5 chương trình truyền hình hàng đầu trong những năm 1960 năm 2022

Kể từ khi thành lập đến nay, trải qua quá trình xây dựng và phát triển, ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch không ngừng lớn mạnh, đóng góp to lớn vào sự nghiệp cách mạng chung của đất nước qua các thời kỳ lịch sử.

Lịch sử phát triển của ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch có thể chia thành các giai đoạn sau:

1.  Giai đoạn trước và sau Cách mạng Tháng Tám

Lĩnh vực Văn hóa - Thông tin:

Năm 1943, Đảng ta đã công bố “Đề cương văn hóa Việt Nam”, trong đó nêu rõ: Mặt trận văn hóa là một trong ba mặt trận (kinh tế, chính trị và văn hóa). Như vậy, ngay từ đầu, Đảng Cộng sản Việt Nam đã thấy vai trò quan trọng của văn hóa, định hướng xây dựng nền văn hóa Việt Nam.

Tuyên cáo ngày 28/8/1945 của Chính phủ Lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong nội các quốc gia Bộ Thông tin, Tuyên truyền được thành lập (sau đó ngày 1/1/1946 đổi tên là Bộ Tuyên truyền và Cổ động) - tiền thân của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch ngày nay. Từ đó, ngày 28/8 hàng năm đã trở thành Ngày Truyền thống của ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch.

Sau khi Quốc hội khóa 1 họp ngày 2-3-1946, thành lập Chính phủ Liên hiệp chính thức thì Bộ Tuyên truyền và Cổ động không còn tồn tại. Đến ngày 13-5-1945, Nha Tổng giám đốc thông tin, tuyên truyền mới được tổ chức dưới quyền chỉ huy và kiểm soát trực tiếp của Bộ Nội vụ, và đến ngày 27-11-1946 đổi thành Nha thông tin. Các cơ quan phụ thuộc có Đài phát thanh Tiếng nói Việt Nam, thành lập ngày 7-9-1945.

Ngày 24-11-1946, Hội nghị văn hóa toàn quốc lần thứ nhất được triệu tập tại Hà Nội. Hồ Chủ tịch khai mạc Hội nghị, Người chỉ rõ: Văn hóa phải hướng dẫn quốc dân thực hiện Độc lập, Tự cường và Tự chủ. Đây cũng chính là kim chỉ nam xuyên suốt mọi hoạt động của Ngành Văn hóa và Thông tin.

Lĩnh vực Thể dục thể thao:

Sắc lệnh ngày 30/1/1946 là “Thực hành thể dục trong toàn quốc”. Phát động phong trào “Khỏe vì nước” thu hút đông đảo quần chúng tham gia.

2. Giai đoạn kháng chiến chống thực dân Pháp (19-12-1946 đến tháng 7/1954).

Lĩnh vực Văn hóa - Thông tin:

Công tác thông tin, tuyên truyền lúc này chiếm vị trí hàng đầu trong năm bước công tác cách mạng với khẩu hiệu của Hồ Chủ tịch tại Hội nghị văn hóa toàn quốc lần thứ II họp vào tháng 7-1948 và Hội nghị cán bộ văn hóa lần thứ I vào tháng 2-1949: “Kháng chiến hóa văn hóa, văn hóa hóa kháng chiến”.

Ngày 10-7-1951, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Sắc lệnh số 38/SL sáp nhập Nha Thông tin thuộc Bộ Nội vụ vào Thủ tướng Phủ và Sắc lệnh số 83/SL hợp nhất Nha thông tin thuộc Thủ tướng Phủ và Vụ Văn học, nghệ thuật thuộc Bộ Giáo dục thành Nha Tuyên truyền và Văn nghệ thuộc Thủ tướng Phủ do đồng chí Tố Hữu phụ trách.

