Xác lập mối quan hệ là gì

Theo em điều kiện, cơ sở để xác lập và củng cố mối quan hệ tốt đẹp, lành mạnh giữa mọi người với nhau là gì ?

[Last Updated On: 27/11/2021]

Các-Mác: “Con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội”. Các mối quan hệ đó quy định bản chất xã hội của cá nhân. Nhân cách là sản phẩm của mối quan hệ xã hội đồng thời là người sáng tạo và xây dựng mối quan hệ đó. Vì vậy, muốn nghiên cứu TLHXH phải nghiên cứu các mối quan hệ xã hội. Trong mối quan hệ có: quan hệ cá nhân – cá nhân, cá nhân những người khác. Trong mối quan hệ đó cá nhân đóng vai trò chủ thể. Mọi cá nhân đều có quan hệ với người khác theo một cách nào đó với bố mẹ, anh chị em, bạn bè. Như vậy, bất kỳ cá nhân nào cũng ở trong một nhóm xã hội nhất định và có vị trí nhất định trong nhóm.

1. Khái niệm Quan hệ xã hội

Xã hội là một hệ thống các quan hệ lẫn nhau giữa người với người. Các quan hệ đó rất phong phú như: quan hệ về chính trị, kinh tế, văn hoá… quan hệ giữa các cá nhân với nhau, quan hệ giữa nhóm người này với nhóm người khác. Các quan hệ này được gọi là quan hệ xã hội.

Khái niệm: Quan hệ xã hội là các mối quan hệ được xác lập giữa các cộng đồng xã hội, các nhóm, các cá nhân với nhau, với tư cách là chủ thể của hoạt động XH, khác biệt nhau bởi vị trí XH và chức năng trong đời sống xã hội. Quan hệ XH là các quan hệ bền vững, ổn định, lặp lại, có mục đích, có hoạch định, có sự phối hợp hành động của các chủ thể hoạt động XH, được hình thành trên cơ sở những tương tác XH. [Theo xã hội học]

Theo tâm lý học xã hội, Quan hệ xã hội là quan hệ giữa các cá nhân với tư cách đại diện cho nhóm xã hội, do xã hội quy định một cách khách quan về vai trò của mỗi cá nhân trong nhóm.

Ví dụ: thầy – trò; người mua – người bán; thủ trưởng – nhân viên.

Đặc trưng cơ bản của quan hệ xã hội là các mối quan hệ này được thiết lập không phải dựa trên nền tảng có thiện cảm hay không thiện cảm của các cá nhân mà dựa trên cơ sở về vị trí nhất định của mỗi cá nhân trong xã hội, trên cơ sở những chức năng, hành vi mà cá nhân phải thực hiện khi đứng ở vị trí đó [gọi là vai xã hội]. Bởi vậy, các mối quan hệ này được xã hội quy định một cách khách quan. Đây là mối quan hệ giữa các nhóm xã hội hay giữa các cá nhân với tư cách là những đại diện các nhóm xã hội đó. Điều này nói lên rằng quan hệ xã hội không có tính bản sắc. Bản chất của các mối quan hệ này không nằm trong sự tác động qua lại giữa các nhân cách mà nằm trong sự tác động qua lại giữa các vai trò xã hội.

Trong thực tế, mỗi cá nhân đảm nhiệm không chỉ một vai trò mà là nhiều vai xã hội: Họ có thể là một giáo viên, một người bố, là một thành viên một câu lạc bộ, là một trưởng họ… Có những vai xã hội được quy định trước cho con người từ khi mới sinh ra [ví dụ là nam hay nữ], những vai xã hội khác được hình thành trong cuộc sống. Mặc dù vậy, bản thân vai xã hội không quyết định hoạt động và hành vi của mỗi người mà tất cả những điều đó phụ thuộc vào nhận thức của cá nhân và sự nhập vai của cá nhân đó. Sự nhập vai mang màu sắc cá nhân rõ rệt vì được xác định bằng hàng loạt các đặc điểm tâm lý cá nhân của người mang vai đó. Bởi vậy các quan hệ xã hội, mặc dù thực chất là các quan hệ theo vai, không phải là quan hệ nhân cách, nhưng trong thực tế, trong mỗi sự biểu hiện cụ thể vẫn có “sắc thái nhân cách”. Trở thành nhân cách trong hệ thống các quan hệ xã hội, con người nhất định phải tham gia vào quá trình tác động qua lại, vào quá trình giao tiếp vì thông qua các quá trình đó những đặc tính cá nhân nhất định được biểu hiện. Bởi vậy mỗi vai trò xã hội không có nghĩa là sự định trước tuyệt đối của hành vi, mà nó thường xuyên giữ lại một vài “phạm vi cơ hội” cho người thực hiện. Ta có thể ước lệ gọi đó là “phong cách nhập vai”. Chính phạm vi này trở thành nền tảng để xây dựng các quan hệ khác bên trong của hệ thống quan hệ xã hội – quan hệ liên nhân cách.

