Vị vua đầu tiên của nhà đinh là ai

Lê Đại Hành [tên húy là Lê Hoàn], người Ái Châu [Thanh Hóa]. Cha của Lê Hoàn là Lê Mịch, mẹ của ông là Đặng Thị Sen. Truyền rằng: khi mẹ ông sắp sinh nằm mơ thấy trong bụng nở một bông sen, kết thành hạt, bà lấy chia cho mọi người, còn mình thì không được ăn, không hiểu nguyên do thế nào. Đến ngày 15 tháng 7 năm Tân Sửu, tức ngày 10 tháng 8 năm 941, thì Lê Hoàn được sinh ra [theo sách Đại Việt sử ký toàn thư]. Khi Lê Hoàn lên 7 tuổi, cha mẹ lần lượt qua đời. Có viên quan án Châu Ái-Thanh Hóa đưa ông về làm con nuôi. Lê Hoàn chịu khó chăm làm. Vào mùa đông một đêm trời giá rét, viên quan vào chỗ ông ngủ thấy có ánh sáng lạ, còn ông thì nằm úp cối, có con rồng vàng ấp lên trên. Từ đấy biết Lê Hoàn có tướng lạ, viên quan nuôi nấng dạy dỗ tử tế. Đến năm 16 tuổi, Lê Hoàn xin gia nhập đội quân của Đinh Bộ Lĩnh. Lê Hoàn tỏ rõ là người có tài được Đinh Bộ Lĩnh giao cho ông chỉ huy 2000 binh sĩ, rồi cầm quân đi đánh các sứ quân. Đến năm 968, Đinh Bộ Lĩnh đánh dẹp xong loạn 12 sứ quân, thống nhất đất nước, lập lên nhà Đinh. Nhờ tài năng quân sự, dũng cảm lại có ý chí nên ông rất được Đinh Bộ Lĩnh tin dùng. Năm 971, Lê Hoàn có công lao trong cuộc dánh dẹp và được phong chức Thập đạo tướng quân [tướng chỉ huy mười đạo quân], Điện tiền chỉ huy sứ [tức chức vụ tổng chỉ huy quân đội cả nước Đại Cồ Việt], trực tiếp chỉ huy đội quân cấm vệ của triều đình Hoa Lư [lúc đó ông mới 30 tuổi].
Tháng 10 năm 979, cha con Đinh Tiên Hoàng và Đinh Liễn bị Đỗ Thích giết hại, ông cùng Nguyễn Bặc, Đinh Điền đưa Vệ vương Đinh Toàn lên ngôi, lúc đó Đinh Toàn mới 6 tuổi. Lê Hoàn trở thành Nhiếp chính, tự do ra vào cung cấm trong một tình thế đầy khó khăn. Các đại thần thân cận của Đinh Tiên Hoàng nổi dậy chống lại Lê Hoàn nhưng bị Lê Hoàn nhanh chóng đánh dẹp. Ngô Nhật Khánh [phò mã nhà Đinh], bỏ trốn vào Nam rước vua Champa cùng hơn nghìn chiến thuyền định cướp kinh đô Hoa Lư nhưng bị bão đắm chết.

Đền thờ Lê Đại Hành [941-1005],tại làng Trung Lập xã Xuân Lập huyện Thọ Xuân tỉnh Thanh Hóa

Thấy triều đình rối ren, quân Tống bên Trung Quốc có ý định tiến sang xâm lược Đại Cồ Việt. Vua Tống nhiều lần viết thư sang dụ và de dọa bắt triều đình phải quy phụ đầu hàng: “ Nếu quy phụ thì ta tha cho, bằng trái lệnh thì ta quyết đánh…”. Trước tình hình đó, Thái hậu Dương Vân Nga giao nhiệm vụ cho Lê Hoàn tổ chức và chỉ đạo cuộc kháng chiến. Trong cuộc họp bàn kế hoạch xuất quân, Đại tướng Phạm Cự Lạng đề nghị tôn Lê Hoàn lên làm vua, thay cho vua nhỏ Đinh Toàn. Thái hậu Dương Vân Nga và quân sĩ đồng thanh ủng hộ. Dương Thái hậu đã sai người lấy áo long cổn khoác lên cho ông, Lê Hoàn lên ngôi [tức vua Lê Đại Hành], nhà Tiền Lê thành lập. Ông đặt niên hiệu là Thiên Phúc, quốc hiệu vẫn là Đại Cồ Việt, đóng đô tại Hoa Lư, ổn định tình hình nội bộ, rồi chia quân phòng giữ các nơi hiểm yếu. Lê Đại Hành cử Phạm Cử Lạng làm tướng quân.