Cuộc kháng chiến chống Pháp chín năm diễn ra ác liệt. Song ở đâu có kháng chiến, ở đó có văn hóa kháng chiến. Những “Chiến sĩ trên mặt trận văn hóa” qua các thời kỳ cách mạng đã biết cách tổ chức công tác tuyên truyền thành một nghệ thuật, đồng thời lại biết cách đưa nghệ thuật vào công tác tuyên truyền. Đây là một thành tựu lớn của nền văn hóa - nghệ thuật - thông tin - tuyên truyền của Ngành chúng ta.

Lĩnh vực Thể dục thể thao:

Ngày 30 tháng Giêng năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Sắc lệnh số 14 thiết lập Bộ Thanh niên một Nha thể dục Trung ương thuộc Bộ Thanh niên, tiền thân của ngành Thể dục thể thao ngày nay. Ngày 27/3/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Sắc lệnh số 38 thiết lập trong Bộ Quốc gia Giáo dục một Nha Thanh niên và Thể dục, gồm có một phòng Thanh niên Trung ương và một Phòng Thể dục Trung ương.

Lĩnh vực Du lịch:

Thành lập Công ty Du lịch Việt Nam (tiền thân của Tổng cục Du lịch) trực thuộc Bộ Ngoại thương (Nghị định số 26/CP ngày 9/7/1960). Ngày 16/3/1963 Bộ Ngoại thương ban hành Quyết định số 164- BNT-TCCB quy định nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức của Công ty Du lịch Việt Nam.

3. Giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội miền Bắc và đấu tranh thống nhất nước nhà (1954-1975)

Lĩnh vực Văn hóa - Thông tin:

* Miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội (1954-1964)

Bộ Tuyên truyền được Hội đồng Chính phủ thành lập từ trung tuần tháng 8-1954 và được Quốc hội V thông qua ngày 20-5-1955 đổi tên là Bộ Văn hóa, do giáo sư Hoàng Minh Giám làm Bộ trưởng. Giai đoạn này, sự nghiệp văn hóa và thông tin được phát triển toàn diện theo định hướng rõ ràng để đi sâu vào chuyên ngành hoạt động, phát triển có bài bản về nội dung, về đào tạo cán bộ và phương thức hoạt động, tăng cường lực lượng văn hóa, thông tin để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, tham gia chiến đấu ở miền Nam.

Có thể nói đây là thời kỳ phát triển cơ bản, toàn diện nhất, xây dựng cơ sở nền văn hóa mới khắp các tỉnh, thành phố miền Bắc.

* Miền Bắc chống chiến tranh phá hoại và chi viện miền Nam (1965-1975)

Giai đoạn này, báo chí đóng vai trò hết sức quan trọng động viên toàn quân, toàn dân chiến đấu chống quân xâm lược. Đặc biệt trong thời kỳ này có hai hoạt động văn hóa, văn nghệ nổi bật đó là phong trào  “Tiếng hát át tiếng bom” và “Đọc sách có hướng dẫn” đã góp phần giáo dục lòng căm thù sâu sắc của nhân dân đối với bọn xâm lược và bè lũ tay sai, cổ vũ tinh thần yêu nước, giáo dục chủ nghĩa anh hùng cách mạng.

 Công tác thông tin trở thành “mũi nhọn” với việc thành lập Tổng cục Thông tin (Quyết định số 165-NQ/TVQH ngày 11-10-1965). Chỉ thị về công tác thông tin trong quần chúng của Ban Bí thư Trung ương Đảng số 118/CT-TW ngày 25-12-1965 đề ra cho công tác thông tin nhiệm vụ nặng nề: “Phải cổ động thường xuyên bằng các hình thức tuyên truyền nhẹ nhàng, có tính chất quần chúng rộng rãi” để “Nhà nhà đều biết, người người đều nghe”.