2. Phân loại quan hệ xã hội

  • Theo vị thế: quan hệ xã hội theo chiều ngang và quan hệ xã hội theo chiều dọc [bình đẳng và bất bình đẳng].
  • Theo chủ thể: quan hệ xã hội giữa các tập đoàn lớn, giữa các nhóm xã hội nhỏ, giữa các lĩnh vực của đời sống xã hội và giữa các cá nhân.
  • Theo nội dung: quan hệ tình cảm thuần tuý [quan hệ sơ cấp] và quan hệ xã hội [quan hệ thứ cấp].

Quan hệ tình cảm dựa trên những đặc điểm sinh học hoặc tâm lý có sẵn ở các cá nhân như giới tính, vẻ bề ngoài, quan hệ huyết thống, sở thích… Quan hệ xã hội dựa trên những đặc điểm xã hội đạt được của cá nhân như nghề nghiệp, học vấn, địa vị, quyền lực… Nhưng không có nghĩa là quan hệ tình cảm không phải là quan hệ xã hội, mà chủ yếu nó mang ít tính xã hội hơn. Đôi khi, quan hệ tình cảm lại trở thành quan hệ xã hội như trong kinh doanh và ngược lại, chính quan hệ xã hội có thể tạo ra quan hệ tình cảm.

3. Các hiện tượng trong quan hệ xã hội

Trong quan hệ xã hội, chúng ta thường bắt gặp ba hiện tượng: thói quen, tập tục và hệ thống răn đe.

  • Thói quen, đó là hình thức xử sự được xác định mà không vấp phải sự phản ứng nào.
  • Tập tục là phương thức xử sự được quy định với các giá trị đạo đức nhất định. Việc phá vỡ nó sẽ gây ra sự răn đe âm tính.
  • Sự răn đe là sản phẩm của cộng đồng chỉ đạo cách xử sự cho đúng với truyền thống văn hóa của dân tộc, chặn đứng những hành vi tiêu cực trong xã hội để bảo đảm sự đoàn kết, luật pháp nhà nước và tính liên tục của đời sống xã hội.

4. Quá trình hình thành mối quan hệ xã hội

a. Quá trình tham gia của cá nhân vào mối quan hệ xã hội

Bản chất xã hội của con người được hiểu con người như một thực thể tồn tại với những người khác. Con người không thể sống độc lập, mà phải dựa vào người khác để mà sống, có nghĩa là hợp tác với những người khác để có thể tồn tại trong xã hội. Ví dụ: Người buôn bán phải có người sản xuất ra hàng hóa và người mua hàng. Mỗi người đều cần ở người khác để thực hiện mục đích của mình.

b. Sự gắn bó của cá nhân trong mối quan hệ xã hội

Sự gắn bó là sự liên hệ về mặt tình cảm nối liền hai cá nhân với nhóm xã hội thông qua sự thừa nhận giá trị và tầm quan trọng của người này đối với người kia hoặc đ ối với nhóm xã hội. Sự gắn bó xuất hiện như một hành vi tương tác nhằm thiết lập mối quan hệ với những người quan tâm chăm sóc tới họ. Chẳng hạn như sự gắn bó của trẻ đối với mẹ là níu lấy áo mẹ, cười khóc với mẹ… đây là hình thức cấu trúc đầu tiên của mối quan hệ xã hội giữa đứa trẻ với mẹ của nó, đó là quan hệ tình cảm.

