Bùi thị tích tiếng trung viết như thế nào năm 2024
Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản và Đài Loan đều có ảnh hưởng từ chữ Hán tự và sử dụng chữ Hán trong việc đặt tên. Điều này tạo ra sự tương đồng trong cách diễn đạt ý nghĩa và âm thanh của các cái tên. Điều này cũng đúng ở Việt Nam chúng ta. Để biết tên mình dịch sang tiếng nước ngoài trông như thế nào, mời bạn đọc theo dõi ngay dưới đây. Show
Chữ Bùi trong tiếng Trung Quốc được viết là: 裴 - Péi Chữ Bùi trong tiếng Hàn Quốc được viết là: 배 - Bae Chữ Thị trong tiếng Trung Quốc được viết là: 氏 - Shì Chữ Thị trong tiếng Hàn Quốc được viết là: 이 - Yi Chữ Ngọc trong tiếng Trung Quốc được viết là: 玉 - Yù Chữ Ngọc trong tiếng Hàn Quốc được viết là: 옥 - Ok Chữ Thành trong tiếng Trung Quốc được viết là: 城 - Chéng Chữ Thành trong tiếng Hàn Quốc được viết là: 성 - Seong Tên Bùi Thị Ngọc Thành được viết theo tiếng Trung Quốc là 裴 氏 玉 城 - Péi Shì Yù Chéng Tên Bùi Thị Ngọc Thành được viết theo tiếng Hàn Quốc là 배 이 옥 성 - Bae Yi Ok Seong Xem thêm: Tra cứu tên của bạn theo tiếng Trung, Hàn Xem thêm: Tên của bạn có hợp phong thủy năm sinh hay không? Lượt tra cứu gần nhất
Tên Trần Thanh Tuyền được viết theo tiếng Trung Quốc là: 陈 青 璿 - Chen Qīng Xuán và được viết theo tiếng Hàn Quốc là: ... - ... Xem đầy đủ Tại Việt Nam họ Bùi phổ biến đứng hàng thứ 9 trong hơn 200 dòng họ, chiếm 2% dân số ở Việt Nam. Ở Trung Quốc họ Bùi phổ biến ở các tỉnh phía bắc Trung Quốc. Việt Nam[sửa | sửa mã nguồn]• Họ Bùi Việt Nam là một họ bản địa, có gốc trên đất Việt từ xa xưa đến thời các vua Hùng dựng nước. - Theo "Lịch sử Việt Nam" của các nhà sử học Phan Huy Lê, Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn, Lương Ninh, trước thời các vua Hùng thì người Việt bản địa đã có mặt từ lâu. Bởi vậy chưa có bằng chứng nào để nói rằng tổ tiên họ Bùi có gốc tích từ Trung Quốc. Về điểm này cũng phải làm rõ một thực tế lịch sử: Người Hán vốn gốc ở lưu vực sông Hoàng Hà. Còn từ sông Trường Giang trở về phía Nam xưa kia là đất sinh tụ của người Bách Việt. Qua quá trình chinh phục và đồng hoá, các tộc Việt khác đều bị Hán hoá, chỉ còn các tộc Âu Việt và Lạc Việt làm nền tảng cho triều đại Hùng Vương. • Họ Bùi có một tỉ lệ cao là người Mường được xem như người Việt cổ. Nay nhiều nhà nghiên cứu đã phát hiện trong các phong tục, tập quán của người Mường khác hẳn của người Hán (có truyền thuyết cũng như nhiều tư liệu cho thấy "Tản Viên Sơn Thánh" cũng là người Mường), chứng minh họ Bùi vốn có gốc từ người bản địa. Nhân chủng học, ngôn ngữ học… đều phù hợp với điều đó. • Dân tộc Mường ở miền Bắc Việt Nam có tỷ lệ cao mang họ Bùi, sống tập trung ở các tỉnh: Hòa Bình, Thanh Hóa, Phú Thọ, Sơn La, Ninh Bình. Thời đại Hùng Vương và Văn minh Đại Việt[sửa | sửa mã nguồn]Theo tư liệu của Bộ Lễ, triều Lê Anh Tông, do đại thần "Hàn lâm lễ viện Đông các đại học sĩ" Nguyễn Bính soạn, có đầu đề "Ngọc Phả cổ lục đức Đổng Sóc xung thiên Đại thánh Thần Vương triều nhà Hùng, họ Việt Thường. Phiên thần thượng đẳng, bộ chi cẩn". Bản gốc còn lưu lại Viện Hán - Nôm, ngoài bì có đóng dấu bầu dục của Viễn đông Bác Cổ thời Pháp thuộc" thì: Từ thời Hùng Vương thứ 6 được ghi nhận có niên đại từ 1401 đến 1121 TCN, trong thời gian đó xảy ra sự kiện Phù Đổng đánh giặc Ân, sự kiện đã được dân gian huyền thoại hoá, nhưng qua những chứng cứ, tư liệu về trang Khê Đầu ghi rõ có cụ Bùi Cẩn và Phạm Thị Hoà sinh ra bà Bùi Thị Dung, mẹ của Thánh Gióng . - Trong bài vị biên chép về lịch sử của vua Lê Đại Hành trong đó có ghi: "vào năm 257 trước Công nguyên, nhà Thục xâm chiếm nước ta, có 4 dòng họ gồm: Ngô tộc, Bùi tộc, Lê tộc, Trần tộc được vua Hùng (Duệ Vương) triệu tập 4 vị Đại Thần cùng 5000 binh