  * Miền Nam chống Mỹ, ngụy (1954-1975)

Ở miền Nam, sau khi chuyển quân, tập kết, ngành Văn hóa, Thông tin thực tế không còn tồn tại. Mọi hoạt động phải chuyển vào bí mật, lấy tuyên truyền miệng là phương thức hoạt động chính. Sau khi Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam chính thức ra đời ngày 20-12-1960 tại tỉnh Tây Ninh, Ngành Thông tin Văn hóa ở miền Nam nhanh chóng được khôi phục. Chính phủ lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam thành lập ngày 6-6-1969, đồng chí Lưu Hữu Phước làm Bộ trưởng Bộ Thông tin - Văn hóa. Trải qua bao hy sinh, gian khổ, đất nước đã giành được tự do, độc lập: Đại thắng mùa xuân 1975 đi vào lịch sử như một thiên anh hùng ca bất diệt; người người nồng nhiệt xuống đường với rừng cờ, biểu ngữ, ảnh Bác Hồ, cất cao tiếng hát “Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng”.

Giai đoạn củng cố hậu phương lớn, chống chiến tranh phá hoại ở miền Bắc và tất cả cho tiền tuyến lớn miền Nam, tiến lên “Đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào” là giai đoạn sôi động nhất của ngành Văn hóa và thông tin trong cả nước.

Lĩnh vực Thể dục thể thao:

Ban Thể dục thể thao Trung ương được thành lập năm 1957, đến năm 1960 đổi thành Ủy ban Thể dục thể thao.
Lĩnh vực Du lịch:

Chuyển giao Công ty Du lịch Việt Nam sang Phủ Thủ tướng quản lý (Nghị định 145 CP ngày 18/8/1969 của Hội đồng Chính phủ).

4.  Giai đoạn sau Đại thắng mùa xuân 1975

Lĩnh vực Văn hóa - Thông tin:

Tháng 6-1976, nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được thành lập, Chính phủ tổ chức Bộ Văn hóa do Giáo sư Nguyễn Văn Hiếu làm Bộ trưởng.

Năm 1977, Ủy ban phát thanh và truyền hình Việt Nam ra đời. Xưởng phim truyền hình thuộc Tổng cục thông tin đã chuyển từ trước, nay chuyển tiếp phần truyền thanh các tỉnh sang Ủy ban phát thanh và truyền hình. Tổng cục thông tin hợp nhất với Bộ Văn hóa thành Bộ Văn hóa và Thông tin theo Nghị quyết số 99/NQ/QHK6 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, và đến ngày 4-7-1981 đổi lại là Bộ Văn hóa theo Nghị quyết kỳ họp thứ I Quốc hội khóa VII.

Có thể nói thời kỳ 1975-1985, ngành Văn hóa thông tin chuyển từ chiến tranh sang hòa bình, tuy mấy năm đầu có lúng túng, bị động, khó khăn, nhưng đã vượt qua thử thách và phát triển toàn diện với một chất lượng mới trên phạm vi cả nước.

Lĩnh vực Thể dục thể thao:

Phát triển các phong trào thể dục thể thao quần chúng, đặc biệt đẩy mạnh cuộc vận động “Toàn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại”.

Lĩnh vực Du lịch:

Thành lập Tổng cục Du lịch trực thuộc Hội đồng Chính phủ (Quyết nghị 262NQ/QHK6 ngày 27/6/1978 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Ngày 23/1/1979, Hội đồng Chính phủ ra Nghị định số 32/CP quy định nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Tổng cục Du lịch.

5. Giai đoạn đổi mới (1986 - 2006)

Lĩnh vực Văn hóa - Thông tin:

Trước yêu cầu đổi mới, Bộ Thông tin được lập lại trên cơ sở giải thể Ủy ban phát thanh và truyền hình và tách các bộ phận quản lý xuất bản, báo chí, thông tin, cổ động, triển lãm của Bộ Văn hóa theo Quyết định số 34 của Bộ Chính trị và Thông cáo ngày 16-2-1986 của Hội đồng Nhà nước để thống nhất quản lý các phương tiện thông tin đại chúng. Đồng chí Trần Hoàn làm Bộ trưởng Bộ Thông tin. Đồng chí Trần Văn Phác làm Bộ trưởng Bộ Văn hóa.

