Ý nào sau đây không phải là đóng góp của nhà Nguyễn đối với lịch sử dân tộc

Triều Nguyễn xác lập và khẳng định chủ quyền của nước ta đối với biển, đảo

Cập nhật lúc 08:15 ngày 06/01/2017

/Images/Upload/Article/0/28/2863/697104.jpg

Biển, đảo giữ một vị trí quan trọng trong lịch sử dân tộc, nhất là chủ quyền đối với các quần đảo trên Biển Đông, trong đó có Hoàng Sa, Trường Sa, Côn Đảo, Phú Quốc... Có thể nói, triều Nguyễn là triều đại đã vẽ nên một hình thể lãnh thổ đất nước thống nhất từ đất liền đến biển, đảo để có một nước Việt Nam hoàn chỉnh hiện nay.

Khẳng định Triều Nguyễn xác lập chủ quyền của nước ta đối với biển, đảo, PGS, TS Đỗ Bang, Phó Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử tỉnh Thừa Thiên - Huế cho biết: Các vua triều Nguyễn bấy giờ đã xác lập và khẳng định chủ quyền của nước ta đối với biển, đảo Tổ quốc. Bằng chứng là ngôi chùa có tên Hoàng Sa tự trên đảo Phú Lâm thuộc quần đảo Hoàng Sa là do Cai đội Phạm Văn Nguyên cùng lính và phu dân hai tỉnh Bình Định và Quảng Ngãi chuyên chở vật liệu từ đất liền ra xây dựng.

Bản đồ Việt Nam thời Nguyễn vẽ khoảng năm 1838, đã vẽ "Hoàng Sa", "Vạn lý Trường Sa" thuộc lãnh thổ Việt Nam, phía ngoài các đảo ven bờ miền Trung Việt Nam.

Tháng 6 âm lịch năm Ất Mùi niên hiệu Minh Mạng 16 [năm 1835], sách Đại Nam thực lục chép rằng: “Dựng đền thờ thần ở đảo Hoàng Sa thuộc Quảng Ngãi. Hoàng Sa ở hải phận Quảng Ngãi, có một chỗ nổi cồn cát trắng, cây cối xanh um, giữa cồn cát có giếng, phía tây nam có miếu cổ, bờ đông, tây, nam đều đá san hô thoai thoải uốn quanh mặt nước. Phía Bắc, giáp với một cồn toàn đá san hô, sừng sững nổi lên, chu vi 340 trượng, cao 1 trượng 3 thước, ngang với cồn cát, gọi là Bàn Than thạch. Năm ngoái vua toan dựng miếu lập bia ở chỗ ấy, bỗng vì sóng gió không làm được. Đến đây, mới sai Cai đội Thủy quân là Phạm Văn Nguyên đem lính thợ giám thành cùng phu thuyền hai tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định, chuyên chở vật liệu đến dựng miếu. Bên tả miếu dựng bia đá; phía trước miếu xây bình phong. Mươi ngày làm xong rồi về”.

Hoàng Sa tự là “bằng chứng hiển nhiên vết tích của việc xác lập chủ quyền của Việt Nam” tại Hoàng Sa. Về vấn đề này, GS, TSKH Vũ Minh Giang, Chủ tịch Hội đồng khoa học, Đại học Quốc gia Hà Nội khẳng định: “Có thể nói đến thời Nguyễn, chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đã được thiết lập và thực thi một cách đầy đủ và toàn vẹn, không có sự tranh chấp nào. Chính vì vậy, khi đánh chiếm được Việt Nam, Pháp đã mặc nhiên đặt quyền quản lý của chính quyền đô hộ lên hai quần đảo. Người Pháp đã cho xây dựng các đài khí tượng, trạm quan trắc và cắt đặt lính đồn trú trên các đảo”.