Năm 981 quân Tống sang xâm lược nước ta. Lê Đại Hành chỉ huy đi chống Tống, sai người cắm cọc ngăn sông. Tại sông Bạch Đằng, thủy quân Tống bị quân Đại Cồ Việt chặn đánh, dù rất mạnh về thế trận, nhưng những chiến thuyền Tống bị thủng bỏi những chiếc cọc sông dày đặc. vì thế quân Tống không thể tiến sâu vào nội địa được. Thủy quân Tống thất bại. Khi quân Hầu Nhân Bảo [quân Tống] kéo đến Chi Lăng, Lê Đại Hành vờ xin hàng để đánh lừa, rồi phục binh đổ ra dánh dữ dội. Số quân địch bị têu diệt hơn phân nửa. Dưới sự chỉ huy của Lê Đại Hành, quân ta đã đập tan cuộc xâm lược nhà Tống.

Năm 982 Lê Đại Hành cử Ngô Tử Canh và Từ Mục đi sứ Chiêm Thành [một nước ở phía nam] và bị vua Chiêm Thành bắt giữ. Lê Đại Hành tức giận, “ sai đóng chiến thuyền, sửa binh khí và chỉ huy đi đánh, chém Bê Mi Thuế tại trận. Bắt sống được nhiều quân sĩ, lấy các đồ quý đem về, thu được rất nhiều vàng bạc, san phẳng thành trì, phá hủy tông miếu, vừa một năm thì trở về kinh sư”. Lê Đại Hành cũng rất quan tâm đến vùng đất phía nam, đã tiến hành 6 hoạt động quân sự lớn trong suốt thời gian ông trị vì. Ông đích thân cầm quân đánh dẹp của các thế lực cát cứ và xâm lấn, không những bảo vệ chắc biên giới mà còn chuẩn bị cho quá trình Nam tiến của người Việt, mở rộng thêm biên giới lãnh thổ.

Trong những năm Lê Đại Hành làm vua, ông đã cho xây dựng nhiều cung điện ở kinh đô Hoa Lư, đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp[ tổ chức lễ cày tịch điền hàng năm để khuyến khích nhân dân sản xuất nông nghiệp, cho quân sĩ đào đắp nhiều kênh, đê, mở mang đường sá…]. Ông là người đầu tiên tổ chức đào sông. Công trình đào sông của nhà Lê[ hiện nay vẫn còn ở Thanh Hóa và là một di tích lịch sử].

Phục dựng Lễ tịch điền, một Lễ hội đầu xuân do vua Lê Đại Hành tổ chức đầu tiên nhằm khuyến khích sản xuất nông nghiệp.

Lê Đại Hành sử dụng chính sách ngoại giao mềm dẻo, khôn khéo nhưng cương quyết. Có lần sứ Tống đòi Lê Đại Hành quỳ nhận sắc phong của vua Tống. Ông lấy cớ là đau chân nên không quỳ. Sứ Tống không làm gì được. Lê Đại Hành thường xuyên sai sứ sang nhà Tống để giữ vững mối quan hệ hòa hiếu giữa hai nước.

Giữa năm 1005, ông mất. Miếu hiệu vẫn là Đại Hành Hoàng đế. Ông ở ngôi 24 năm, thọ 65 tuổi. Trong 24 năm làm vua, ông đặt niên hiệu: Thiên Phúc [980 – 988]; Hưng Thống [989 – 993]; Ứng Thiên [994 – 1005].