Ba năm sau (1987-1990), một tổ chức mới được hình thành, hợp nhất 04 cơ quan: Bộ Văn hóa, Bộ Thông tin, Tổng cục Thể dục thể thao, Tổng cục Du lịch thành Bộ Văn hóa - Thông tin - Thể thao và Du lịch theo Quyết định số 244 NQ/HĐNN8 ngày 31/3/1990 do đồng chí Trần Hoàn làm Bộ trưởng.

Vừa hợp lại xong đã thấy không hợp lý  nên mỗi năm lại tách dần một bộ phận: Du lịch sáp nhập vào Bộ Thương mại và Du lịch (Nghị quyết Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa 8 ngày 12/8/1991). Ngày 26/10/1992, thành lập Tổng cục Du lịch là cơ quan thuộc Chính phủ (Nghị định số 05-CP). Sau khi tách Du lịch, lại đến Thể dục thể thao, Phát thanh truyền hình thành các ngành trực thuộc Chính phủ.

Năm 1993, Bộ Văn hóa - Thông tin trở lại như trước đây, với chức năng, nhiệm vụ như Nghị định số 81-CP ngày 8/4/1994 của Chính phủ quy định. Việc liên tục tách ra nhập vào như trên đã ảnh hưởng về nhiều mặt hoạt động của Ngành. Rất may là thấy trước vấn đề này, nên với phương châm chỉ đạo “Giữ nguyên trạng, bộ phận nào làm việc nấy, không xáo trộn cả người và kinh phí” nên mọi công việc được tiến hành bình thường. Trong hai năm 1994 - 1995, ngành Văn hóa - Thông tin đã tập trung mọi cố gắng phục vụ các ngày lễ lớn của dân tộc. Đây là sự khôi phục và phát triển các hoạt động văn hóa, thông tin chuyên nghiệp và không chuyên nghiệp của toàn xã hội theo phương hướng đúng đắn mà Nghị quyết Trung ương lần thứ 4 của Đảng đã đề ra.

Năm 1998, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa VIII) về “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” được ban hành, mở ra một thời kỳ mới cho sự nghiệp văn hóa Việt Nam. Bám sát 5 quan điểm chỉ đạo cơ bản, 10 nhiệm vụ cụ thể và 4 giải pháp chủ yếu để tiếp tục xây dựng và phát triển văn hóa trong thời kỳ mới, toàn Ngành đã phấn đấu vượt qua nhiều khó khăn, tiếp tục khẳng định những thành tựu trong quá trình đổi mới.

Năm 2000, năm bản lề chuyển giao thiên niên kỷ đã đánh dấu bước phát triển vượt bậc của ngành Văn hóa - Thông tin. Nhiều hoạt động văn hóa - thông tin kỷ niệm các ngày lễ lớn của Đảng và dân tộc được tổ chức; bộ mặt văn hóa nước nhà khởi sắc, chuyển biến đồng đều, tích cực theo hướng mà Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) đề ra.

Từ năm 2006, ngành Văn hóa - Thông tin chủ động triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội X của Đảng, tiếp tục thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 (khóa VIII), Kết luận Hội nghị Trung ương 10 (khóa IX) về xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, bảo đảm “sự gắn kết giữ nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt với phát triển văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội” (Văn kiện Đại hội Đảng X).

Lĩnh vực Thể dục thể thao:

Năm 2000, thể thao tiếp tục con đường hội nhập quốc tế và chinh phục  các đỉnh cao thành tích mới, tham dự Olimpic mùa hè lần thứ 27 tại Sydney. Năm 2002, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 57/2002/QĐ-TTg ngày 26/4/2002 phê duyệt quy hoạch phát triển ngành Thể dục thể thao đến năm 2010.
Lĩnh vực Du lịch:

Ngày 15/8/1987, Hội đồng Bộ trưởng ra Nghị định số 120-HĐBT quy định chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của Tổng cục Du lịch.

Nghị quyết Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa 8 ngày 12/8/1991 sáp nhập Tổng cục Du lịch vào Bộ Thương mại và Du lịch.

Ngày 26/10/1992, Chính phủ ra Nghị định số 05-CP thành lập Tổng cục Du lịch là cơ quan thuộc Chính phủ.


