháp phổ biến, giáo dục pháp luật thì mới có thể đem lại hiệu quả thiết thực. Một trong những nội dung cần đổi mới chính là sự kết hợp phổ biến, giáo dục về kiến thức pháp luật với những kỹ năng cần thiết trong việc thực hiện pháp luật đối với các hình thức thực hiện pháp luật của công dân: tuân thủ pháp luật, chấp hành pháp luật và sử dụng pháp luật trong mối quan hệ mật thiết của các hình thức thực hiện pháp luật này.

Sự hiểu biết và tôn trọng pháp luật là cơ sở để mỗi cá nhân hình thành ý thức tôn trọng và lối sống tuân theo pháp luật. Việc công dân hiểu biết pháp luật, có lối sống đạo đức là cơ sở hình thành, xây dựng tính bền vững cho phong cách sống điềm tĩnh, chủ động trong những tình huống thực tiễn trước sự tác động phức tạp và đa chiều của cuộc sống. Giáo dục pháp luật kết hợp với giáo dục đạo đức có mục đích và yêu cầu hình thành tính hướng thiện trong hành vi của các cá nhân.

Việc phổ cập các quy phạm pháp luật trong xã hội do vậy tác động to lớn đến ý thức và hành vi hợp pháp của các cá nhân. Luật pháp muốn hiệu quả thì ngoài sức mạnh cưỡng chế còn cần huy động cả sức mạnh của tư tưởng và của tinh thần, pháp luật phải được con người nhận thức như là cái cần thiết và có cơ sở, phải tạo niềm tin và sự tôn trọng đối với pháp luật.

4.2. Trách nhiệm nhà nước trong việc tạo lập và quản lý dư luận xã hội về việc thực hiện pháp luật của công dân

Dư luận xã hội ngày càng khẳng định vai trò quan trọng trong xây dựng và thực hiện pháp luật. Những năm gần đây, dư luận xã hội đã thể hiện vai trò quan trọng trong hoạt động xây dựng chính sách và pháp luật của nhà nước ta. Song, đối với thực hiện pháp luật, việc tổ chức, quản lý và nghiên cứu dư luận xã hội còn khá khiêm tốn. Trong khi đó, dư luận xã hội là một trong những kênh đặc biệt quan trọng đối với việc đảm bảo thực hiện pháp luật. Ví dụ, trong lĩnh vực giao thông, nếu tạo lập, phát huy hơn nữa dư luận cộng đồng, xã hội để hiến kế các giải pháp thiết thực, đồng bộ chắc chắn sẽ đem lại những hiệu ứng tích cực thay vì chỉ dừng lại ở việc điều chỉnh các quy định pháp luật mang tính tình thế như lâu nay. Nếu sự răn đe quá yếu thì hiệu lực thi hành pháp luật sẽ rất thấp.

4.3. Trách nhiệm nhà nước về xây dựng môi trường xã hội – pháp lý cho việc thực hiện pháp luật của công dân

Nhà nước cần đầu tư thỏa đáng vào việc xây dựng môi trường pháp lý – xã hội để tạo lập, khuyến khích những hành vi hợp pháp, hành vi đấu tranh tích cực đối với những biểu hiện coi thường, bất chấp pháp luật, vi phạm pháp luật cũng như hỗ trợ, tôn vinh những hành vi phù hợp với văn hóa pháp luật. Dư luận xã hội đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo trật tự, kỷ cương và văn hóa pháp luật trong các lĩnh vực hoạt động xã hội, đặc biệt là trong giao thông, sản xuất, kinh doanh các mặt hàng lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh. Thái độ quan tâm, phẫn nộ, lãnh đạm, thờ ơ hay trung lập đối với các hành vi vi phạm pháp luật đều là những biểu hiện đa dạng, nhạy cảm về tâm lý pháp luật của các cá nhân. Các trạng thái tâm lý pháp luật này thường xuất hiện ở các cá nhân trong quá trình tác động của các quy phạm pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật của các cá nhân. Tâm lý pháp luật của cá nhân và của các nhóm đối tượng nhất định cũng thường xuyên thay đổi dưới tác động của các yếu tố chủ quan và khách quan đó. Vì vậy, cần tạo lập dư luận xã hội thông qua các tổ chức xã hội kêu gọi người dân lên tiếng với các hiện tượng vi phạm pháp luật.

Để có thể đưa các quy định pháp luật vào cuộc sống, vào hành vi thực tế của con người, phải cần môi trường xã hội – pháp lý. Một người có phẩm chất đạo đức tốt, có tri thức pháp luật, học vấn pháp luật nhưng nếu rơi vào một môi trường thuận lợi của hành vi vi phạm pháp luật, đạo đức thì sẽ có nguy cơ vi phạm pháp luật và đạo đức cao hơn. Tuy vậy, môi trường không vi phạm pháp luật cũng không hoàn toàn đồng nghĩa với môi trường của những hành vi hợp pháp và hợp đạo đức. Môi trường “thứ hai” này rộng hơn và khó tạo lập hơn.