c. Xã hội hóa cá nhân trong mối quan hệ xã hội

Xã hội hóa là một quá trình luyện tập và hòa nhập của các cá nhân vào xã hội. Con người và con vật muốn tồn tại phải được thỏa mãn những nhu cầu cơ bản của cơ thể như: ăn uống, không khí, tự vệ, tồn tại nòi giống….Hành vi của con người và con vật khác nhau: con vật chịu sự chi phối của cơ chế bẩm sinh, còn hành vi ở con người thì cơ chế bẩm sinh không đủ để điều chỉnh mà phần lớn được điều chỉnh bằng con đường luyện tập. Do đó quá trình luyện tập và hòa nhập là cơ sở của xã hội hóa. Con người sinh ra được xã hội hóa để thành cá nhân có nhân cách. Quá trình này như là sự thích nghi của con người từ bé đến khi trưởng thành. Sống trong tập thể, trong nhóm xã hội mỗi cá nhân không chỉ tiếp nhận ảnh hưởng của xã hội một cách thụ động mà có vai trò chủ động, cá nhân phải tích cực tác động vào xã hội để cải tạo xã hội theo mục đích phát triển của cá nhân. Như vậy, xã hội không phải là tác động một chiều xã hội tác động đến cá nhân mà còn cá nhân tác động đến xã hội. Trong quá trình tương tác giữa cá nhân và xã hội thì cá nhân dần dần thích nghi với các chuẩn mực, những giá trị của nhóm xã hội để tự điều chỉnh bản thân mình và hoà nhập vào các mối quan hệ xã hội.

[Tham khảo: Giáo trình Xã hội học đại cương & Tâm lý học xã hội]

Quy định về quan hệ nhân thân

  • 1. Quan hệ nhân thân là gì ?
  • 2. Những quan hệ nhân thân gắn với tài sản
  • 3. Những quan hệ nhân thân không gắn với tài sản

Quan hệ nhân thân gắn với tài Sản là quan hệ về những giá trị nhân thân mà khi Xác lập thì làm phát sinh quan hệ tài sản. Giá trị nhân thân luôn gắn liền với chủ thể nhất định và về nguyện tắc không dịch chuyển cho chủ thể khác. Quan hệ nhân thân không gắn với tài sản là quan hệ về những giá trị nhân thân không thể trao đổi ngang giá như danh dự, uy tín, nhân phẩm... của cá nhân, tổ chức.

Quan hệ nhân thân luôn gắn liền với một chủ thể nhất định và về nguyên tắc không thể dịch chuyển cho chủ thể khác.

1. Quan hệ nhân thân là gì ?

Quan hệ nhân thân là các quan hệ pháp luật dân sự có đối tượng các giá trị nhân thân của một chủ thể. Bản thân mỗi một chủ thể sẽ có rất nhiều yếu tố nhân thân làm nên đặc điểm riêng biệt, sự khác biệt giữa chủ thể đó với tất cả chủ thể khác trong xã hội [tính chuyên biệt, riêng có]. Với rất nhiều các yếu tố nhân thân đó, có những yếu tố nhân thân có giá trị to lớn, cần được bảo vệ, ghi nhận riêng biệt và được thừa nhận là giá trị nhân thân. Chính những giá trị nhân thân ấy tạo nên nền tảng để nhà làm luật thừa nhận, quy định quyền nhân thân cho từng chủ thể đó.

Các quan hệ nhân thân có những đặc điểm riêng biệt:

Thứ nhất, đối tượng của quan hệ nhân thân không trị giá được thành tiền. Đây là nét đặc trưng để phân biệt với đối tượng của quan hệ tài sản. Tài sản luôn mang trong mình hai đặc tính: giá trị và giá trị sử dụng. Giá trị nhân thân không xác định được giá trị bằng tiền và không có bất kỳ một cơ sở nào để có thể tính được giá trị quy thành tiền cho nên những quan hệ nhân thân không thể có sự trao đổi ngang giá được.

Thứ hai, các quan hệ nhân thân đem lại các lợi ích phi vật chất cho các chủ thể. Rất nhiều người lầm tưởng khi tác giả của một cuốn sách được trả tiền nhuận bút, tiền sử dụng hình ảnh của một cá nhân... cho thấy quan hệ nhân thân đã tạo nên lợi ích vật chất cho người có quyền nhân thân. Thực tế, đây là các quyền phái sinh từ việc xác lập các quan hệ nhân thân giữa người có giá trị nhân thân với chủ thể khác. Bản thân quan hệ nhân thân là quan hệ xác lập với đối tượng không giá trị được thành tiền, không mang tính trao đổi ngang giá thì đương nhiên sẽ không thể tạo nên các giá trị vật chất cho các chủ thể trong quan hệ đó. Nên chính vì thế, những giá trị thu được khi xác lập quan hệ nhân thân chính là các lợi ích không mang tính vật chất.