6. Giai đoạn năm 2007 đến nay.

  • Một sản phẩm của nỗi ám ảnh của Mỹ với người phương Tây vào những năm 1950, Gunsmoke & NBSP; bắt đầu như một bộ phim truyền hình vào năm 1952 trước khi thích nghi với truyền hình, ra mắt vào ngày 10 tháng 9 năm 1955, trên CBS. Câu chuyện tập trung vào Thống chế Matt Dillon (James Arness) và việc khai thác của anh ta duy trì luật pháp tại Dodge City, KS, nơi có các nhân vật như Doc Adams (Milburn Stone), Phó Chester (Dennis & NBSP; Weaver) và Saloon Girl Kitty (Amanda Blake). Tuy nhiên, chương trình phát thanh Gunsmoke đã không kết thúc với sự ra đời của anh chị em truyền hình; Nó ở trên không cho đến năm 1961.Gunsmoke started as a radio drama in 1952 before being adapted to television, premiering on September 10, 1955, on CBS. The story focused on Marshal Matt Dillon (James Arness) and his exploits upholding the law in Dodge City, KS, which is home to characters like Doc Adams (Milburn Stone), Deputy Chester (Dennis Weaver), and saloon girl Kitty (Amanda Blake). The Gunsmoke radio program didn't end with the birth of its television sibling, however; it stayed on the air until 1961.

    Gunsmoke trở nên phổ biến đến mức nó đã được phát sóng trong 20 năm, tích lũy được 635 tập phim khổng lồ -& NBSP; biến nó thành loạt phim truyền hình dài nhất cho đến khi The Simpsons đảm nhận danh hiệu năm 2018. Chương trình diễn ra trên truyền hình, nó Bắt đầu bằng màu đen và trắng và kết thúc màu sắc vào năm 1975. Gunsmoke đã giành được nhiều giải Emmys và Quả cầu vàng, và thúc đẩy việc tạo ra A & NBSP; hạng mục phương Tây tốt nhất tại Emmys năm 1958. became so popular that it stayed on the air for 20 years, accumulating a massive 635 episodes - making it the longest-running scripted television series until The Simpsons took over the title in 2018. The show was on television so long, it began in black and white and ended in color in 1975. Gunsmoke won numerous Emmys and Golden Globes, and prompted the creation of a Best Western category at the Emmys in 1958.

    Nhiều người coi Gunsmoke & NBSP; TV tốt nhất từng được thực hiện. Phải mất một cách tiếp cận người lớn đối với cuộc sống ở miền Tây hoang dã, không tránh xa & nbsp; đạo đức & nbsp; và hậu quả khắc nghiệt cho hành động của một người. Các tập không phải lúc nào cũng kết thúc bằng một ghi chú hạnh phúc hoặc thậm chí với cốt truyện được giải quyết. Trong suốt quá trình chạy, và thậm chí nhiều năm sau khi kết thúc, Gunsmoke vẫn là tiêu chuẩn vàng cho người phương Tây, và một trong những chương trình nổi tiếng nhất từng xuất hiện trên truyền hình Mỹ.Gunsmoke the best TV Western ever made. It took an adult approach to life in the Wild West, not shying away from morality and harsh consequences for one's actions. Episodes didn't always end on a happy note or even with the plot resolved. Throughout its run, and even years after its end, Gunsmoke remains the gold standard for Westerns, and one of the most well-known shows to ever appear on American television.