                                                                                                                    [ Theo Bảo tàng lịch sử Việt Nam]

Quốc hiệu Đại Cồ Việt, kinh đô Hoa Lư, 12 năm, 2 đời vua

1. Đinh Tiên Hoàng [Đinh Bộ Lĩnh 968-979]

Đinh Bộ Lĩnh người động Hoa Lư, châu Đại Hoàng [Hoa Lư, Ninh Bình], con trai ông Đinh Công Trứ, một nha tướng của Dương Đình Nghệ, giữ chức thứ sử Châu Hoan. Cha mất sớm, Đinh Bộ Lĩnh theo mẹ về quê ở, thường đi chăn trâu, bắt lũ trẻ khoanh tay làm kiệu để ngồi cho chúng rước và lấy bông lau làm cờ bày trận giả đánh nhau. Lớn lên rất thông minh, có khí phách và có tài thao lược. Thấy nhân dân khổ sở vì loạn 12 sứ quân, Ông dựng cờ nghĩa, mong lập nghiệp lớn. Đinh Bộ Lĩnh theo về dưới cờ của Trần Minh Công [Trần Lãm] ở Bố Hải Khẩu, được Trần Lãm nhận làm con nuôi. Khi Trần Lãm mất, Đinh Bộ Lĩnh thay quyền đem quân về giữ Hoa Lư, chiêu mộ hào kiệt để dẹp loạn 12 sứ quân.

Năm Mậu Thìn [968] sau khi dẹp xong loạn 12 sứ quân, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi Hoàng đế lấy niên hiệu là Tiên Hoàng đế, đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt, đóng đô ở Hoa Lư.

Đinh Tiên Hoàng phong cho Nguyễn Bặc là Định Quốc công, Lê Hoàn làm Thập đạo Tướng quân và phong cho con là Đinh Liễn là Nam Việt Vương.

Năm Kỷ Mão [979] Đinh Tiên Hoàng và Đinh Liễn bị tên thái giám là Đỗ Thích giết chết trong khi uống rượu ngủ say. Đinh Tiên Hoàng làm vua được 11 năm, thọ 56 tuổi.

2. Đinh Phế Đế [Đinh Toàn 979-980]

Đinh Toàn mới lên 6 tuổi, được triều thần đưa lên ngôi vua. Nhân cơ hội đó nhà Tống cho quân sang xâm lược nước ta.

Vì lợi ích của dân tộc, Thái hậu Dương Vân Nga [vợ của Đinh Tiên Hoàng, mẹ đẻ của Đinh Toàn], thể theo nguyện vọng các tướng sĩ, đã trao áo "Long Cổn" [biểu tượng của ngôi vua] cho Thập đạo Tướng quân Lê Hoàn, tức là Lê Đại Hành.

Chỉ trong vòng một tháng, dưới sự chỉ huy tài giỏi tuyệt vời của vua Lê Đại Hành, quân và dân Đại Cồ Việt đã phá tan được quân Tống trên cả hai mặt trận thủy và bộ.

Khúc sông Chi Lăng [sông Thương chảy qua xã Chi Lăng, Lạng Sơn], quân ta bắt sống tướng giặc là Hầu Nhân Bảo đem chém đầu.

Mặt trận Tây Kết, Trần Khâm Tộ cũng bị quân ta phá vỡ, bắt sống tướng giặc là Quách Quân Biện, Triệu Phụng Huân đem về Hoa Lư.

Năm 981 đã mở ra một kỷ nguyên mới cho tổ quốc ta.

1. Triều đại nhà Ngô [939 – 965] trị vì 25 năm

Sau khi Ngô Quyền đánh thắng quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng năm 938. Nhà vua đã bỏ Tống Bình [Đại La], thành phố do người Trung Quốc thiết lập và lên ngôi tại Cổ Loa [kinh đô của vương quốc Âu Lạc xưa]. Nhà vua mới thiết lập một triều đình nhưng còn trong tình trạng trứng nước và vương quyền cũng mới chỉ là một tước hiệu hơn là một quyền lực.

Các lực lượng tồn tại dai dẳng ở địa phương luôn có khuynh hướng chia nhỏ lãnh thổ. Ngô Quyền đã phải mất 6 năm tại ngôi để đánh bại các cuộc nổi dậy của các sứ quân; và qua đời quá sớm vào năm 944, khi ấy nền hành chính chưa thống nhất, triều đình chưa được tổ chức xong; khắp nơi trong nước các tướng lĩnh nổi dậy và giao chiến với nhau dẫn đến việc thành lập 12 sứ quân. Đất nước bị xâu xé, dân chúng khát khao hòa bình và thống nhất cần thiết cho nông nghiệp. Ý chí của quần chúng nhân dân được thể hiện nơi Đinh Bộ Lĩnh.