Từ đó có thể khẳng định, dưới thời Nguyễn, chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đã được thiết lập và thực thi một cách đầy đủ và toàn vẹn, không có tranh chấp. Bằng chứng là nhà Nguyễn bằng việc huy động một lực lượng lớn bao gồm quan chức của các cơ quan Trung ương Nội các, Bộ Công, Bộ Hộ, Bộ Binh, Bộ Hình, Giám thành Khâm thiên giám, thuỷ sư... phối hợp với quan chức địa phương và ngư dân các tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định hàng năm thực thi công vụ Hoàng Sa như vẽ bản đồ, kiểm kê tài nguyên trên đảo, đo đạc hải trình, cắm cọc tiêu, trồng cây, dựng miếu, cắm bia chủ quyền, xây dựng hệ thống kho tàng, đồn luỹ, đặt trạm thu thuế, quan trắc thiên văn và dự báo thời tiết.

Chính vì vậy, khi đánh chiếm được Việt Nam, Pháp đã mặc nhiên đặt quyền quản lý của chính quyền đô hộ lên hai quần đảo này. Người Pháp đã cho xây dựng các đài khí tượng, trạm quan trắc và cắt đặt lính đồn trú trên các đảo. Trong suốt quá trình tồn tại, các vị vua triều Nguyễn đều nhận thức biển đảo có ý nghĩa quan trọng đối với sự tồn vong của triều đại, với an ninh quốc gia, dân tộc. Nó được xem là nhân tố, là cơ sở để phòng thủ, bảo vệ quốc gia từ xa trước sự dòm ngó của bên ngoài, nhất là các nước phương Tây. Đó cũng chính là một trong những yếu tố tác động đến ý thức hướng biển và chủ trương tăng cường phòng thủ biển, đảo của triều Nguyễn.

Trong một nghiên cứu mới nhất về chủ quyền biển, đảo qua các tư liệu xác thực dưới triều Nguyễn như châu bản và các bộ chính sử của triều Nguyễn như Đại Nam thực lục, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Đại Nam nhất thống chí… TS Phan Thanh Hải, Giám đốc Trung tâm Bảo tồn di tích Cố đô Huế cho biết triều Nguyễn xác lập và thực thi chủ quyền đối với biển, đảo từ giai đoạn 1802 - 1945.

Đáng chú ý, triều Nguyễn được thành lập năm 1802, nhưng trước đó hơn 200 năm, kể từ năm 1558, các đời chúa Nguyễn, từ Nguyễn Hoàng đến Nguyễn Phúc Thuần đã có công lao to lớn trong việc mở mang bờ cõi, bao gồm toàn bộ đất miền Nam và vùng biển đảo phía Nam và Tây Nam của Tổ quốc. Quá trình đấu tranh để khôi phục và thống nhất đất nước của vị hoàng đế đầu triều Nguyễn - Vua Gia Long cũng gắn liền với các hoạt động trên biển, đảo. Việt Nam là một quốc gia gắn liền với biển do địa thế đặc biệt là nằm kề cận Biển Đông, nhìn mặt ra Thái Bình Dương với quá nửa đường biên giới giáp biển. Vì vậy, các vua triều Nguyễn đều ý thức sâu sắc về tầm quan trọng của biển, đảo đối với việc bảo vệ đất nước, mở mang giao thông, phát triển kinh tế và khai thác các nguồn lợi từ biển, đảo. Dưới thời Nguyễn, khu vực biển, đảo thuộc chủ quyền của Việt Nam đã được xác lập từ bắc chí nam, tương đương với khu vực biển, đảo của chúng ta hiện nay, đó là vùng biển từ Quảng Yên [Quảng Ninh] đến Hà Tiên [Kiên Giang] với các đảo ven bờ và hai quần đảo xa bờ là Hoàng Sa, Trường Sa.

Theo Đại Nam nhất thống chí, trong thời Nguyễn đã có hàng chục tòa pháo đài, đồn bảo, cửa tấn được xây dựng kiên cố dọc theo vùng biển của đất nước bao gồm cả trên bờ và các đảo gần bờ từ Bắc chí Nam. Tại kinh đô Huế, ngoài tuyến phòng thủ từ xa và tuyến phòng thủ trung tâm trên đường bộ, triều Nguyễn còn đặc biệt quan tâm đến việc xây dựng hệ thống đồn lũy, cửa tấn ven biển. Năm 1813, vua Gia Long cho xây Trấn Hải thành ở cửa biển Thuận An [thuộc thị trấn Thuận An, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên - Huế ngày nay]. Đây là một pháo đài quân sự kiên cố hình tròn, chu vi 285 m, cao 6,3 m, dày 4 m; xung quanh có hào nước sâu bao bọc, trên đắp 99 ụ súng, ngoài đóng cọc, xây kè và cho trồng 4.000 cây dừa để ngăn sóng biển.