    • Các diễn viên: James Arness, Dennis Weaver, Milburn Stone, Amanda Blake, Ken CurtisJames Arness, Dennis Weaver, Milburn Stone, Amanda Blake, Ken Curtis
    • Được công chiếu: ngày 10 tháng 9 năm 1955September 10, 1955

    Có sẵn:

  • Chương trình Dick Van Dyke xoay quanh Rob Petrie (Dick Van Dyke) và thời gian của anh ấy chia tay giữa công việc của anh ấy với tư cách là một nhà văn trong một chương trình truyền hình và gia đình anh ấy, bao gồm vợ Laura (Mary Tyler Moore) và con trai Ritchie (Larry Mathews). Được tạo ra bởi Carl Reiner, người từng làm nhà văn trên Sid Caesar's & NBSP; chương trình của bạn, chương trình Dick Van Dyke đã cho người xem một cái nhìn bên trong hậu trường của một sản phẩm hài kịch. Chương trình đầu tiên & nbsp; được phát sóng trên & nbsp; ngày 3 tháng 10 năm 1961, trên CBS, Tiếp tục & NBSP; cho đến năm 1966. centers around Rob Petrie (Dick Van Dyke) and his time split between his job as a writer on a television show and his family, which consists of wife Laura (Mary Tyler Moore) and son Ritchie (Larry Mathews). Created by Carl Reiner, who worked as a writer on Sid Caesar's Your Show of Shows, The Dick Van Dyke Show gave viewers an inside look behind the scenes of a TV comedy production. The show first aired on October 3, 1961, on CBS, continuing until 1966.

    Dick Van Dyke & NBSP; liên tục duy trì trong số 10 chương trình nổi tiếng nhất của Mỹ trong suốt quá trình chạy. Nó đã giành được 15 Emmys, để chỉ đạo và viết, cũng như cho các màn trình diễn của Tyler Moore và Van Dyke. Chương trình cũng nhận được giải thưởng từ Hiệp hội Nhà văn Hoa Kỳ và Quả cầu vàng. Nhiều thập kỷ sau, nó vẫn liên tục đặt trong danh sách "Chương trình truyền hình tuyệt vời" của TV, bao gồm được đặt tên là số 20 trong danh sách năm 2013 của họ về 60 loạt hay nhất mọi thời đại. consistently remained among the 10 most popular American shows throughout its run. It won 15 Emmys, for directing and writing, as well as for Tyler Moore and Van Dyke's performances. The show also received awards from the Writers Guild of America and the Golden Globes. Decades later, it still consistently places on TV Guide's "Greatest TV Shows" lists, including being named number 20 on their 2013 list of the 60 Best Series of All Time.

    Dick Van Dyke cho thấy sự khác biệt với các đối thủ của mình bởi & nbsp; dám trở nên thông minh. Nó đã không đi lang thang với những trò đùa ngô nghê hoặc & nbsp; sáo rỗng. Ngay cả Tyler Moore cũng quyết định thoát khỏi vai trò bà nội trợ truyền hình truyền thống, mặc quần Capri trên màn hình thay vì một chiếc váy -& nbsp; một bước đi thời trang hoàn hảo cho những năm 60 hiện đại, hướng về phía trước. Chương trình đã đặt nền tảng cho nhiều bộ phim sitcom khác cố gắng kiếm được tiếng cười từ khán giả với khiếu hài hước tinh tế hơn. differentiated itself from its rivals by daring to be intelligent. It didn't pander with corny jokes or cliches. Even Tyler Moore decided to break from the traditional television housewife role, wearing capri pants on screen instead of a dress - a perfect fashion move for the modern, forward-looking '60s. The show laid the groundwork for the many other sitcoms that strived to earn laughs from audiences with a more refined sense of humor.

    • Các diễn viên: Dick Van Dyke, Mary Tyler Moore, Rose Marie, Morey Amsterdam, Larry MathewsDick Van Dyke, Mary Tyler Moore, Rose Marie, Morey Amsterdam, Larry Mathews
    • Được công chiếu: ngày 3 tháng 10 năm 1961October 3, 1961

    Có sẵn:

  • Chương trình Dick Van Dyke xoay quanh Rob Petrie (Dick Van Dyke) và thời gian của anh ấy chia tay giữa công việc của anh ấy với tư cách là một nhà văn trong một chương trình truyền hình và gia đình anh ấy, bao gồm vợ Laura (Mary Tyler Moore) và con trai Ritchie (Larry Mathews). Được tạo ra bởi Carl Reiner, người từng làm nhà văn trên Sid Caesar's & NBSP; chương trình của bạn, chương trình Dick Van Dyke đã cho người xem một cái nhìn bên trong hậu trường của một sản phẩm hài kịch. Chương trình đầu tiên & nbsp; được phát sóng trên & nbsp; ngày 3 tháng 10 năm 1961, trên CBS, Tiếp tục & NBSP; cho đến năm 1966.Bewitched delighted viewers with the story of Darrin Stephens (Dick York) and his wife, Samantha (Elizabeth Montgomery). The couple are married before Samantha reveals to Darrin that she's a witch with special powers. To keep him happy, she vows not to use her magic or tell anyone else her secret. Unfortunately, she has difficulty resisting the temptation to use her powers when conflicts or troubles present themselves.

    Dick Van Dyke & NBSP; liên tục duy trì trong số 10 chương trình nổi tiếng nhất của Mỹ trong suốt quá trình chạy. Nó đã giành được 15 Emmys, để chỉ đạo và viết, cũng như cho các màn trình diễn của Tyler Moore và Van Dyke. Chương trình cũng nhận được giải thưởng từ Hiệp hội Nhà văn Hoa Kỳ và Quả cầu vàng. Nhiều thập kỷ sau, nó vẫn liên tục đặt trong danh sách "Chương trình truyền hình tuyệt vời" của TV, bao gồm được đặt tên là số 20 trong danh sách năm 2013 của họ về 60 loạt hay nhất mọi thời đại. was a hit from the beginning, becoming the second most popular show of 1964. It remained in the top 20 until 1969 and stayed on television until 1972. It was nominated for numerous Emmys (winning several) and a number of Golden Globes. Bewitched inspired a spinoff based around Samantha's daughter, Tabitha, as well as a 2005 feature film which starred Will Ferrell and Nicole Kidman.

    Dick Van Dyke cho thấy sự khác biệt với các đối thủ của mình bởi & nbsp; dám trở nên thông minh. Nó đã không đi lang thang với những trò đùa ngô nghê hoặc & nbsp; sáo rỗng. Ngay cả Tyler Moore cũng quyết định thoát khỏi vai trò bà nội trợ truyền hình truyền thống, mặc quần Capri trên màn hình thay vì một chiếc váy -& nbsp; một bước đi thời trang hoàn hảo cho những năm 60 hiện đại, hướng về phía trước. Chương trình đã đặt nền tảng cho nhiều bộ phim sitcom khác cố gắng kiếm được tiếng cười từ khán giả với khiếu hài hước tinh tế hơn.made an impact on television history not only because of its clever premise, charismatic leads, and snappy writing. The show has been cited as a milestone for women characters, as Samantha isn't subordinate to her husband and creates a life of her own. Bewitched was also praised for not becoming trapped by its premise; instead of each episode focusing on Samantha's magical abilities, plots focused on everyday conflicts and circumstances to which almost any viewer could relate. 

    • Các diễn viên: Dick Van Dyke, Mary Tyler Moore, Rose Marie, Morey Amsterdam, Larry MathewsElizabeth Montgomery, Dick York, Dick Sargent, Agnes Moorehead, Maurice Evans
    • Được công chiếu: 17 tháng 9 năm 1964September 17, 1964

    Có sẵn:

  • Sau khi tôi yêu Lucy kết thúc vào năm 1957 và Lucille Ball đã ly dị Desi Arnaz vào năm 1960, Ball đã lấy một crack & nbsp khác; trong việc tạo ra một bộ phim sitcom truyền hình. Lucy Show ra mắt vào ngày 1 tháng 10 năm 1962 và bao gồm cựu Lucy Costar Vivian Vance của Ball. Cốt truyện tập trung quanh góa phụ Lucy Carmichael và người bạn cùng phòng của cô, Vivian Bagley (Vance) đã ly dị. Sống trong một ngôi nhà cùng nhau và lần đầu tiên đối phó với việc tự mình thực hiện nhiều rủi ro hài hước cho hai người phụ nữ để giải quyết mỗi tuần.I Love Lucy ended in 1957 and Lucille Ball divorced Desi Arnaz in 1960, Ball took another crack at creating a television sitcom. The Lucy Show debuted on October 1, 1962, and included Ball's former Lucy costar Vivian Vance. The plot centered around widow Lucy Carmichael and her housemate, the divorced Vivian Bagley (Vance). Living in a house together and dealing with being on their own for the first time brought many comedic mishaps for the two women to tackle each week.