2. Triều đại nhà Đinh [968 – 980] trị vì 12 năm

Đinh Bộ Lĩnh là con của một thứ sử ở Hoan Châu, người Hoa Lư [Ninh Bình]. Hồi nhỏ ông đã khiến các trẻ chăn trâu phải kiêng nể và tôn làm thủ lĩnh của chúng. Lũ trẻ khoanh tay làm kiệu để ông ngồi; lấy bông lau làm cờ, lấy tre làm giáo, và dưới quyền điều khiển của ông, kéo nhau đi tấn công lũ trẻ con các làng bên cạnh. Lớn lên, ông tới phục vụ cho sứ quân ở Bố Hải Khẩu [Thái Bình]. Thấy ông là người thông minh và dũng cảm, vị sứ quân này giao cho ông nắm giữ binh quyền. Sau khi sứ quân mất, Đinh Bộ Lĩnh đóng binh vững chắc ở Hoa Lư và lần lượt bắt các sứ quân khác phải hàng phục.

Năm 968, sau khi tái thống nhất đất nước, Đinh Bộ Lĩnh lấy tước hiệu là Đinh Tiên Hoàng đế, đặt tên nước là Đại Cồ Việt, đóng đô ở Hoa Lư [Ninh Bình].

Vào năm 979, vua Đinh Tiên Hoàng đã bị một viên thư lại trong cung điện ám sát dẫn đến sự ra đời của nhà Tiền Lê.

Cố đô Hoa Lư [Ninh Bình] ngày nay, kinh đô xưa của hai triều đại nhà Đinh và Tiền Lê. Ảnh: Internet.

Gạch xây thành thời Đinh – Tiền Lê. Ảnh: BTLSQG

3. Triều đại nhà Tiền Lê [980 – 1009] trị vì 29 năm

Do Vệ Vương [Đinh Toàn] là con trai của vua Đinh Tiên Hoàng lúc lên ngôi mới có 6 tuổi. Nên mọi quyền hành đều nằm trong tay Thập Đạo tướng quân Lê Hoàn. Nhà Tống tính lợi dụng lúc vua còn nhỏ để lập nên ách đô hộ của Trung Quốc. Nhưng khi ấy những người theo phò tá Lê Hoàn đã tôn ông lên làm vua để chống lại quân giặc. Thái hậu Dương Vân Nga thể theo nguyện vọng của các tướng sĩ đã khoác áo bào cho Lê Hoàn.

Được sự tín nhiệm của đình thần, Lê Hoàn lấy tước hiệu là vua Lê Đại Hành đã cầm quân đánh thắng quân Tống vào năm 981. Nhưng thế lực của nhà Tống vẫn còn đáng sợ nên nhà vua đã xin cầu hòa với nhà nước Khai Phong và được Khai Phong chấp nhận. Có được hòa bình với Trung Quốc, Lê Đại Hành đã tổ chức đạo quân sang đánh Chămpa. Sau khi có được sự kính nể của cả phía Bắc và phía Nam đối với Đại Cồ Việt vua Lê Đại Hành đã cho làm đường và đào kênh để phát triển giao thông và kinh tế. Theo gương các triều đại Trung Quốc, Lê Đại Hành lập lễ tịch điền bằng cách đích thân cày những luống cày đầu tiên để vỡ đất. Ông cũng là vị vua đầu tiên cho đúc tiền Thiên Phúc [trước đó nước ta đều sử dụng tiền của Trung Quốc].

Đồng tiền “Thiên Phúc Trấn Bảo”. Ảnh: BTLSQG

Ông mất vào năm 1005 sau 24 năm trị vì và củng cố nền móng Việt Nam. Năm 1009 sau khi ông mất, con ông còn nhỏ, đình thần đã tôn một vị quan cao cấp là Lý Công Uẩn lên làm vua. Nhà Tiền Lê kết thúc.

Covatvietnam.info tóm tắt

Video liên quan

Chủ Đề