Ngoài pháo đài này là một hệ thống đồn lũy khác bên cạnh cửa Thuận An, gồm Đồn Hòa Duân, Đồn Côn Sơn, Đồn Hạp Châu và đập chắn Thuận An. Hệ thống đồn lũy này đều được bố trí một lực lượng lớn binh lính với các vũ khí mạnh nhất của triều Nguyễn. Cuối năm 1861, tại khu vực này có 1.961 binh lính, 308 đại bác các loại; đến những năm 1881 - 1882, số binh lính và vũ khí còn được tăng cường nhiều hơn nữa. Ngoài cửa Thuận An, triều Nguyễn cho xây dựng hệ thống đồn lũy phòng thủ ở các cửa biển Hải Vân, Chu Mãi [Chân Mây], Cảnh Dương và cửa Tư Hiền để bảo vệ các vùng biển quan trọng thuộc kinh đô. Tại cửa biển Đà Nẵng - Quảng Nam, khu vực được xem là cửa ngõ mặt nam của kinh đô Huế, nơi có cảng quốc tế Hội An vốn đã hoạt động từ hàng trăm năm trước, triều Nguyễn cũng đặc biệt chú ý đến vấn đề phòng thủ cửa biển.

Vua Gia Long quy định việc đón tiếp các đoàn sứ ngoại quốc đến quan hệ với vương triều bắt buộc phải qua cảng Đà Nẵng. Các vua triều Nguyễn kế tiếp sau như Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức... đều nhất quán thực thi luật định này một cách nghiêm túc. Đến cuối triều Minh Mạng, hệ thống bố phòng với những vũ khí hiện đại đã được xây dựng khá hoàn chỉnh tại các pháo đài trên tuyến biển.

Nguồn: bqp.vn

Hoàng đế Minh Mệnh là người rất quan tâm đến quân sự quốc phòng, vì vậy quân đội dưới thời ông được tổ chức khá hùng mạnh. Nhà vua nhiều lần thân hành ra thao trường chứng kiến việc luyện tập của quân sĩ và đặt chế độ định kỳ duyệt tuyển. Ngay từ năm Minh Mệnh thứ nhất [1820] nhà vua đã cho tổ chức lại quân đội thành các binh chủng gồm bộ binh, thuỷ binh, kỵ binh, tượng binh và pháo thủ binh. Trong đó bộ binh là chủ chốt được phân làm 2 loại kinh binh và cơ binh. Kinh binh là lính của triều đình đóng chủ yếu ở kinh thành và một số tỉnh trọng yếu. Tổ chức bên trong của kinh binh khá chặt chẽ được phân thành các doanh [gồm 4 doanh Thần cơ, Tiền phong, Long vũ, Hổ uy], mỗi doanh lại chia làm 5 vệ, mỗi vệ có 10 đội, mỗi đội có 50 lính; đứng đầu có các Đội trưởng và Suất đội cai quản. Cơ binh là lính riêng của từng tỉnh, cũng được chia thành các cơ, đội; đứng đầu có các Quản cơ và Suất đội cai quản. Các loại binh khác được tổ chức gần giống bộ binh, cũng chia thành các vệ, đội nhưng có đặc thù riêng của từng loại.

Hoàng đế Minh Mệnh cũng rất chú trọng tăng cường trang bị cho quân đội thêm nhiều vũ khí, thuyền bè, voi ngựa và các súng ống loại lớn. Đặc biệt thuỷ quân thời kỳ này kế thừa các đội binh thuyền tinh nhuệ của vua cha Gia Long lại được tăng cường thêm một số tàu đi biển lớn bọc đồng như Phấn Bằng, Thuỵ Long, Linh Phượng, Tường Hạc, Thần Giao, Tiên Ly… nên đã gần như làm chủ được dải bờ biển dài và một số hải đảo ngoài khơi. Những nơi bờ biển sung yếu hoặc gần Kinh đô, vua Minh Mệnh cho xây dựng hàng loạt các pháo đài canh phòng như Trấn Hải, Định Hải, Điện Hải… và không ngừng tăng cường phòng thủ. Vua cũng thường xuyên cử các đội tàu đi thăm dò, tuần thám các hải đảo kể cả các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. 