mã đã đánh thắng trận đầu, giặc bị tiêu diệt máu chảy thành sông vang dội núi sông." • Thời Hai Bà Trưng có 2 danh tướng là Bùi Thạch Đa và Bùi Thạch Đê mà lăng mộ hiện vẫn tồn tại suốt gần 2.000 năm nay trên vùng đất tổ Hùng Vương, ở Tam Nông, Phú Thọ. •Thời vua Đinh Tiên Hoàng (968-979) có khai quốc công thần Trình Quốc công Bùi Quang Dũng. • Bùi Mộc Đạc là một danh thần đời nhà Trần, vốn tên thật là Phí Mộc Lạc nhưng vì vua Trần Nhân Tông cho là Mộc Lạc là tên xấu, mang điềm chẳng lành (Mộc Lạc trong tiếng Hán nghĩa là cây đổ, cây rụng), vua còn cho họ Phí hiếm gặp, nên đổi tên Phí Mộc Lạc thành Bùi Mộc Đạc với nghĩa Mộc Đạc là cái mõ đánh vang. Bùi Mộc Đạc làm đại thần trải 3 triều vua Trần. Theo Đại Việt sử ký toàn thư: "Sau này, nhiều người họ Phí trong nước hâm mộ danh tiếng của Mộc Đạc, đua nhau đổi làm họ Bùi". Chắt nội Bùi Mộc Đạc (Phí Mộc Lạc) tên là Bùi Quốc Hưng là người tham gia hội thề Lũng Nhai và cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Sau khi Lê Lợi lên ngôi, phong ông là Nhập nội Thiếu úy, tước Hương thượng hầu, sau thăng Nhập nội Tư đồ, được vua ban Quốc tính họ Lê, nên đổi là Lê Quốc Hưng. Theo gia phả của nhánh họ Bùi gốc Phí ở Nam Sách (Hải Dương) thì một trong số hậu duệ của cụ Bùi Mộc Đạc là Bùi Thị Hý chính là người đã khai sinh ra làng gốm Chu Đậu, được thờ là tổ nghề của làng gốm Chu Đậu. • Thời Lê sơ có các nhân vật Bùi Bị, Bùi Ư Đài, Bùi Cầm Hổ, Bùi Xương Trạch. Con gái Bùi Cẩm Hổ là Bùi Quý phi, vợ của vua Lê Thái Tông, sinh ra cung vương Lê Khắc Xương. Bùi Xương Trạch quê gốc ở xã Cát Xuyên, huyện Hoằng Hoá, tỉnh Thanh Hoá chuyển sang làng Định Công, Hà Nội, sau đó chuyển sang Thịnh Liệt sinh sống, lập nghiệp, lập nên gia tộc họ Bùi làng Thịnh Liệt, còn được gọi là Sơn Nam vọng tộc. Về sau dòng họ có các nhân vật như Bùi Huy Bích. • Thế kỷ XVI có Bùi Tá Hán là một cận thần của đại thần Nguyễn Kim (cha của Nguyễn Hoàng) lập Lê Trang Tông. Đến thế kỷ XVIII có Bùi Thế Đạt làm trấn thủ trông coi cả vùng biển Đông thuộc Bắc Trung bộ ngày nay. Bùi Dương Lịch là đại thần ba triều Lê, Tây Sơn, Nguyễn. Hay thời cận đại có nhà cải cách hải quân Bùi Viện... • Tại Văn Miếu-Quốc Tử Giám, mở khoa thi đầu tiên (năm 1075) lấy 4 vị tiến sĩ thì có 1 vị họ Bùi. Từ đó đến cuối triều nhà Nguyễn, trải qua 10 thế kỉ về khoa bảng, họ Bùi có đến 76 vị tiến sĩ, trong đó có 4 vị là bảng nhãn và một vị thủ khoa Nho học là Bùi Quốc Khái (đỗ triều Lý Cao Tông). Những nhân vật tiêu biểu:[sửa | sửa mã nguồn]Khoa bảng[sửa | sửa mã nguồn]
Đại thần thời Phong kiến[sửa | sửa mã nguồn]
Quân sự[sửa | sửa mã nguồn]
Thời đại Hồ Chí Minh[sửa | sửa mã nguồn]Bà mẹ Việt Nam anh hùng tiêu biểu[sửa | sửa mã nguồn]
Quốc phòng, an ninh[sửa | sửa mã nguồn]
Chính trị, tôn giáo[sửa | sửa mã nguồn]
Khoa học, kinh tế[sửa | sửa mã nguồn]
Văn hoá, nghệ thuật[sửa | sửa mã nguồn]
Thể thao[sửa | sửa mã nguồn]
Trung Quốc[sửa | sửa mã nguồn]Theo Thông chí của Trịnh Tiều thời Tống, mục Thị tộc lược, tổ tiên họ Bùi là dòng dõi Bá Ích, con trai của Tần Hoàn Công là Hậu Tử Châm. Tộc nhân họ Bùi thời Hán cư trú chủ yếu tại lưu vực Hoàng Hà, xuất hiện một chi nổi bật ở huyện Văn Hỷ, tức Văn Hỷ Bùi gia, tạo nên thuyết Thiên hạ vô nhị Bùi. Qua thời Ngụy và Tấn, họ Bùi dần dần lớn mạnh, trở thành thế lực chính trị lớn xưng Hà Đông Bùi thị, nắm nhiều quyền hành thời Đường. Nhân vật[sửa | sửa mã nguồn]Quân sự[sửa | sửa mã nguồn]
Chính trị[sửa | sửa mã nguồn]
Văn hóa[sửa | sửa mã nguồn]
Nhân vật hư cấu[sửa | sửa mã nguồn]
Triều Tiên[sửa | sửa mã nguồn]Những nhân vật tiêu biểu mang họ Bùi tại Triều Tiên:
Khác[sửa | sửa mã nguồn]
Xem thêm[sửa | sửa mã nguồn]
Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]
|