Tuân thủ pháp luật – tức không làm điều pháp luật cấm đã khó, song để chấp hành nghĩa vụ pháp lý hay làm bổn phận đạo đức, sử dụng đúng pháp luật, giữ cho cái tâm trong sáng lại muôn ngàn lần khó hơn và thường khó bề kiểm soát…

Mục đích của xây dựng môi trường xã hội – pháp lý là tăng cường các hành vi hợp pháp, nâng cao chất lượng, hiệu quả của pháp luật; giảm thiểu các hành vi vi phạm pháp luật, các hành vi lãnh đạm, thiếu hay mất niềm tin vào pháp luật. Tính ổn định tương đối, phù hợp cuộc sống, công khai, minh bạch của pháp luật sẽ là một trong những yếu tố căn bản tạo dựng môi trường pháp lý lành mạnh, hiệu quả. Sự hiểu biết pháp luật của cá nhân không thể tự động dẫn đến hành vi hợp pháp. Cần tạo dư luận xã hội để lên án những hành vi vi phạm đạo đức và pháp luật. Đồng thời, cần ủng hộ, khuyến khích, tạo điều kiện cho những hành vi hợp pháp, hợp đạo đức.

Hiệu quả đấu tranh phòng và chống các vi phạm pháp luật sẽ được nâng cao nếu như xã hội và nhà nước quan tâm xây dựng môi trường xã hội – pháp lý cho những hành vi hợp pháp, hợp đạo đức và đấu tranh phòng ngừa, ngăn chặn, xử lý nghiêm minh những hành vi vi phạm pháp luật.

4.4. Đảm bảo tôn trọng quyền con người, công bằng, bình đẳng, nhất quán và nghiêm minh trong tổ chức thực hiện pháp luật

Đây là trách nhiệm quan trọng nhưng rất khó khăn. Yêu cầu đặt ra là giáo dục ý thức đạo đức và ý thức pháp luật, văn hóa pháp luật của cán bộ, công chức trong thực thi pháp luật và đảm bảo việc thực hiện pháp luật của công dân. Các quy định về quyền con người, quyền công dân đã được ghi nhận trong các văn bản pháp luật tương ứng có trở thành hiện thực hay không là phụ thuộc vào hoạt động áp dụng pháp luật nói riêng, tổ chức thực hiện pháp luật nói chung của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Một trong những điều kiện đặc biệt quan trọng để đảm bảo thực hiện pháp luật của công dân trong nhà nước pháp quyền dân chủ chính là tính hiện thực của các quy định pháp luật. Tình trạng pháp luật không được thực hiện, hay thực hiện không nghiêm minh, không kịp thời, không minh bạch, công bằng bởi các cơ quan công quyền sẽ dẫn đến những ảnh hưởng tiêu cực đến ý thức và hành vi pháp luật của công dân. Việc thiếu lòng tin vào tính công bằng, bình đẳng và nghiêm minh của pháp luật là một trong những yếu tố làm tăng thêm chi phí tổ chức thực hiện pháp luật. Max Weber đã từng nhấn mạnh rằng, một nhà nước có hưng thịnh hay không tùy thuộc vào việc những đạo luật do nhà nước ban hành có được tuân thủ hay không.Các cơ quan nhà nước có trách nhiệm đảm bảo tính công khai, minh bạch và có trách nhiệm giải trình trong quá trình tổ chức thực hiện pháp luật. Công khai, tính minh bạch, chịu trách nhiệm giải trình vừa là yêu cầu vừa là điều kiện để tổ chức thực hiện pháp luật của công dân có hiệu quả và bền vững. Tính công khai, minh bạch cần được bảo đảm trong việc tiếp cận nội dung, quy trình, thủ tục thực hiện các quy định pháp luật của công dân. Trong điều kiện hệ thống pháp luật còn nhiều hạn chế và phức tạp, còn có sự mâu thuẫn, chồng chéo trong nhiều văn bản pháp luật, trình độ văn hóa pháp luật còn thấp của người dân thì yêu cầu về tính minh bạch, công khai, trách nhiệm giải trình của các cơ quan nhà nước, về tiếp cận thông tin pháp luật lại càng có tầm quan trọng đặc biệt. Để tiếp tục nâng cao tính minh bạch của hệ thống pháp luật và tăng cường tính công khai, minh bạch trong hoạt động của các cơ quan nhà nước, cần có những giải pháp thực thi có hiệu quả những quy định của pháp luật trên thực tế.

4.5. Trách nhiệm xác lập và đảm bảo thực hiện cơ chế giám sát, kiểm soát việc tổ chức thực hiện pháp luật

Kiểm soát quyền lực nhà nước trong mối quan hệ giữa nhà nước và công dân cần được thể hiện cụ thể ở cơ chế kiểm soát từ bên trong nhà nước và từ bên ngoài nhà nước – kiểm soát từ nhân dân và xã hội đối với toàn bộ hoạt động tổ chức thực hiện pháp luật, áp dụng pháp luật của các cơ quan nhà nước. Chúng ta đã có nhiều quy định pháp luật về kiểm tra, giám sát xã hội và thực tế cũng đã có nhiều hiệu ứng tích cực từ hoạt động này trong thời gian qua. Tuy vậy, công việc này chưa được thực hiện thường xuyên, chưa kể đến một số nơi còn làm mang tính hình thức, phong trào. Vấn đề quan trọng đặt ra là cần tổ chức, quản lý việc kiểm tra, giám sát và chung hơn là kiểm soát xã hội đối với hoạt động áp dụng pháp luật của các cơ quan nhà nước liên quan đến quyền, lợi ích của người dân trong mọi lĩnh vực xã hội.

Trên đây là tư vấn của chúng tôi. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ bộ phận tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài điện thoạigọi ngay số: 1900.6162 để được giải đáp. Rất mong nhận được sự hợp tác!

Video liên quan

Chủ Đề