Hoàng đế Minh Mệnh luôn chăm lo đời sống nhân dân, chú trọng phát triển kinh tế, khao khát cho dân giàu, nước mạnh. Ông đã áp dụng nhiều chính sách thúc đẩy kinh tế phát triển như khuyến khích khai hoang lấn biển; đẩy mạnh thuỷ lợi đào sông thoát lũ; hoàn chỉnh hệ thống đê điều ở Bắc bộ; tiếp tục đo đạc, hoàn thiện sổ ruộng đất [địa bạ] trong toàn quốc; quy định lại chế độ thu thuế đinh, điền, thuế muối, thuế khai thác mỏ, thuế sản vật, thuế buôn bán tại các cửa quan, bến chợ, thuế cảng cho các thuyền buôn nước ngoài; khai mở nhiều ngành sản xuất mới…

Vì vậy trong 20 năm trị vì của Hoàng đế Minh Mệnh, nền kinh tế Việt Nam đã có những thành tựu nhất định, nhiều vùng đất mới được khai khẩn thành lập như huyện Tiền Hải tỉnh Nam Định; huyện Kim Sơn tỉnh Ninh Bình; đào xong sông Vĩnh Tế ở Nam kỳ, sông thoát lũ Cửu An ở Hưng Yên; ruộng đất canh tác được mở rộng, dân số được tăng thêm. Thời kỳ này nhiều loại máy móc mang tính mới mẻ phục vụ thiết thực đời sống được chế tạo như máy xẻ gỗ chạy bằng sức trâu, sức nước; máy nghiền thuốc súng; máy tưới nước cho đồng ruộng… Đặc biệt năm 1839 những người thợ Việt Nam đã đóng thành công chiếc tàu thuỷ chạy bằng hơi nước đầu tiên và sửa chữa được một số tàu thuyền mua của nước ngoài bị hư hỏng. Vua còn ban dụ cho lập nhà dưỡng tế để giúp đỡ những người tàn tật, già cả, nghèo khó; bãi bỏ những việc gây phiền phí cho dân như lệ bắt các địa phương tiến thú rừng cho các ngày lễ kị; đặt lệ định kỳ báo cáo giá thóc gạo, lương thực ở các nơi; cấm tư thương đầu cơ bán trộm thóc gạo; giảm thuế, chẩn cấp, xuất kho bán thóc rẻ cho dân các vùng bị thiên tai đói kém; yêu cầu các tỉnh xuất lúa giống trong kho cho dân nghèo vay để làm mùa khiến cho nông nghiệp không bị đình trệ, việc mất mùa không ảnh hưởng đến đời sống nhân dân.     

Hoàng đế Minh Mệnh là người chủ trương tự cường dân tộc nên trong mối quan hệ bang giao với các nước đều khá cứng rắn và luôn giữ thế chủ động. Ngay khi mới lên ngôi, vua Minh Mệnh đã xin nhà Thanh cho phép đổi quốc hiệu Việt Nam thành Đại Nam, ngụ ý là một nước lớn ở phía Nam nhưng triều đình nhà Thanh không chấp thuận. Năm 1839 khi thấy nhà Thanh suy yếu ông đã chính thức công bố quốc hiệu Đại Nam, quốc hiệu này tồn tại cho đến hết triều Nguyễn năm 1945. Trong quan hệ với nhà Thanh là nước lớn Hoàng đế Minh Mệnh chủ trương thần phục nhưng đối với các nước nhỏ như Ai Lao, Cao Miên, Chân Lạp ông chủ trương áp đặt quyền bảo hộ. Đối với phương Tây, vua Minh Mệnh hầu như không có thiện cảm, đặc biệt là việc vua không thích đạo Thiên chúa nên trong suốt thời gian trị vì, việc truyền bá đạo này hầu như bị cấm. Mặc dù vua Minh Mệnh là người khá nặng tư tưởng bế quan toả cảng nhưng thời kỳ này các tàu buôn của nước ngoài ra vào trao đổi mậu dịch với Việt Nam khá tấp nập. Trong đó chủ yếu là các tàu của người Thanh và một số tàu của các nước phương Tây như Pháp, Anh, Tây Ban Nha xin vào buôn bán tại các cảng cửa Lác [Nam Định], cửa Hội [Nghệ An], cửa Đà Nẵng, cửa Đại Chiêm [Hội An], cửa Thị Nại [Quy Nhơn], Vũng Lấm [Phú Yên], cửa Cần Giờ [Gia Định]… Nhà vua cũng là người khá tân tiến và thích tìm hiểu nên thường khuyến khích quần thần học hỏi phương Tây các công thức chế tạo máy móc mới, đặc biệt là trong lĩnh vực chế tạo tàu thuyền đi biển.            