    Khán giả đã tái khẳng định tình yêu của họ đối với bóng bằng cách điều chỉnh, và chương trình & nbsp; vẫn nằm trong số 10 chương trình phổ biến nhất ở Mỹ cho toàn bộ hoạt động của nó. Ball đã giành được một số Emmys cho màn trình diễn của cô và được đề cử cho Quả cầu vàng. Năm 1968, năm nó lên sóng, chương trình cũng được đề cử cho Quả cầu vàng cho thành tích viết nổi bật trong loạt phim hài và hài kịch xuất sắc, trong số những người khác.

    Chương trình Lucy tiếp tục những gì khán giả yêu thích về I Love Lucy & NBSP; nhưng cũng đã chứng minh Ball có thể mang một chương trình mà không có Arnaz. Mặc dù các nhà sáng tạo nghĩ rằng tốt hơn là biến Carmichael thành một góa phụ khi xem bóng gần đây đã trải qua một cuộc ly hôn công khai với Arnaz, Bagley trở thành nhân vật phụ nữ ly dị đầu tiên trên truyền hình. Tiền đề sức mạnh của bộ phim đã dự đoán các chương trình thập niên 1970 như chương trình Mary Tyler Moore và Laverne & Shirley. Sau khi Ball bán Desilu Productions (nhân tiện cũng đã giúp đưa loạt phim kinh điển Star Trek ra khỏi mặt đất) và kết thúc chương trình Lucy, cô nhanh chóng trở lại truyền hình với một tác phẩm khác, đây là Lucy. continued what audiences loved about I Love Lucy but also proved Ball could carry a show without Arnaz. Although the creators thought it better to make Carmichael a widow considering that Ball had recently undergone a public divorce with Arnaz, Bagley became the first divorced woman character on television. The series's girl-power premise anticipated 1970s shows like The Mary Tyler Moore Show and Laverne & Shirley. After Ball sold Desilu Productions (which had also, by the way, helped to get classic 1960s series Star Trek off the ground) and ended The Lucy Show, she quickly returned to television with yet another creation, Here's Lucy.

    • Các diễn viên: Lucille Ball, Vivian Vance, Gale Gordon, Dick Martin, Candy MooreLucille Ball, Vivian Vance, Gale Gordon, Dick Martin, Candy Moore
    • Được công chiếu: ngày 1 tháng 10 năm 1962October 1, 1962

    Có sẵn:

4 chương trình truyền hình phổ biến trong thập niên 60 là gì?

Chương trình truyền hình từ những năm 60..
Mấy con khỉ.The Monkees là một bộ phim hài tình huống của Mỹ với những trò hề của 4 nhạc sĩ trẻ.....
Tuyến đường 66. ... .
Thần thánh.....
Tù nhân.....
Ironside.....
Anh hùng của Hogan.....
Người đàn ông từ chú.....
Bác sĩ nào..

Chương trình truyền hình số một vào năm 1960 là gì?

Các chương trình truyền hình Hoa Kỳ được xếp hạng hàng đầu năm 1960.

Chương trình truyền hình được xem nhiều nhất vào năm 1964 là gì?

Bảng này hiển thị loạt phim truyền hình nguyên thủy được xếp hạng hàng đầu của mùa giải 19646565 được đo bằng nghiên cứu truyền thông Nielsen.... Các chương trình truyền hình Hoa Kỳ được xếp hạng hàng đầu năm 1964, 65 ..

Chương trình truyền hình số 1 năm 1961 là gì?

Các chương trình truyền hình Hoa Kỳ được xếp hạng hàng đầu năm 1961.