Thứ ba, quan hệ nhân thân được xác lập với một bên chủ thể được ghi nhận quyền nhân thân và thực hiện quyền nhân thân của mình. Cơ sở để có thể xác lập được quan hệ nhân thân chính là chủ thể có quyền nhân thân và thực hiện quyền nhân thân của mình. Khi chủ thể được pháp luật ghi nhận quyền nhân thân của mình, thực hiện quyền nhân thân của mình thì chính là nguồn gốc để hình thành nên các quan hệ nhân thân. Chủ thể xác lập quyền nhân thân liên quan đến họ, tên của mình bởi vì chủ thể đó được ghi nhận quyền có họ, tên hoặc quyền thay đổi họ, tên.

Các quan hệ nhân thân được chia thành hai nhóm:

2. Những quan hệ nhân thân gắn với tài sản

Có nhiều quyền nhân thân chỉ được hình thành khi gắn với tài sản được tạo ra cụ thể. Ví dụ như, một tác giả của một bài hát chỉ được thừa nhận khi tác giả đó sáng tác được một bài hát cụ thể. Tương tự, quyền tác giả đối với phát minh, sáng chế sẽ chỉ được thừa nhận nếu như phát minh, sáng chế đó được tạo ra cụ thể. Các quyền nhân thân gắn với tài sản này được ghi nhận thể hiện tính chất đặc thù trong cơ chế hình thành và được thừa nhận của quyền nhân thân gắn với tài sản. Từ đó dẫn đến, các quan hệ nhân thân gắn với tài sản là những quan hệ nhân thân được xác lập bởi chủ thể mà chủ thể có quyền nhân thân gắn với tài sản và xác lập để thực hiện quyền này của mình.

Tuy là quan hệ nhân thân gắn với tài sản nhưng giá trị tài sản này cũng không chi phối đến tính chất của quan hệ nhân thân. Tức là, giá trị tài sản không làm cho giá trị quyền nhân thân xác định được nên quan hệ nhân thân gắn với tài sản vẫn không phải là quan hệ có tính trao đổi ngang giá tương đương.

3. Những quan hệ nhân thân không gắn với tài sản

Nhiều giá trị nhân thân ghi nhận các yếu tố nhân thân của một chủ thể mà không gắn với bất kỳ một tài sản nào như họ, tên, quốc tịch, quyền được sống, tính mạng, sức khoẻ, uy tín, danh dự, nhân phẩm hoặc mô, bộ phận cơ thể, quyền hiến xác, giới tính và giới tính được chuyển đổi. Trên cơ sở các giá trị nhân thân này, nhà làm luật ghi nhận các quyền nhân thân mà được hình thành không dựa trên sự ra đời, tồn tại của một tài sản cụ thể mà nó gắn với cá nhân khi cá nhân đó ra đời. Ghi nhận các quyền nhân thân này là cơ sở để các chủ thể mang quyền xác lập các quan hệ liên quan đến quyền của mình. Nói một cách khác, chính việc tham gia vào các quan hệ nhân thân, các chủ thể mới được thực hiện quyền nhân thân của mình.

Luật dân sự năm 2015 không điều chỉnh tất cả các quan hệ nhân thân trong xã hội, mà chỉ điều chỉnh những quan hệ nhân thân là căn cứ để xác định tư cách chủ thể trong quan hệ xã hội. Cho nên, các quan hệ về bầu cử, ứng cử vào Quốc hội, vào Hội đồng nhân dân các cấp không thuộc đối tượng của luật dân sự vì dù nó gắn với nhân thân của từng cá nhân nhưng không phải để xác định tư cách chủ thể trong quan hệ xã hội.

Như vậy, luật dân sự là ngành luật điều chỉnh các quan hệ nhân thân, quan hệ tài sản phát sinh trong đời sống tư với sự ngang bằng về địa vị pháp lý của các chủ thể.

Chấm dứt quan hệ nhân thân: Các quan hệ nhân thân cũng chấm dứt, trong đó điển hình là quan hệ hôn nhân. Quan hệ hôn nhân của người bị tuyên bố chết với chồng hoặc vợ của mình chấm dứt kể từ ngày xác định là ngày cá nhân đó chết. Người chồng hoặc vợ sẽ được hưởng thừa kế phù hợp với quy định của pháp luật.

Luật Minh Khuê [sưu tầm & biên tập]

Video liên quan

Chủ Đề