Hoàng đế Minh Mệnh là người rất coi trọng học vấn, khoa cử, bản thân nhà vua cũng là một học giả từng làm thơ, soạn sách, luôn khuyến khích quần thần chăm chỉ đọc sách, biên soạn sách vở và mong muốn trọng dụng người có kiến thức. Vua từng dụ rằng: Đạo trị nước chép ở sách vở, không xem rộng xét kỹ không thể biết hết được. Nay thư viện Thanh Hoà chứa nhiều sách lạ bốn phương, bọn khanh lúc rỗi việc mà có chí đọc sách thì mượn mà xem[1]. Ngay năm Minh Mệnh thứ nhất [1820], nhà vua đã xuống chiếu sưu tầm sách cũ Trẫm để ý điển xưa noi theo chí trước, nghĩ rằng nhờ công đức các đời mở đắp mới có ngày nay, càng muốn làm rõ rệt dấu xưa, giao cho sử quan thuật lại… Vậy chuẩn cho quan dân trong ngoài, phàm nhà nào cất được những bản biên chép điển cũ của triều trước thì không kể tường hay lược đem nguyên bản tiến nộp hoặc đưa cho nhà nước sao chép, đều có khen thưởng[2]. Do đó trong ngoài đều đem các bản biên chép đến dâng nộp như Thượng thư Trịnh Hoài Đức dâng sách Gia Định thông chí [3 quyển] và sách Minh Bột di ngư văn thảo, Chiêm hậu Hoàng Công Tài dâng sách Bản triều ngọc phả và sách Kỷ sự, Cung Văn Hy người phủ Quảng Đức dâng sách Khai quốc công nghiệp diễn chí [7 quyển], Nguyễn Đình Chính người Thanh Hoa dâng sách Minh tương khải cáo lục [34 điều], Võ Nguyên Biều người Quảng Ngãi dâng sách Cố sự biên lục [1 quyển], vua đều khen và cho thưởng vàng lụa theo các bậc khác nhau. Các năm sau đó quần thần tiếp tục biên soạn được khá nhiều sách có giá trị như Khâm định vạn niên thư, Lịch triều hiến chương loại chí [49 quyển], Liệt thánh thực lục, Lịch đại kỷ nguyên, Khang thế lục, Hội điển toát yếu [14 quyển]… Vua còn cho dựng Quốc sử quán và sai các nho thần biên soạn quốc sử thực lục; cho sửa sang tông miếu đặt các chức Miếu lang, Miếu thừa lấy người trong tôn thất để trông coi việc thờ cúng; hoàn thiện việc xây dựng Hoàng thành, đặt tên đường phố trong Kinh thành; thống nhất việc đo lường, y phục trong toàn quốc…

Đối với việc học hành khoa cử nhà vua đặc biệt chăm lo, năm 1821 cho xây dựng nhà Quốc tử giám, ở giữa làm Giảng đường, phía trước là Di luân đường, hai bên tả hữu làm phòng ở cho tôn sinh, giám sinh; lại đổi đặt các chức Tế tửu, Tư nghiệp đứng đầu. Cũng năm đó mở ân khoa thi Hương đầu tiên dưới triều Minh Mệnh, năm sau mở khoa thi Tiến sĩ đầu tiên dưới triều Nguyễn, đồng thời cũng định lại quy chế thi cử. Trước đây 6 năm tổ chức một khoa nay quy định thành 3 năm một khoa, năm trước thi Hương thì năm sau thi Hội và thi Đình; lại đổi đặt danh hiệu học vị những người trúng tuyển, Hương cống đổi thành Cử nhân, Sinh đồ đổi thành Tú tài; không lấy Tiến sĩ Đệ nhất giáp chỉ lấy Đệ nhị giáp và Đệ tam giáp; ngoài ra vua Minh Mệnh cho lấy đỗ thêm những người có số điểm gần sát với hạng Đệ tam giáp gọi là Phó bảng. Chỉ tính riêng các khoa thi Tiến sĩ, triều Minh Mệnh tổ chức được 6 khoa vào các năm Minh Mệnh thứ 3 [1822], Minh Mệnh thứ 7 [1826], Minh Mệnh 10 [1829], Minh Mệnh 13 [1832], Minh Mệnh 16 [1835], Minh Mệnh 19 [1838], lấy đỗ được 56 Tiến sĩ và 20 Phó bảng[3]. 

  1. Về tổ chức bộ máy hành chính:

Ngay từ khi mới lên ngôi, Hoàng đế Minh Mệnh đã cho cải định và thiết đặt thêm một số cơ quan trong hệ thống bộ máy hành chính so với các triều đại trước như đổi đặt Văn thư phòng sau đổi làm Nội các để giúp việc; đổi Nội đồ gia thành Nội vụ phủ, Ngoại đồ gia thành Vũ khố; thành lập Cơ mật viện, Đô sát viện, Tôn nhân phủ; chỉnh đốn Lục Bộ, đặt thêm các Khoa; định lại toàn bộ hệ thống quan chế, viên ngạch, phẩm trật, lương bổng; cơ cấu lại tổ chức của hầu hết các cơ quan; đặt thêm nhiều chức danh mới; quy định lại số lượng, viên ngạch cho mỗi đơn vị… Đặc biệt năm Minh Mệnh 12-13 [1831-1832], nhà vua thực thi một công cuộc cải cách hành chính lớn, trong đó chia định lại địa hạt trong cả nước; đổi các trấn, đạo thành tỉnh[4]. Sau khi phân định lại các địa hạt, vua cho thiết đặt các chức quan coi giữ và định quy tắc làm việc.

Nhà vua cũng cho đặt lại các nghi thức thiết triều ở điện Thái Hoà, định lệ thiết triều tham dự tấu việc[5], quy định chế cấp “Lục đầu bài” cho các nha dâng lên khi cần tâu việc, định lệ các nha phụng giữ bản phê chữ đỏ [châu bản], định lại quy thức văn bản và đệ trình văn bản… Vua là người chăm chỉ mẫn cán, việc chính sự trong ngoài lớn nhỏ đều muốn xét qua, các văn bản quan trọng hầu như đều tự mình nghĩ soạn. Sách Đại Nam thực lục chính biên chép: Vua sáng suốt cẩn thận về chính thể. Những chương sớ trong ngoài tâu lên nhất nhất xem qua, dụ tận mặt cho các nha nghĩ chỉ phê phát, việc quan trọng thì phần nhiều vua tự nghĩ soạn, hoặc thảo ra hoặc châu phê. Có bản phê bắt đầu từ đấy[6]. Vua thấy từ trước tới nay chương sớ 4 phương tâu lên, các bộ thần đều mở phong bì phụ xem trước, thấy việc gì không quan trọng thì bỏ không tâu, bèn sắc cho Lục Bộ từ nay chương sớ có cái nào không hợp cũng đem việc trình rõ, không được tự ý bác đi để đề phòng sự che lấp. Vua chuẩn định các chiếu văn khi ban bố đều phải niêm yết ở Phu văn lâu, các Tri huyện 3 huyện trong Kinh kỳ phải dẫn kỳ lão, hương lý, thân hào đến trước lầu để lạy xem. Vua lại cho đặt thêm các trạm dịch ở Kinh và các tỉnh để việc chuyển phát công văn giấy tờ giữa các cơ quan được nhanh chóng kịp thời.    

Có thể nói, Minh Mệnh là vị Hoàng đế rất chuyên cần, tâm huyết; đặc biệt ông là người rất năng động và sáng tạo. Những cải cách trong thời đại ông trị vì được các nhà nghiên cứu lịch sử so sánh với cải cách của vua Lê Thánh Tông năm 1471 và đánh giá là một trong hai cuộc cải cách có quy mô lớn nhất và đạt hiệu quả cao nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam. Đánh giá về con người cũng như sự nghiệp của Hoàng đế Minh Mệnh, Trần Trọng Kim một sử thần cuối triều Nguyễn trong sách Việt Nam sử lược đã có những nhận định khá xác đáng rằng: Trong đời Thánh Tổ làm vua, pháp luật, chế độ điều gì cũng sửa sang lại cả, làm thành một nước có cương kỷ. Nhưng chỉ vì ngài nghiêm khắc quá, cứ một mực theo cổ, không tuỳ thời mà biến hoá phong tục; lại không biết khoan dung cho sự sùng tín, đem giết hại những người theo đạo, lại tuyệt giao với ngoại quốc làm thành ra nước Nam ta ở lẻ loi một mình. Đã hay rằng những điều lầm lỗi ấy là trách nhiệm chung cả triều đình và cả bọn sĩ phu nước ta lúc bấy giờ, chứ không riêng chi một mình ngài, nhưng ngài là ông vua chuyên chế một nước, việc trong nước hay dở thế nào ngài cũng có một phần trách nhiệm rất to, không sao chối từ được. Vậy cứ bình tình mà xét thì chính trị của ngài tuy có nhiều điều hay, nhưng cũng có nhiều điều dở; ngài biết cương mà không biết nhu, ngài có uy quyền mà ít độ lượng, ngài biết có dân có nước mà không biết thời thế tiến hoá. Bởi vậy cho nên nói rằng ngài là một anh quân thì khí quá, mà nói rằng ngài là bạo quân thì không công bằng. Dẫu thế nào mặc lòng, ngài là một ông vua thông minh, có quả cảm, hết lòng lo việc nước, tưởng về bản triều nhà Nguyễn chưa có ông vua nào làm được nhiều công việc hơn ngài vậy[7].

CHÚ THÍCH:

[1] Quốc sử quán triều Nguyễn [2003], Đại Nam thực lục, tập 2 [chính biên], bản dịch, Nxb Giáo dục, Hà Nội, trg 40.

[2] Quốc sử quán triều Nguyễn [2003], Đại Nam thực lục, tập 2 [chính biên], bản dịch, Nxb Giáo dục, Hà Nội, trg 63.

[3] Ngô Đức Thọ chủ biên [1993], Các nhà khoa bảng Việt Nam 1075 – 1919, Nxb Văn học, Hà Nội, trg 971.

[4] Năm Minh Mệnh 12 [1831] phân định địa hạt từ Quảng Bình trở ra Bắc, năm Minh Mệnh 13 [1832] phân định địa hạt từ Quảng Nam trở vào Nam.

[5] Mỗi tháng đại triều 2 ngày: mồng 1 và rằm; thường triều 4 ngày: mồng 5, 11, 21, 25; tâu việc 9 ngày: mồng 3, 7, 9, 13, 17, 19, 23, 27, 29; đình nghị 4 ngày: mồng 2, 8, 16, 24. Hàng ngày phải có 1 viên Thiêm sự hoặc Lang trung thường trực ở triều phòng, đường quan thì hội ở công thự để làm việc. Nếu có việc khẩn trọng thì phải tâu ngay không kể lệ này [Đại Nam thực lục chính biên, tập 2, trang 208].

[6] Quốc sử quán triều Nguyễn [2003], Đại Nam thực lục, tập 2 [chính biên], bản dịch, Nxb Giáo dục, Hà Nội, trg 39.

[7] Trần Trọng Kim [1999], Việt Nam sử lược, NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội, trg 493 – 494.

Video liên quan

Bài Viết Liên Quan

Chủ Đề